Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chúng tôi học Duy thức (7)

10/04/201313:56(Xem: 7777)
Chúng tôi học Duy thức (7)

Chúng tôi học Duy Thức
(tiếp theo)

Thức thứ 6 & thứ 7 : Ý thức & Mạt na thức

Tâm Minh

Thân kính tặng ACE Áo Lam


Như đã học trong bài đầu tiên về Duy Thức, ACE chúng tôi nhắc nhau nhớ là : ‘tu tâm’ là tu 2 ‘anh chàng ‘ này , 1 anh Ý thức thì ‘mơ tưởng bao la vũ trụ’ một anh Mạt na thì chấp ngã quá chừng , chấp 1 cách si mê , chấp Tàng thức làm ‘ngã’ - đến nỗi tính khí của Mạt na thường biểu hiện với 4 phiền não :

ngã si( quan niệm sai lầm về cái ‘ngã’ ) ;

ngã kiến( nhận thức sai lầm cho rằng đó là một cái ‘ngã’ độc lập và thường còn

ngã mạn (tự cao, tự đại, tự cho mình là ‘ số một’ - hơn ai hết !J J !)

ngã ái ( yêu ‘cái tôi’, cái ‘của tôi’ [mine] và cái ‘tự ngã của tôi’ [ myself ] )

Chính Tâm làm cho ta trong sạch, cũng chính tâm làm cho ta ô nhiễm. Trong thựtc tế, tâm là người thù nguy hiểm nhất mà cũng chính là người bạn chí thân của con người .

Đó là lý do mà chúng tôi phải học kỹ hơn về hai loại Tâm này .

Hôm nay chúng tôi đi sâu hơn một chút về Tâm hay là ‘Thức’ đó : hình thái của Thức có thể ví như sự chuyển động của vật chất và năng lượng , của sóng và nước, mà năng lượng thì vừa thuộc về vật chất (Sắc) vừa thuộc về phi vật chất ( Vô Sắc) , Trong bài’ Sự báo ứng của Nghiệp’ ngài Narada Thera ( Nam Tông) dạy về lịch trình tiến triển của dòng tư tưởng như sau : khi ta ngủ say, không chiêm bao mộng mị, tâm ở trong trạng thái tiêu cực , sinh diệt trong từng sát na, được gọi là Bhavanga . Luồng Bhavanga trôi chảy như một dòng suối , luôn luôn biến đổi, không khi nào giống hệt nhau trong 2 chập tư tưởng kế tiép . Không chỉ trong lúc ngủ mà lúc thức ta cũng có loại tâm này. Kinh Thắng Pháp Tập Yếu diễn tả lịch trình tiến triển của một tư tưởng qua ví dụ sau đây:

Một người nằm dưới gốc cây xoài , lấy khăn che mặt lại, ngủ say ; một ngọn gió thổi qua làm rung động nhánh cây và một trái xoài rụng xuống bên cạnh đầu anh ta . Anh ta tung khăn ra va hướng mắt về phiá có tiếng động ; thấy 1 vật, anh cầm lên quan sát và nhận ra đó là 1 trái xoài . Anh hả miệng ra cắn vào trái xoài ăn, nuốt ; xong nằm xuống ngủ trở lại. Câu chuyện thật đơn giản và một em bé cũng có thể đã gặp cảnh này, nó rất gần gũi với sinh hoạt hằng ngày, nhưng ở đây ta muốn diễn tả những hành động này theo thuật ngữ Phật Giáo , theo danh từ DTH cho nên ta phải ‘ tập nói’ theo những từ mới học trên đâymà thôi . Trong câu chuyện này :

Một người nằm dưới gốc cây xoài , lấy khăn che mặt lại, ngủ say = dòng bhavanga yên tĩnh trôi chảy ;

một ngọn gió thổi qua = tâm bhavanga vừa qua

làm rung động nhánh cây = tâm bhavanga rung động

và một trái xoài rụng xuống bên cạnh đầu anh ta = tâm bhavanga tắt sau khi rung động trong 2 chập tư tưởng ) .

