Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chúng tôi học Kinh Hoa Nghiêm ( 10)

10/04/201313:47(Xem: 7614)
Chúng tôi học Kinh Hoa Nghiêm ( 10)

Học Kinh (10)

Chúng Tôi Học tiếp Kinh Hoa Nghiêm
Phẩm Nhập Pháp Giới


Tâm Minh ghi

---o0o---

Thân kính tặng Anh Chị Em Áo Lam


Theo chương trình học Kinh của Chúng, hôm nay ACE chúng tôi tiếp tục học Hoa Nghiêm , đi vào phẩm thứ 39 : Nhập Pháp Giới. Phẩm này được giảng tại đạo tràng Đại Trang Nghiêm nơi rừng Thệ Đà, vườn Cấp Cô Độc với hai ngài Phổ Hiền Bồ Tát và Văn Thù Sư Lợi Bồ tát làm thượng thủ. Thính chúng của đai hội này cũng rất đặc biệt ; đó là những vị Bồ tát ‘đều đã thành tựu hạnh nguyện Phổ Hiền cảnh giới vô ngại’ đó là những vị Thanh Văn ‘đều đã giác ngộ chơn đế, đều chứng thiệt đế, thâm nhập pháp tánh, thoát hẵn biển hữu lậu. . . Tâm các ngài tịch tịnh như hư không. . .’ ; đó là những vị Thế Chủ ‘ hằng siêng thủ hộ thệ nguyện chẳng bỏ chúng sanh. Đã nhập thế gian thù thắng trí môn. Từ Phật giáo sanh. Hộ trì chánh pháp. Phát đại nguyện chẳng để dứt Phật chủng. Sanh nhà Như Lai , cầu nhứt thiết trí.’ (Kinh Hoa Nghiêm, tập IV trang 11,12) Nói cách khác, các ngài đã dến đây tham dự đại hội này theo ‘lời mời’ của đức Phật, một lời mời không phải bằng giấy tờ chữ nghĩa của thế gian hay bằng những e-mail thông tin trên mạng lưới internet mà ai cũng có thể nhận được, nhưng là bằng những dấu hiệu đặc biệt của đức Thế Tôn : bằng thiền định, đức Phật nhập ‘sư tử tần thân tam muội’( thiền định của con sư tử vươn mình) để rải tâm Đại bi tràn đầy cả hư không vô tận , làm trang nghiêm thế gian và làm cho rừng Thệ Đà bỗng nhiên rộng lớn như hư không, đồng với ‘bất khả thuyết Phật sát vi trần số quốc độ, và cảnh đạo tràng rực sáng vì được trang hoàng bằng vô số lượng ngọc lưu ly . . .’ (tr.14)

Lúc ấy, Bồ tát Phổ Hiền dùng nhiều phương tiện thiện xảo ( đồng pháp giới, đồng hư không pháp giới, . . . .đồng tất cả chúng sanh nghiệp, đồng tất cả chúng sanh dục, đồng tất cả chúng sanh căn. .. ) vì chư Bồ tát khai thị ,chiếu rõ diễn thuyết sư tử tần thân tam muội này. Ngài giới thiệu một chương trình hoằng dương Phật Pháp rộng lớn, dưới mọi hình thức : những đòan thể đông như vi trần , cũng có thể chỉ một hai người, có thể chỉ là một người : như là một đại sĩ, một đạo sĩ, một thương gia, một nghệ sĩ v..v.. ( tr. 60)

Sau đó, ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ tát nói lại những biến hoá trong rừng Thệ Đa và từ đó , nói về tất cả trí tụệ chiếu sáng thế gian, hoặc nói đèn trí tuệ chiếu các cảnh giới của tất cả các pháp, giáo hoá thành thục tất cả chúng sanh nhưng vẫn chẳng rời khỏi rừng Thệ Đa của đức Như Lai (tr.82) .Rồi ngài rời khỏi Thiên Trụ lâu các ra đi cùng với vô lượng Bồ Tát đồng hạnh. Tôn gỉa Xá Lợi Phất tán thán vô lượng công đức trang nghiêm của ngài Văn Thù, làm cho chư vị tỳ kheo sau khi nghe xong khởi tâm tin hiểu vững chắc, sáu căn thanh tịnh , phát đại bi tâm và đại nguyện . Họ yêu cầu trưởng lão Xá Lợi Phất đưa họ đến chỗ ngài Văn Thù . Xá Lợi Phất bèn dẫn theo sáu ngàn vị tỳ kheo đến chỗ ngài Văn Thù sư Lợi Bồ tát. Ở đó, ngài Văn Thù khuyến khích các vị tỳ kheo trẻ hãy tinh tấn thành tựu mưòi hạnh dể có thể hành Bồ tát đạo , nhập Bồ tát địa và cả Như lai địa nữa. (tr. 88) Đó là 10 tâm nguyện rộng lớn sau đây :

