Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chúng tôi học Duy Thức (6)

10/04/201313:56(Xem: 7166)
Chúng tôi học Duy Thức (6)

Chúng tôi học Duy Thức
(tiếp theo)

Tâm Minh


Thân kính tặng ACE Áo Lam


Sau khi được giới thiệu ‘bề ngoài ‘ của căn nhà Duy Thức, chúng tôi tiến sâu thêm một chút vào bên trong ; bắt đầu bằng bài kệ :

‘Anh em 8 chú một chàng si . . .

Làm chủ trong nhà Đệ Bát Y ‘

Thì ra thức thứ 8 mới là ‘ Ông Chủ’ Hôm nay ACE chúng tôi quyết ‘ làm quen ‘ với Ông Chủ A lại Da thức này ( và nhắc nhở nhau rằng, ng chủ’ hay ‘người bán hàng’ v.v.. đều là biểu hiện của ‘Tâm’ hết đó nha ! J J !!)

Thức thứ 8 ( còn được gọi là Tàng thức hay A lại Da thức ) đưọc xem là thức căn bản của mọi hiện tưọng . Tàng= kho chứa - Thức này chứa đựng mọi kinh nghiệm của đời sống mỗi con ngưòi và là nguồn gốc tất cả các hiện tượng tinh thần ; bởi vì như đã biết : thức thứ 7 là Mạt na đã đem các pháp hiện hành huân chứa vào cái ‘kho’ vô tận này.

Khái niệm A Lại da thức là cơ sở của Duy Thức Tông, qua đó người ta giải thích sự hiện hữu của ‘cái gọi là con người ’ - ‘cá nhân’, cái mà Mạt na chấp là ‘cái Ta’ hay ‘ cái Tôi’ vậy. Tất cả những ghi nhận của mắt, tai, mũi, lưỡi, tất cả những việc làm của thân , miệng, ý ( gọi chung là nghiệp : thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp ) đều được tích lũy trong A Lại Da Thức , dưới hình thức ‘ những hạt giống’ , đợi nhân duyên đầy đủ sẽ ‘hiện hành’ Nói cách khác, khi các hạt giống đang ngủ yên trong Tàng thức thì gọi là Nhân, khi đầy đủ các trợ duyên ,nó hiện khởi ra thì gọi làQuả .Ví dụ : trong tâm thức chúng ta luôn có những hạt giống thiện và bất thiện , khi gặp thuận duyên sẽ hiện khởi ngay - như những hạt giống của sân hận, giận dữ - nếu gặp thuận duyên ( bị ai chọc tức, khiêu khích, mắng chưởi, đánh đập v..v..) thì những hạt giống đó sẽ hiện hành ngay ( đỏ mặt, giận dữ, phản ứng , đánh đập hay mắng chưởi lại v..v..) những hành động mới hiện hành này lại gây ra những hạt giớng mới, những chủng tử mới của nghiệp, lại được huân vào Tàng thức v..v. . tạo ra cái vòng lẩn quẩn , tiếp tục tạo tác và chịu sự chi phối của nhân quả luân hồi . Những hạt giống tư tưởng trong A Lại da thức cũng như mầm mống của hạt giống trong cây chanh chẳng hạn : hoa chanh và trái chanh tuy chưa xuất hiện nhưng nó đã có tiềm tàng trong cây chanh , chỉ chờ hội đủ thời gian, sự tưới tẩm, bón phân , thời tiết v..v. thì sẽ đơm hoa kết trái mà thôi . Ngoài ra Nhất Thiết hữu Bộ còn gọi hiện tượng này là Căn bản thức nghĩa là các hạt giống tâm thức giống như biểu hiện của sóng & nước ( sóng và nước là một, sóng luôn hiện hữu trong nước - không có nước thì không thể nào có sóng được )

Về đặc tính của A Lại Da thức, Mạt Na thức và 6 thức kia, có bài tụng cho dễ nhớ như sau ( bài Việt dịch của thầy Thiện Hoa ) :