Anh ta tung khăn ra va hướng mắt về phiá có tiếng động = (khi có đối tượng xuất hiện luồng bhavanga rung động 2 chập rồi tắt, tùy theo đối tượng xuất hiện, 5 giác quan bắt đầu họat động ; ở đây là MẮT = nhãn thức )

thấy 1 vật = nhãn thức ,

anh cầm lên = tiếp thọ tâm

quan sát = suy đạc tâm

và nhận ra đó là 1 trái xoài = xác định tâm ( phân biệt, lựa chọn, thu nhận hay loại bỏ ) .

Anh hả miệng ra cắn vào trái xoài ăn = việc thưởng thức trái xoài gồm 7 chập tư tưởng-gọi là Javana ( vai trò của ý chí ) . (1)

Nuốt miếng xoài = đăng ký tâm

Ăn xong ngủ trở lại = tâm trở lại trạng thái bhavanga yên tĩnh

Bài học thứ (1): Chính ở giai đọan này ( Javana) là quan trọng nhất vì tư tưởng quyết định biểu hiện thành hành động tốt hay xấu ( thiện hay bất thiện). Nếu quyết định đúng đắn thì tạo ra thiện nghiệp, nếu quyết định sai lầm thì tạo ra bất thiện nghiệp. Dù đối tượng xuất hiện có được yêu thích hay không, ta vẫn có thể tạo ra một tiến trình Javana thiện hay bất thiện theo ý muốn . Ví dụ như khi gặp người thù nghịch, sự giận dữ liền phát sinh ( tạo nghiệp bất thiện) ngoài ý muốn của ta , nhưng nếu ta có tu tập tỉnh thức, biết chế ngự tâm mình, thay vì nổi giận , ta có thể rải tâm Từ đến người ấy ( tạo thiện nghiệp) .

Bài học thứ 2: DTH dạy rằng trong tiến trình tâm, mỗi loại thường phát sinh trong 1,2, 3 chập tư tưởng, chỉ có tâm Javana phát sinh liên tiếp trong 7 chập lúc bình thường và 5 chập khi lâm chung và tất cả 7 chập đều cùng chung một đối tượng. Những tâm sở phát sinh trong 7 chập tư tưởng ấy đều giống hệt nhau, nhưng năng lực thì không đồng đều . có chập mạnh có chập yếu . Đó là lý do giải thích sự trổ sanh Quả của các Nghiệp theo thời gian, theo tác động, theo khả năng báo ứng v..v..

Bài học thứ 3: Ý thức (thức thứ 6) là lanh lợi hơn hết, suy nghĩ làm việc phải nó cũng đứng đầu mà tính toán mưu toan việc ác thì nó cũng là ‘số 1’ (‘công vi thủ , tội vi khôi’ = công cũng nó đứng đầu mà tộI nó cũng trước hết !) .Thức này cũng có công năng chấp ngã và chấp pháp .

Chỉ có Ý thức mới có khả năng soi sáng ,chuyển hoá Mạt Na Thức và Alaida thức. Nói cụ thể, Ý thức vừa phải đồng thời gieo trồng những chủng tử tốt, thiện vào tàng thức, vưà rửa sạch mọi ô nhiễm do si mê chấp thủ của mạt na bằng cách thông qua thân, miệng, mà ý thức có thể điều hành, sai khiến cái thấy, cái nghe v..v.. Do đó, nói cho đúng thì : chuyển hoá là phải chuyển hoá toàn diện hệ thống của tâm thức - cần có sự tương duyên giao hoà của cả 8 thức - chứ không phải chỉ riêng từng thức nào .

Bài học thứ 4:Trong 3 Cảnh, Ý thức có đủ 3 Cảnh ( tánh cảnh, độc ảnh cảnh & đới chất cảnh)

Trong 3 Tánh thức này cũng có đủ 3 tánh (Thiện, ác và vô ký )

Trong 3 Lượng, thức này cũng có đủ 3 lượng ( hiện lượng, tỷ lượng & phi lượng)

Nghiệp dụng của Thức này là làm cho Thân động, Miệng nói . . . tạo ra dẫn nghiệp và mãn nghiệp để cảm thọ quả báo trong hiện kiếp hay trong các đời sau .