1.Chứa nhóm tất cả thiện căn không bao giờ biết mệt mỏi, nhàm chán

2. Thờ kính cúng dường tất cả chư Phật không bao giờ biết mệt mỏi, nhàm chán

3. Mong cầu được học hỏi tất cả Phật Pháp không bao giờ biết mệt mỏi, nhàm chán

4. Thực hành tất cả các hạnh Ba la Mật không bao giờ biết mệt mỏi, nhàm chán

5.Thành tựu tất cả tam muội của Bồ Tát mà không bao giờ biết mệt mỏi, nhàm chán

6. Lần lượt thâm nhập tất cả tam thế mà không bao giờ biết mệt mỏi, nhàm chán

7. Làm trang nghiêm thanh tịnh các cõi Phật ở khắp mười phưong thế giới mà không bao giờ biết mệt mỏi, nhàm chán .

8. Giáo hoá và điều phục tất cả chúng sanh không bao giờ biết mệt mỏi, nhàm chán.

9. Thành tựu hạnh Bồ Tát trong tất cả các cõi, ở tất cả các kiếp, mà không bao giờ biết mệt mỏi, nhàm chán .

10. Vì thành tựu một chúng sanh mà tu hành vô số ba la mật nhiều như số hạt bụi trong vô số thế giới Phật, thành tựu mười uy lực của Như Lai . Lần lượt như vậy, tiến đến mục đích thành thục tất cả chúng s
anh giới mà thành tựu tất cả trí lực của Như Lai lòng không bao giờ biết mệt mỏi, nhàm chán .

Sau khi nghe pháp này rồi, chư tỳ kheo thành tựu đuợc rất nhiều tam muội , bồ đề tâm, và Ba La Mật . . . và trụ hạnh Phổ Hiền tiếp tục con đường hành đạo , đoàn người dừng lại ở rừng Trang Nghiêm Tràng Ta La là nơi rất nổi tiếng vì ở đãy, chư Phật đã từng giáo hoá chúng sanh và đức Phật Thích Ca cũng đã từng ớ đó tu Bồ tát hạnh. Tại đây, Bồ tát Văn Thù giảng kinh Phổ chiếu Pháp giới, với một đại chúng vô cùng đông đảo và ngài đã phát hiện ra trong thính chúng một thanh niên với nhân cách lý tưởng, một hình ảnh pháp khí tuyệt vời : đó là Thiện Tài đồng tử. Ngài đã ‘thấy ‘ được tư cách phi phàm của Thiện tài và biết đưọc rằng những dấu hiệu ấy đã có từ lúc Thiện tài mới nhập thai, như lầu các thất bửu , bảy loại mỏ quí ( vàng, bạc, lưu ly, pha lê, trân châu, xa cừ, mả não, . . . ) nói lên nhân cách độc đáo và những đức tính sáng chói của vị thiện nam tử đặc biệt ‘có một không hai’ này (tr. 94) .