Hằng thẩm tư lương ngã tương tùy ( Hằng xét đo lường theo chấp ngã

Hữu tình nhật dạ trấn hôn mê Hữu tình ngày đêm bị mê muội

Tứ hoặc bát đại tương ưng khởi 4 hoặc, 8 đại chung nhau khởi

Lục chuyển hô vi ‘nhiễm tịnh y’ 6 thức gọi là ‘nhiễm tịnh y’ )

( 4 hoặc = 4 căn bản phiền não : Si, Kiến, Mạn, Ái ; 8 đại = 8 món tùy phiền não)

Chi ly hơn một chút, Bát thức qui cũ tụng cũng có nói thêm :

Thức thứ 8 có Hằng mà không Thẩm xét

Thức thứ 7 ,vừa Hằng lại vừa Thẩm xét

Thức thứ 6 , có Thẩm xét mà không Hằng

5 Thức trước ,không Hằng và không Thẩm

( đối với ACE chúng tôi, chữ khó ở đây là Hằng và Thẩm . Hằng = permanent, always = luôn luôn (có mặt 24/24) ; Thẩm = khảo sát, thẳm sát, lo nghĩ, tư lượng, lo nghĩ ,tính toán v..v..= reflecting )

Các bài tụng cũng nói rằng tính chất của Tàng thức là vô phú và vô ký ( vô phú = không bị vây bủa, ngăn che ; vô ký = không bị chi phối bởi thiện hay ác ) . Sự hiện hữu của nó trôi chảy như dòng sông ( hằng chuyển như bộc lưu) ,không thể nói là thường hằng hay đoạn diệt.

Buổi học hôm nay đưa đến cho ACE chúng tôi những bài học sau :

1) Sự huân tập đóng vai trò thật quan trọng trong đời sống chúng ta . Những điều mắt thấy tai nghe, những hành động của thân, miệng, ý v..v.. đươc cất kỹ vào Tàng thức chờ ngày xuất hiện ; vì vậy chúng ta phải rất cẩn trọng trong việc tu tập của chính bản thân và giáo dục đàn em , con em của chúng ta . Về bản thân, chúng ta phải năng tưới tẩm những hạt giống thương yêu hiểu biết , từ bi, trí tuệ , tinh tấn v..v.. vì chúng là những hạt nhân khi đủ nhân duyên sẽ đơm hoa kết trái an lạc , hạnh phúc ; và tìm cách diệt những hạt giống sân hận , tham lam, ích kỷ như người làm vườn chăm chỉ tưới cây ,bắt sâu, bón phân cho những cây lan, khóm hồng ,cây cam cây quýt và xịt thuốc để diệt cỏ dại vậy . Sâu ăn hại cây , cỏ dại chiếm đất làm cây khô héo hay giết chết cây v..v. là những chủng tử xấu, cần phải đề phòng, đừng để chúng được ( hay ‘bị’) huân vào A Lại da Thức, vì khi đủ duyên ,chúng sẽ hiện khởi thành những hành vi tội lỗi, lời nói độc ác, có năng lực làm hại mọi người và hại cả bản thân mình .

2) Đối với các em, chúng ta phải là những gương tốt , đừng ‘ làm một đường nói một nẻo’ đừng thất hứa với các em, đừng dạy các em những thói quen xấu ( cờ bạc, rượu chè, mánh mung, ăn nói bậy bạ , nói xấu lẫn nhau, mất đòan kết, la mắng hay dùng những lời không đẹp với nhau v..v..- ở đây chúng ta có rất nhiều điều cần tự cảnh giác mình , vì không thể kể hết được) . Chúng ta dạy các em Phật Pháp, Chuyên Môn, Trò Chơi , tiếng Việt v..v.. qua những lời hay ý đẹp , đó là chúng ta đã huân vào Tàng thức của các em một vườn hoa trái tương lai sẽ đơm bông kết quả , như trao tặng các em một hành trang tinh thần quí giá của Anh Chị HTr. /GĐPT trước khi các em vào đời.