Bài học thứ 5.Theo DTH, có một thức căn bản và 7 chuyển thức : Mạt Na cũng là một chuyển thức ; nó một mặt chấp Tàng thức làm ‘ ngã’ mặt khác nó chính là nền tảng cho sự nhiễm và tịnh của 6 chuyển thức trước ( nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân và Ý thức). Thật vậy, 6 chuyển thức trước luôn luôn liên hệ chặt chẽ với sự hiện diện của Mạt na, và Mạt na thì luôn luôn tác động lên 6 chuyển thức trước, với chức năng lưu chuyển ,đối lưu giữa chủng tử và hiện hành. Do đó, nếu sự cuồng si của Mạt na càng lớn thì khả năng sáng suốt của 6 chuyển thức trước càng nhỏ ; nói nôm na : cái tâm phân biệt càng lớn thì sự nhận thức vô tư trong sáng càng nhỏ , các sự vật, hiện tượng, màu sắc, âm thanh v..v.. sẽ bị méo mó, xuyên tạc, bẻ cong . . . Lúc ấy, mắt, tai . . . sẽ không chỉ là thuần túy phục vụ cho ‘cái thấy’ ‘cái nghe’. . . nữa mà còn m’ thêm cái tâm ưa - ghét, lấy - bỏ. Mạt na mà giải thoát được chừng nào (nghĩa là bớt cuồng si trong 4 thứ phiền não ) thì khả năng thanh tịnh sáng suốt của 6 chuyển thức trước càng lớn lên chừng ấy.

Bài học thứ 6: điểm khác biệt trong tính khí của Mạt Na và Alạida là: Alaida lấy Tánh Cảnh làm đối tượng thì Mạt na lấy Đới chất cảnh làm đối tượng ; một cách nôm na, Alaida nhìn sự vật hiện tượng ‘như -nó -là’ ( as - it -is) trong khi Mạt na nhìn với một hay nhiều cặp kính màu của si mê, chấp ngã . . . do vậy mà cái thấy của mạt na là sai lầm vì bị ngăn che .

Tính chất của Mạt na vừa là thẩm (reflecting) vừa là hằng( always )- nghĩa là vừa khảo sát, thẩm sát, vừa luôn luôn có mặt suốt 24/24 giờ một ngày ; luôn luôn so đo tính toán. Nói theo danh từ DTH thì Mạt na có tính hữu phú vô ký ; hữu phú = có bị ngăn che , Cái gì đã ngăn che ? Đó chính là 4 cái si mê của nó ( ngã si, ngã kiến, ngã mạn, ngã ái ). Vô ký= không thiện, không ác . Nói ngắn lại cho dễ nhớ : Mạt na là chấp ngã và khi duyên vào đối tượng nào thì chấp đối tượng đó làm ngã và sự chấp ngã như vậy là hoàn toàn sai lầm nên gọi là phi lượng ( wrong perception)

Bài học thứ 7: (vừa ôn lại những từ ‘ Cảnh, Tánh & Lượng’ trong bài trước : ) trong 3 Cảnh, Mạt na chỉ quan hệ với Đới chất cảnh

Trong 3 Tánh , Mạt na là hữu phú vô ký

Trong 3 Lượng Mạt na chỉ có Phi lượng

Bài học thứ 8: bài học này lại là một bài học về từ mới trong DTH . Trong bài trước chúng ta đã học 3 Cảnh, 3 Tánh và 3 Lượng . Hôm nay học thêm : 5 Thọ, 3 Cõi, 9 Địa , 9 Duyên.

5 Thọ là : Khổ thọ, Lạc thọ, Ưuthọ, Hỷ thọ và Xả thọ

3 Cõi ( = ta thường gọi là tam giới = Dục giớI, Sắc giới, Vô Sắc giới ) : cõi Dục ( realm of Desire) = thế giới của người và thú ( thế giới của dục vọng, ham muốn, thèm khát) ; cõi Sắc ( realm of Form) = thế giớI vật chất nhưng nhẹ nhàng thanh thoát hơn cõi Dục ; cõi Vô Sắc ( realm of No Form = thế giới phi vật chất, thế giới của năng lượng ( energy) . Tâm thức cũng là một dạng năng lượng ( mental energy).