Sau thời pháp, Bồ tát Văn Thù Sư Lợi rời khu rừng mà đi . Thiện Tài như bị một hấp lực không thể nào cưỡng lại nỗi, đó là lý tưởng cao đẹp của Bồ tát Đạo, nên đã chạy theo ngài Văn Thù, nói lên bài kệ gói trọn tâm nguyện của mình là được theo Thầy học Đạo , với ý chí sắt đá như ‘kim cương’ , như ‘đại địa chẳng động’, đã ‘vào ngôi Pháp vương’ ,đã ‘đội mão Trí vương’, đã ‘vấn lụa diệu pháp’. . . bài kệ đầy khẩu khí khiến ngài Văn Thù xoay lại nhìn Thiện Tài như trong tư thái của một con tượng vương(voi chúa) , ca ngợi chí nguyện cao cả của người tuổi trẻ này và đồng ý nhận Thiện Tài làm đệ tử, chỉ dạy cho chàng rằng muốn thành tựu nhất thiết chủng trí thì phải quyết định cầu chân thiện tri thức không bao giờ biết mệt mỏi, không bao giờ thấy nhàm chán, chỉ thấy phương tiện thiện xảo nơi thiện tri thức mà không thấy lỗi lầm ( tr. 105) . Từ đây, Thiện Tài vâng lời Thầy, từ giả ân sư ra đi về phía nam trên núi Diệu Phong để được học với thầy Đức Vân về hạnh Bồ tát, tu theo hạnh Bồ tát , rồi viên mãn hạnh Phổ Hiền . . . Từ đây, Thiện Tài đồng Tử tuy phải bùi ngùi rời khỏi sư phụ, một mình dong ruỗi trên đừơng học Đạo nhưng không cảm thấy cô đơn nữa vì đã có lý tưởng và vị Thầy Văn Thù kính yêu trong lòng, vì đã biết rằng sẽ có những vị Thầy trong tương lai đang chờ đợi mình ở một nơi nào đó, những người bạn cùng lý tưởng ở một phuơng trời xa, chưa quen nhưng rồi sẽ quen . . .

Đây là một hành trình vô định vì biển học mênh mông; chưa biết bao giờ kết thúc, đó là lý do tại sao phẩm Nhập Pháp giới này là phẩm Kinh dài nhất của Hoa Nghiêm. Để tóm tắt nội dung chủ yếu của việc tầm sư học đạo của Thiện tài Đồng tử, gồm 53 giai đọan trong 53 bối cảnh khác nhau, ứng với hành trình tu tập của Bồ tát Đạo: thập tín, thập trụ, thập hành, thập hồi hướng, thập địa & Đẳng giác, Diệu Giác, Phật Đà. ACE chúng tôi ghi nhanh vào bảng sau đây ( tr.106- tr.780 ):

Bài học : người dạy:

Phát Bồ Đề tâm, cầu thiện tri thức BT Văn Thù Sư Lợi

Tu Bồ Tát Đạo, viên mãn hạnh Phổ hiền Tỳ kheo Đức Vân

Vô ngại thần túc thông Trưởng lão Thiện Trụ

Trì chú Đà la ni Thượng tọa Di Già

Thiền Trưởng giả Giải Thoát

Phép ‘Quán tưởng’ Thiền sư Hải Vân

Pháp môn niệm Phật Hoà thượng Công Dức Vân

Pháp môn Lục độ và Bát Nhã Hoà thượng Hải Tràng ,

Thần Bảo Nhãn

Qủy vương la Sát

Và Phật Mẫu Maya(có4 người dạy)

Diệt trừ phiền não Ưu bà di Hữu Xả

Pháp môn ‘Bồ Tát Vô thắng tràng giải thoát’ Tiên Ông Tỳ Mục Cù Sa

Pháp môn’Bánh xe giải thoát quay vô tận’ Bà la môn Thắng Nhiệt

(Bồ Tát Vô tận luân giải thoát)

Pháp môn ‘Bát Nhã phổ trang nghiêm’ Đồng nữ Từ Hạnh

P/M ‘Bồ tát tùy thuận đăng giải thoát’ Tỳ kheo Thiện Kiến

(Ngọn đèn trí tuệ của BT muốn soi tới đâu cũng được)

2 vị này giảng cho Thiện Tài về chân lý Tánh Không

Ngũ Minh pháp Đồng tử Tự tại Chủ,

( có 4 người dạy) Trưởng giả Ưu Bát La Hoa đồng tử Biến Hữu

và đồng tử Biến Tri

P/M Bố thí ba la Mật Ưu bà Di Cụ Túc & cư sĩ Minh Trí

Tứ Vô Lượng tâm :