3) Bài học thứ 3 là dựa vào tính chất của Tàng Thức ( vô phú, vô ký), ta thấy rõ Tàng thức rất thụ động, nó không phân biệt tốt xấu ; nó thuần túy là ‘cái kho chứa,’ vàng bạc châu báu, bông hoa thơm tho v..v.. cũng chứa, mà rác rưởi hôi tanh dơ bẩn cũng chứa hết ; cho nên Tàng thức không thể đóng vai trò giải thoát khỏi những tập khí ô nhiễm v..v.. được . Vì thế vai trò lảnh đạo để ‘vượt ngục’ sinh tử luân hồi chính là vai trò của Ý thức. Chỉ có ý thức - cái thường linh hoạt suy nghĩ bao la vũ trụ đó- suy nghĩ tốt lành cũng nó mà suy nghĩ xấu ác cũng nó . Chính nó đồng thời có thể gieo vào Tàng thức những hạt giống (chủng tử) thánh thiện tốt lành, vừa ‘kiểm điểm, góp ý, phê bình’ để chuyển hoá ‘bệnh’ si mê chấp ngã cuồng dại của Mạt na. Bởi vậy dù tu theo pháp môn nào, chúng ta cũng thấy ‘bí quyết ‘ vẫn là ‘cột cái Ý lại’ như cột con trâu lòng đừng cho nó chạy tứ tung phá hại lúa mạ của người khác vậy - Muốn tu hành có kết quả, ta phải làm chủ Ý.

4) Bài học thứ 4 là về cái mà chúng ta thường gọi là ‘nghiệp’ . Nghiệp là gì ? Nghiệp có phải là một hình phạt từ trên trời rơi xuống hay 1 tai họa ‘vô cớ’ dính vào ta hay không ? Không, nghiệp là những hành động có tác ý của thân, miệng, ý đã được huân vào trong Tàng thức như những chủng tử, đợi có đủ cơ duyên thuận tiện sẽ xuât hiện như một cái quả vừa đủ thời gian để chín muồi. Đức Phật cũng dạy : ‘ Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp; nghiệp là quyến thuộc, là thai tạng mà từ đó con người được sinh ra. Như thi hào Nguyễn Du cũng được xem như am hiểu Phật Pháp khi Ông viết ( trong truyện Kiều) :

‘Đã mang lấy nghiệp vào thân,
Cũng đừng trách lẩn trời gần trời xa’

để nói lên trách nhiệm của con người trước luật Nhân Quả : gieo lúa thì được gạo, gieo hạt cam thì hái trái cam, gieo gió thì gặt bão v..v..không thể nào gieo hạt cam mà đòi có trái bưởi được.

5) Bài học thứ 5 là về tinh thần giáo dục Phật giáo nói chung, tinh thần giáo dục trong GĐPT nói riêng. Chúng ta thấy rất rõ sự tiến triễn tâm lý con người phát triển từ bên trong mà ra chứ không phải chỉ từ sự thúc đẩy bên ngoài mà có. Thực tế cho thấy các trẻ em cùng cha mẹ, hưởng 1 cuộc sống vật chất và tinh thần như nhau nhưng tính tình có thể rất khác nhau, thậm chí hai anh / chị em song sinh có khi tính tình cũng không giống nhau. Vì vậy giáo dục phải lấy đứa trẻ ( con người) làm khởi điểm, phải căn cứ trên tâm lý của nó chứ không phải là của người dạy nó, tâm lý này không phải là cố định, theo đúng mẫu mã nào, mà là luôn luôn biến đổi, chuyển hoá không ngừng . Vì thế chúng ta, những người HTr. GĐPT cần phải theo kịp tinh thần giaó dục tự chủ, tự giác, năng động, sáng tạo v..v.. một nền giaó dục có tính cách đánh thức con người, và trả con người về cho chính nó ( như chúng ta thường nghe chư Phật chư Tổ bảo ‘ đi tìm bản lai diện mục ‘ ) mà đức Phật đã dạy cho đệ tử của ngài cách đây gần ba ngàn năm .