9 Địa : a) Ngũ thú tạp cư điạ ( =thuộc về Dục giới)

b) Ly, sanh Hỷ lạc địa

c) Định, sanh Hỷ lạc địa (= 4 địa này thuộc Sắc giới

d) Ly hỷ, diệu lạc địa từ Sơ đến Tứ thiền )

e) Xả niệm thanh tịnh địa

f) Không vô biên xứ địa

g) Thức vô biên xứ địa ( = 4 Địa này thuộc Vô Sắc giới)

h) Vô sở hữu xứ địa

i)phi tưởng phi phi tưởng xứ địa

9 Duyên : Hư không, Ánh sáng, Căn, Cảnh, Tác ý , Phân biệt y, Nhiễm tịnh y, Căn bản y , Chủng tử .

Sau khi học được các từ của DTH, chúng tôi tự ra bài tập ở nhà cho ACE mình bằng cách lập bảng tóm tắt sau đây cho dễ nhớ 8 Thức đã biết, duyên với những món
nào :

Mắt Tai Mủi Lưỡi Thân Ý Mạt na AlaiDa

3 Cảnh

3 Tánh

3 Lượng

5 Thọ

3 Cõi

9 Địa

9 Duyên

Bài học thứ 9: Chúng tôi nhắc lại về sự khác nhau gây ra khó khăn ban đầu cho việc hoc DT , đó là chúng ta học TLH hiện đại ( Tây phương) chỉ biết 2 góc độ của 1 nhận thức : đó là Chủ thể ( Subject) và Đối tượng ( Object) nhưng khi học DT- tức Tâm Lý Học Phật Giáo ( cổ điển- Đông phương ) ta lại gặp đến 3 danh từ như đã học trong bài đầu tiên :

Kiến phần : chủ thể

Tướng phần : đối tượng

Tự thể phần : phần căn bản của thức làm nền cho chủ thể và đối tượng .

**** Lãy 1 ví dụ cụ thể : nước là kiến phần, sóng là tướng phầnvà tính ướt, loãng, không màu không mùi (hay hợp chất H2O ) là tự thể phần.

Tương tự, trong hệ thống 8 thức, mỗi Thức đều có đầy đủ cả 3 phần và ở mặt ‘tướng’ thì có 3 nhưng ở mặt tổng thể chỉ là Một - như nước và sóng hay H20 vậy.

Dù đã qua 3 buổi học ,nhưng ACE chúng tôi vẫn thấy như là ‘ cởi ngựa xem hoa’ - chưa thể nói là biết được chút gì về Duy Thức cả, nên để kết thúc buổi học ,chúng tôi luôn nhắc nhau rằng dây chỉ là phần học Chúng, học tập thể, học để lấy cái hăng hái ban đầu nhờ sự sách tấn của Tăng thân của mình , về sau mỗi người đều phải tự học thêm ,đặc biệt về DTH thì phải học kỹ 30 bài tụng DT cũng như phần giảng giải của Thầy Thiện Hoa ( PHPT khóa IX, X và XI ) - và ACE chúng tôi cũng đã có kinh nghiệm tự thân là cùng một bộ Kinh, mà học năm nay khác và sang năm khác : có thể chúng ta sẽ thấy thêm được nhiều bài học mới hơn mà năm ngoái chưa nhận ra được .