Tâm Từ Vua Đại Quang

Tâm Bi Trưởng giả Pháp Bảo Kế

Tâm Hỷ ngoại đạo Biến Hành

Tâm Xả Vua Vô Yếm Túc

Lý Chân Không Trưởng giả Phổ Nhãn

Tinh tấn Ba La Mật : Ưu bà di Bất Động

Nhẫn nhục Ba La Mật Thuyền trưởng Bà Thi La

Trì giới Ba La Mật Tỳ kheo ni Sư Tử Tần Thân

Tâm bình đẳng Thiện nữ Ba Tu Mật Đa

Tứ Nhiếp Pháp Trưởng giả Vô Thượng Thắng

Lý Chân Không Diệu Hữu Cư sĩ Tỳ Sác Chi La

Tâm Đại Bi BT Quán Tự Tại

Thí Chánh Pháp BT Chánh Thụ

Phá ngã chấp & pháp chấp Thần Đại Thiên

P/M Lục thông Thần An Trụ

Lý Nhị Không Dạ thần Bà San Bà Diễm Đề

Chữ Không Dạ thần thủ hộ nhất thiết Thành Đăng Trưởng Uy Lực

Chân Như Dạ thần Khai Phu Nhất thiết Thụ Hoa dạy

Thu thúc 6 căn Dạ thần Đại Nguyện Tinh Tiến Lực Cứu Hộ Nhất Thiết Chúng Sanh

Lý Nhân Duyên sanh Thích nữ Cù Ba

Thực Tuiớng của các Pháp Dạ thần Phổ Đức Tịnh Quang

Thực tại siêu việt của các Pháp Thiện nữ Thiện Chủ Quang

37 Phẩm Trợ Đạo Dạ thần Hỷ Mục Quan Sát Chúng sanh

và dạ thần Phổ Cứu Chúng Sanh Diệu Đức

P/M Trung Đạo Thần Tịnh Tĩnh Âm Hải

Những Qủa vị tu chứng Thần Diệu Đức Viên Mãn

P/M Bất Nhị Trưởng giả Kiên Cố Giải Thoát

Biệt Nghiệp-Cộng Nghiệp & Bà la Môn Tối Thắng Tĩnh

Chuyển Nghiệp thành Nguyện

Bát Nhã & Duy Thức Bồ tát Di Lặc

Vô Số Pháp hành vi diệu & Vô biên BT Văn Thù

số Đà la Ni

Phương pháp hành Bồ tát Đạo BT Phổ Hiền

Điều thích thú của ACE chúng tôi khi học phẩm Kinh này là thấy chưong trình tu học của mình cũng có được ghi trong chương trình học của Thiện Tài đồng tử như Duy Thức, Bát chánh đạo, Tứ nhiếp pháp, Lục độ ba la Mật v..v.. ( mặc dù chỉ là ‘chút chút’ thôi nhưng vậy cũng là vinh hạnh lắm rồi !!J J !!. ) Thế là mặc dù trong khi tóm lược Phẩm kinh, cũng đã có những bài hôc cụ thể rồi nhưng ACE cũng dành nhau phát biểu những bài học mà mình tâm đắc khi học qua Phẩm kinh Nhập Pháp Giới này . Đó là :

1. Phẩm kinh này nêu lên một căn bản giáo dục và sinh hoạt của thanh niên , mà chắc bác Tâm Minh Lê Đình Thám và các Anh Chị đầu đàn của GĐPT ngày xưa đã thấy được và xây dựng GĐPT theo mô hình này : đó là một tình bạn chân thành, một trái tim nóng bỏng yêu thương - nhìn lại 5 điều luật của ngành Thanh Thiếu & Huynh truởng cũng như 3 điều luật của Oanh Vũ hay đọc lại tác phẩm Ánh Đạo Vàng của anh Võ Đình Cường hồi đó, chúng ta thấy rất rõ điều này. Ngòai ra, cái mà chúng ta thường gọi là ‘tình Lam’ phải chăng là một tình bạn thiêng liêng cao quí, có khi hơn cả tình ruột thịt, giữa những người cùng lý tưởng, kết chặt ACE chúng ta, có khi đến một đơn vị chưa quen biết nhưng cũng đồng phục như chúng ta, cũng sinh hoạt vào ngày Chủ nhật, cũng chào cờ Sen Trắng, cũng tụng bài Sám hối, cũng kết giây thân ái v..v. . làm cho chúng ta thấy như đã quen nhau nhiều đời nhiều kiếp rồi vậy. Chúng ta mơ ước một ngày nào đó, Hoa Sen Trắng sẽ nở khắp nơi trên quả dất này để ánh sáng từ bi và trí tuệ của chư Phật và chư Bồ tát được gieo rắt khắp nơi xoa dịu những nỗi đau của trần gian này.( những điều này ACE chúng tôi nói với nhau từ những năm 80, không ngờ hơn 20 năm sau cũng được ứng nghiệm - và bây giờ khi ngồi ghi lại những dòng này là lúc chúng tôi đã quen được không biết bao nhiêu là ACE Áo Lam trên toàn thế giới : từ Âu Châu, Úc Châu đến Canada , Hoa Kỳ ; mà nếu kể chi tiết thì phải nói là từ Na Uy, Thụy Điển, Pháp , Đức , Bỉ , Hoà Lan đến Úc, Canada ,Hoa Kỳ . . . mà cũng chưa đủ ( vì người viết bài này không nắm được những đơn vị của Úc nằm trong những vùng nào của Châu Úc & Tân Tây Lan , đất nước đặc biệt là: khi tất cả chúng ta đang ở trong muà Hè thì ACE ở Úc đang ở trong mùa Đông và ngược lại !)