6) Bài học cuối cùng của ACE chúng tôi hôm nay lại cũng là một bài về ‘ thuật ngữ ‘ DTH hay là vấn đề ‘chữ một’ : đó là 3 chữ ‘ cảnh’ , ‘tánh’ và ‘lượng’

***Cảnh: có 3 cảnh : tánh cảnh:là tự thân của thế giới thực tại khách quan (the realm of things in themselves) Tánh= bản chất ; cảnh= đối tượng

Vậy tánh cảnh= bản chất của đối tượng = bản chất của thế giới thực tại khách quan đới chất cảnh: là hình ảnh về một thực tại nào đó trong tri giác của ta = ảnh tượng được nương vào và sinh bởi tánh cảnh = cảnh đuợc mang theo, được phản ánh từ thực tại ( ví dụ khi ta thuơng hay ghét một người nào đó thì hình ảnh của người ấy trong lòng ta là hình ảnh được sáng tạo bởi tâm thức chứ không phải hình ảnh của người ấy trong thực tế ; nói các khác, đó là hình ảnh đã bị ‘ méo mó’ qua suy diễn của tâm phân biệt , vì vậy Thiền quán dạy ta buông bỏ những đới chất cảnh ( ảo ảnh) để thể nhập vào tánh cảnh .

độc ảnh cảnh :thế giới ảnh tượng chỉ có trong tâm thức chứ không có trong thực tế ( như trong giấc mộng ) ; cũng là một biểu hiện của Tàng thức A lại da

Trong 3 Cảnh này Tàng thức chỉ quan hệ với (hay duyên với) Tánh Cảnh

***Tánh:cũng có 3 Tánh là Thiện, Bất thiện và Vô ký (= trunbg tính= không thiện không ác) . Trong 3 tánh này, Tàng thức duyên với vô ký

***Lượng: là hình thái của nhận thức , cũng có 3 lượng :

Hiện lượng : trực giác ( nhận thức trực tiếp, không cần qua suy luận) . Trực giác có thể đúng hay sai , nếu đúng thì gọi là chân hiện lượng, sai thì gọi là tợ hiện lượng

Tỷ lượng: phải dùng đến suy luận . Cũng vậy, tỷ lượng có thể đúng ( = chân tỷ lượng) hay sai (tợ tỷ lượng)

Phi lượng : bao gồm tợ hiện lượng và tợ tỷ lượng

Trong 3 Lượng, Tàng thức chỉ duyên với Hiện lượng

Buổi học chấm dứt tại dây với lời nhắc nhở nhau nhớ học thuộc định nghĩa của 3 Cảnh, 3 Tánh và 3 Lượng , đừng có nhầm Tánh Cảnh với 3 Tánh đó nha !J J !! Có như vậy sau này nói đến các mối quan hệ của Mạt na với 3 Cảnh, 3 tánh và 3 Lượng mới hiểu và khỏi nhầm lẫn được .