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/02/2021(Xem: 5442)
Phật Giáo Việt Nam kể từ khi lập quốc (970) đến nay đã đóng góp rất lớn cho nền Văn Học Việt Nam qua các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần..v..v.. nhưng không có một Quốc Sử Việt Nam nào ghi nhận cả, điều đó thật là đau buồn, mặc dù Phật Giáo Việt Nam thời bấy giờ và cho đến bây giờ không cần ai quan tâm đến. Phật Giáo Việt Nam nếu như không có công gì với núi sông thì đâu được vua Đinh Tiên Hoàng phong Thiền sư Ngô Chân Lưu đến chức Khuông Việt Thái Sư và chức Tăng Thống Phật Giáo Việt Nam vào năm Thái Bình thứ 2 (971). Cho đến các Thiền sư như Pháp Thuận, Vạn Hạnh,v..v.... đều là những bậc long tượng trong trụ cột quốc gia của thời bấy giờ, thế mà cũng không thấy một Quốc Sử Việt Nam nào ghi lại đậm nét những vết son cao quý của họ.
23/02/2021(Xem: 10441)
Văn học thời Trần là giai đoạn văn học Việt Nam trong thời kỳ lịch sử của nhà Trần (1225 – 1400). Văn học thời Trần tiếp tục và có nhiều bước tiến bộ rõ rệt hơn so với văn học thời Lý (1010 – 1225). Văn học thời Trần chịu ảnh hưởng của Phật giáo và Nho giáo. Tư tưởng Phật giáo chủ yếu trong văn học thời Trần là tư tưởng thiền học.
23/02/2021(Xem: 9252)
Trong nội dung của ấn bản lần thứ hai của quyển “Tư tưởng Phật giáo trong Văn học thời Lý”, chúng tôi vẫn giữ những điểm chính quan trọng của ấn bản lần thứ nhất. Tuy nhiên, chúng tôi đã sửa chữa và bổ sung một vài nơi. Chúng tôi đánh giá cao sự góp ý và phê bình của: GS Lưu Khôn (Cựu GS tại trường ĐHVK Saigon và Cần Thơ), GS Khiếu Đức Long (Cựu GS tại ĐH Vạn Hạnh), Ô. Nguyễn Kim Quang (Cựu học sinh Lycée Petrus Ký 1953-1960), cố Kỹ Sư Nguyễn Thành Danh (Vancouver, Canada). Trong khi viết quyển sách này lần thứ nhất vào năm 1995, chúng tôi đã được sự giúp đỡ và góp ý của các thân hữu: cố Hoà Thượng Thích Nguyên Tịnh (Cựu Trú trì Chùa Thiền Tôn, Vancouver, Canada), cố GS Nguyễn Bình Tưởng (Cựu Hiệu Trưởng trường Trung Học Vĩnh Bình, và Cựu Giám Học trường Trung Học Nguyễn An Ninh, Saigon), chúng tôi chân thành cám ơn quý vị này.
20/02/2021(Xem: 6558)
Thơ tụng tranh chăn trâu của thiền sư Phổ Minh gồm tất cả mười bài thơ “tứ tuyệt” cho mười bức tranh chăn trâu với các đề mục sau đây: 1. Vị mục: chưa chăn 2. Sơ điều: mới chăn 3. Thọ chế: chịu phép 4. Hồi thủ: quay đầu 5. Tuần phục: thuần phục 6. Vô ngại: không vướng 7. Nhiệm vận: theo phận 8. Tương vong: cùng quên 9. Độc chiếu: soi riêng 10. Song mẫn: cùng vắng
20/02/2021(Xem: 8955)
Kinh Hoa Nghiêm được giải thích là kinh đầu tiên khi Phật đạt chánh đẵng chánh giác sau 49 ngày thiền định. Sau đó người giảng kinh Hoa Nghiêm cho chư thiên và bồ tát là giảng bằng thiền định tâm truyền tâm nên im lặng suốt 21 ngày. Kinh Hoa Nghiêm nói về Tâm. Kế đến Kinh Lăng Già Phật cũng giảng cho Ma vương và ma quỷ sống trong hang động ở đỉnh núi Lăng Già. Phật giảng bằng tâm truyền tâm ấn nên không có nói bằng lời và giảng về Thức vì Ma vương không còn uẩn sắc nữa mà chỉ còn là tâm thức. Kinh Lăng già là giảng về Duy Thức Luận. (bài viết của cư sĩ Phổ Tấn)
20/02/2021(Xem: 5117)
Washington: Theo báo cáo của The Economist, Trong nỗ lực mới nhất nhằm thắt chặt vòng vây Tây Tạng, Trung Cộng đang buộc người Tây Tạng ít quan tâm đến tôn giáo của họ hơn, và thể hiện nhiệt tình hơn đối với chế độ độc tài của Đảng Cộng sản Trung Quốc do Tập Cận Bình lãnh đạo tối cao. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tăng cường nỗ lực phủ nhận vai trò của Đức Đạt Lai Lạt Ma ra khỏi đời sống tôn giáo của người dân Tây Tạng để xóa bỏ danh tính của họ. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã cưỡng chiếm Tây Tạng vào giữa thế kỷ 20 sau thập niên 1950, và kể từ đó đã kiểm soát khu vực cao nguyên tại Trung Quốc, Ấn Độ, Bhutan, Nepal, và Pakistan tại châu Á, ở phía bắc-đông của dãy Himalaya..