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/02/2021(Xem: 5448)
Phật Giáo Việt Nam kể từ khi lập quốc (970) đến nay đã đóng góp rất lớn cho nền Văn Học Việt Nam qua các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần..v..v.. nhưng không có một Quốc Sử Việt Nam nào ghi nhận cả, điều đó thật là đau buồn, mặc dù Phật Giáo Việt Nam thời bấy giờ và cho đến bây giờ không cần ai quan tâm đến. Phật Giáo Việt Nam nếu như không có công gì với núi sông thì đâu được vua Đinh Tiên Hoàng phong Thiền sư Ngô Chân Lưu đến chức Khuông Việt Thái Sư và chức Tăng Thống Phật Giáo Việt Nam vào năm Thái Bình thứ 2 (971). Cho đến các Thiền sư như Pháp Thuận, Vạn Hạnh,v..v.... đều là những bậc long tượng trong trụ cột quốc gia của thời bấy giờ, thế mà cũng không thấy một Quốc Sử Việt Nam nào ghi lại đậm nét những vết son cao quý của họ.
23/02/2021(Xem: 10445)
Văn học thời Trần là giai đoạn văn học Việt Nam trong thời kỳ lịch sử của nhà Trần (1225 – 1400). Văn học thời Trần tiếp tục và có nhiều bước tiến bộ rõ rệt hơn so với văn học thời Lý (1010 – 1225). Văn học thời Trần chịu ảnh hưởng của Phật giáo và Nho giáo. Tư tưởng Phật giáo chủ yếu trong văn học thời Trần là tư tưởng thiền học.
23/02/2021(Xem: 9255)
Trong nội dung của ấn bản lần thứ hai của quyển “Tư tưởng Phật giáo trong Văn học thời Lý”, chúng tôi vẫn giữ những điểm chính quan trọng của ấn bản lần thứ nhất. Tuy nhiên, chúng tôi đã sửa chữa và bổ sung một vài nơi. Chúng tôi đánh giá cao sự góp ý và phê bình của: GS Lưu Khôn (Cựu GS tại trường ĐHVK Saigon và Cần Thơ), GS Khiếu Đức Long (Cựu GS tại ĐH Vạn Hạnh), Ô. Nguyễn Kim Quang (Cựu học sinh Lycée Petrus Ký 1953-1960), cố Kỹ Sư Nguyễn Thành Danh (Vancouver, Canada). Trong khi viết quyển sách này lần thứ nhất vào năm 1995, chúng tôi đã được sự giúp đỡ và góp ý của các thân hữu: cố Hoà Thượng Thích Nguyên Tịnh (Cựu Trú trì Chùa Thiền Tôn, Vancouver, Canada), cố GS Nguyễn Bình Tưởng (Cựu Hiệu Trưởng trường Trung Học Vĩnh Bình, và Cựu Giám Học trường Trung Học Nguyễn An Ninh, Saigon), chúng tôi chân thành cám ơn quý vị này.
20/02/2021(Xem: 6564)
Thơ tụng tranh chăn trâu của thiền sư Phổ Minh gồm tất cả mười bài thơ “tứ tuyệt” cho mười bức tranh chăn trâu với các đề mục sau đây: 1. Vị mục: chưa chăn 2. Sơ điều: mới chăn 3. Thọ chế: chịu phép 4. Hồi thủ: quay đầu 5. Tuần phục: thuần phục 6. Vô ngại: không vướng 7. Nhiệm vận: theo phận 8. Tương vong: cùng quên 9. Độc chiếu: soi riêng 10. Song mẫn: cùng vắng
20/02/2021(Xem: 8958)
Kinh Hoa Nghiêm được giải thích là kinh đầu tiên khi Phật đạt chánh đẵng chánh giác sau 49 ngày thiền định. Sau đó người giảng kinh Hoa Nghiêm cho chư thiên và bồ tát là giảng bằng thiền định tâm truyền tâm nên im lặng suốt 21 ngày. Kinh Hoa Nghiêm nói về Tâm. Kế đến Kinh Lăng Già Phật cũng giảng cho Ma vương và ma quỷ sống trong hang động ở đỉnh núi Lăng Già. Phật giảng bằng tâm truyền tâm ấn nên không có nói bằng lời và giảng về Thức vì Ma vương không còn uẩn sắc nữa mà chỉ còn là tâm thức. Kinh Lăng già là giảng về Duy Thức Luận. (bài viết của cư sĩ Phổ Tấn)
20/02/2021(Xem: 5126)
Washington: Theo báo cáo của The Economist, Trong nỗ lực mới nhất nhằm thắt chặt vòng vây Tây Tạng, Trung Cộng đang buộc người Tây Tạng ít quan tâm đến tôn giáo của họ hơn, và thể hiện nhiệt tình hơn đối với chế độ độc tài của Đảng Cộng sản Trung Quốc do Tập Cận Bình lãnh đạo tối cao. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tăng cường nỗ lực phủ nhận vai trò của Đức Đạt Lai Lạt Ma ra khỏi đời sống tôn giáo của người dân Tây Tạng để xóa bỏ danh tính của họ. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã cưỡng chiếm Tây Tạng vào giữa thế kỷ 20 sau thập niên 1950, và kể từ đó đã kiểm soát khu vực cao nguyên tại Trung Quốc, Ấn Độ, Bhutan, Nepal, và Pakistan tại châu Á, ở phía bắc-đông của dãy Himalaya..