17/02/2021(Xem: 5317)
Nội dung tác phẩm dựa trên một bức tranh nổi tiếng có tên là “Thanh minh thượng hà đồ” (nghĩa là “tranh vẽ cảnh bên sông vào tiết Thanh minh”) của nghệ sĩ Trương Trạch Đoan vào thời nhà Tống cách đây hơn 1000 năm. Thiên tài Albert Einstein đã từng nói: “Nghệ thuật thật sự được định hình bởi sự thôi thúc không thể cưỡng lại của người nghệ sĩ sáng tạo”. Và một nghệ sĩ điêu khắc người Trung Quốc – Trịnh Xuân Huy đã chứng minh điều đó qua kiệt tác nghệ thuật của ông trên một thân cây dài hơn 12 mét. Chắc chắn bạn sẽ phải ngạc nhiên về một người có thể sở hữu tài năng tinh xảo đến như vậy!
17/02/2021(Xem: 5757)
Một quán chiếu về những ánh lung linh trên bề mặt một hồ nước gợn sóng lăn tăn bởi làn gió nhẹ. Một con sông khổng lồ của si mê tin tưởng sai lầm tâm-thân là tồn tại cố hữu tuôn chảy vào hồ nước của việc hiểu sai cái "tôi" như tồn tại cố hữu. Hồ nước bị xáo động bởi những làn gió của tư tưởng phiền não chướng ngại ẩn tàng và của những hành vi thiện và bất thiện. Sự quán chiếu ánh trăng lung linh biểu tượng cho cả trình độ thô của vô thường, qua sự chết, và trình độ vi tế của vô thường, qua sự tàn hoại từng thời khắc thống trị chúng sanh. Ánh lung linh của những làn sóng minh họa tính vô thường mà chúng sanh là đối tượng, và quý vị thấy chúng sinh trong cách này. Bằng sự ẩn dụ này, quý vị có thể phát triển tuệ giác vào trong vấn đề chúng sinh bị kéo vào trong khổ đau một cách không cần thiết như thế nào bằng việc điều hướng với tính bản nhiên của chính họ; tuệ giác này, lần lượt, kích hoạt từ ái và bi mẫn.
16/02/2021(Xem: 4622)
Nói về pháp khí, nhạc khí của Phật giáo là nói đến chuông, trống và mõ. Trong ba pháp cụ đó. Tiếng chuông chùa đã gợi nguồn cảm hứng không ít cho những văn, thi sĩ. Hiện nay rất ít tài liệu nói về nguồn gốc của chuông, trống và mõ. Sự kiện trên khiến các học giả nghiên cứu về chuông, trống, mõ gặp trở ngại không nhỏ. Tuy thế dựa vào bài Lịch sử và ý nghĩa của chuông trống Bát nhã do thầy Thích Giác Duyên viết đã đăng trong Thư Viện Hoa Sen, khiến chúng ta biết được người Trung Hoa đã dùng chuông vào đời nhà Chu ( thế kỷ 11 Trước CN – 256 Trước CN ). Riêng việc chuông được đưa vào các chùa chiền ở Việt Nam từ thời nào người viết không biết có tài liệu nào đề cập đến không?
14/02/2021(Xem: 5204)
Pháp Hoa kinh là vua của các kinh vì ở vào thời kỳ thứ 5 trong lịch sử đạo Phật. Lúc bấy giờ là cuối đời thọ mạng của đức Phật nên kinh giảng của người mang toàn bộ tính chất của đạo Phật do người thuyết pháp. Có hai cốt lỏi của kinh Pháp Hoa là Phật tánh và Tri kiến Phật. Phật tánh đã được tóm lược trong bài Nhận biết Phật tánh cùng tác giả. Tri là biết, kiến là thấy, biết thấy Phật là gì? Biết là tuệ giác người dạy cho chúng ta và thấy là thấy đại từ bi của Phật. Đó là trí tuệ và từ bi là đôi cánh chim đại bàng cất cao bay lên trong tu tập. Chúng ta nghiên cứu trí tuệ của toàn bộ đạo Phật một cách tổng luận để tư duy, về phần từ bi chúng ta đã hiểu qua bài Tôi Học kinh Pháp Hoa đồng tác giả. Trí tuệ đạo Phật có gồm hai phần triết lý đạo Phật và ứng dụng. Tri kiến Phật là nắm hết các điểm chính của đạo Phật theo lịch sử của thời gian. Chúng ta hãy đi sâu về tuệ giác.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]