17/02/2021(Xem: 5321)
Nội dung tác phẩm dựa trên một bức tranh nổi tiếng có tên là “Thanh minh thượng hà đồ” (nghĩa là “tranh vẽ cảnh bên sông vào tiết Thanh minh”) của nghệ sĩ Trương Trạch Đoan vào thời nhà Tống cách đây hơn 1000 năm. Thiên tài Albert Einstein đã từng nói: “Nghệ thuật thật sự được định hình bởi sự thôi thúc không thể cưỡng lại của người nghệ sĩ sáng tạo”. Và một nghệ sĩ điêu khắc người Trung Quốc – Trịnh Xuân Huy đã chứng minh điều đó qua kiệt tác nghệ thuật của ông trên một thân cây dài hơn 12 mét. Chắc chắn bạn sẽ phải ngạc nhiên về một người có thể sở hữu tài năng tinh xảo đến như vậy!
17/02/2021(Xem: 5761)
Một quán chiếu về những ánh lung linh trên bề mặt một hồ nước gợn sóng lăn tăn bởi làn gió nhẹ. Một con sông khổng lồ của si mê tin tưởng sai lầm tâm-thân là tồn tại cố hữu tuôn chảy vào hồ nước của việc hiểu sai cái "tôi" như tồn tại cố hữu. Hồ nước bị xáo động bởi những làn gió của tư tưởng phiền não chướng ngại ẩn tàng và của những hành vi thiện và bất thiện. Sự quán chiếu ánh trăng lung linh biểu tượng cho cả trình độ thô của vô thường, qua sự chết, và trình độ vi tế của vô thường, qua sự tàn hoại từng thời khắc thống trị chúng sanh. Ánh lung linh của những làn sóng minh họa tính vô thường mà chúng sanh là đối tượng, và quý vị thấy chúng sinh trong cách này. Bằng sự ẩn dụ này, quý vị có thể phát triển tuệ giác vào trong vấn đề chúng sinh bị kéo vào trong khổ đau một cách không cần thiết như thế nào bằng việc điều hướng với tính bản nhiên của chính họ; tuệ giác này, lần lượt, kích hoạt từ ái và bi mẫn.
16/02/2021(Xem: 4628)
Nói về pháp khí, nhạc khí của Phật giáo là nói đến chuông, trống và mõ. Trong ba pháp cụ đó. Tiếng chuông chùa đã gợi nguồn cảm hứng không ít cho những văn, thi sĩ. Hiện nay rất ít tài liệu nói về nguồn gốc của chuông, trống và mõ. Sự kiện trên khiến các học giả nghiên cứu về chuông, trống, mõ gặp trở ngại không nhỏ. Tuy thế dựa vào bài Lịch sử và ý nghĩa của chuông trống Bát nhã do thầy Thích Giác Duyên viết đã đăng trong Thư Viện Hoa Sen, khiến chúng ta biết được người Trung Hoa đã dùng chuông vào đời nhà Chu ( thế kỷ 11 Trước CN – 256 Trước CN ). Riêng việc chuông được đưa vào các chùa chiền ở Việt Nam từ thời nào người viết không biết có tài liệu nào đề cập đến không?
14/02/2021(Xem: 5211)
Pháp Hoa kinh là vua của các kinh vì ở vào thời kỳ thứ 5 trong lịch sử đạo Phật. Lúc bấy giờ là cuối đời thọ mạng của đức Phật nên kinh giảng của người mang toàn bộ tính chất của đạo Phật do người thuyết pháp. Có hai cốt lỏi của kinh Pháp Hoa là Phật tánh và Tri kiến Phật. Phật tánh đã được tóm lược trong bài Nhận biết Phật tánh cùng tác giả. Tri là biết, kiến là thấy, biết thấy Phật là gì? Biết là tuệ giác người dạy cho chúng ta và thấy là thấy đại từ bi của Phật. Đó là trí tuệ và từ bi là đôi cánh chim đại bàng cất cao bay lên trong tu tập. Chúng ta nghiên cứu trí tuệ của toàn bộ đạo Phật một cách tổng luận để tư duy, về phần từ bi chúng ta đã hiểu qua bài Tôi Học kinh Pháp Hoa đồng tác giả. Trí tuệ đạo Phật có gồm hai phần triết lý đạo Phật và ứng dụng. Tri kiến Phật là nắm hết các điểm chính của đạo Phật theo lịch sử của thời gian. Chúng ta hãy đi sâu về tuệ giác.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]