2. Bài học thứ hai là về ngài Văn Thù Sư Lợi , vị bồ tát tượng trưng cho hạnh Trí Huệ mà chúng ta cũng thường được nghe ‘Văn Thù là mẹ cuả chư Phật’ cũng bởi ý nghĩa này. Chúng ta thường ‘làm quen’ với hình ảnh ngài Đại Trí Văn Thù cưỡi sư tử xanh,tay cầm cây gươm là nói lên ý nghĩa khi sư tử rống lên thì mọi vật trong rừng đều im hơi lặng tiếng cũng như khi tiếng nói của đại Trí vang dậy thì vô minh phiền não phải lặng đi, phải bị chặt đứt v..v.. Ở đây, trong phẩm Nhập Pháp Giới này, chúng ta còn thấy rõ hơn ‘uy lực’ của Bồ Tát Văn Thù : ngài xoay mình như ‘tư thái cuả một con voi chuá’ và khi ngài cất tiếng thuyết pháp ( nghĩa là tiếng rống của sư tử đã cất cao) thì hạt giống giác ngộ đã có sẵn trong mỗi chúng sanh bị chấn động và nứt chồi. Đó là động cơ khiến Thiện tài đồng tử bị hấp lực của ngài ‘lôi đi’ và cũng là lý do mà trưởng giả Xá Lợi Phất ca ngợi Bồ Tát Văn Thù đưa đến kết quả là sáu ngàn thầy tỳ kheo trẻ đòi Xá lợi Phất dẫn họ đến chỗ ngài Văn Thù.

3. Bài học thứ ba gồm vô số bài học từ phong cách dạy dỗ, nói năng của những vị chân thiện tri thức mà Thiện Tài đồng tử đã được gặp cũng như thái độ của Thiện Tài đối với họ . Họ gồm đủ mọi thành phần trong xã hội , từ một ông vua, một đạo sĩ, một thiền giả, trưởng giả, thương gia, một vị thần . . . cho đến một em bé, một quỷ vương, một cô gái kỷ nữ, giang hồ . Tất cả mọi người đều hết lòng yêu mến dạy dỗ cho Thiện tài đồng tử và ngược lại Thiện Tài cũng hết mực cung kính trân quí tấm lòng của họ và khi rời xa, hai bên đều để lại trong lòng nhau một niềm quyến luyến làm giàu thêm cho hành trình tu học của chàng thanh niên tuổi trẻ tài cao và thông tuệ này. ACE chúng tôi đều học được rằng mọi người mà chúng ta có duyên được gặp trong đời này đều có thể là một vị thầy của chúng ta nếu chúng ta biết tận dụng những sở trường của họ ; gần nhất là ACE Áo lam của mình , và nhất là ‘những con ngựa chứng’ (có tài thường có tật mà !)nên phải nghe lời của Bồ Tát Văn Thù dạy Thiện tài ‘ chỉ thấy phương tiện thiện xảo nơi thiện tri thức mà không thấy lỗi lầm’ Đây cũng chính là phương pháp để duy trì hoà khí giữa ACE chúng ta trong sinh hoạt chung vậy.

4. Bài học thứ tư là về ý nghĩa biểu tượng của các tên người, địa danh và những con số mà chúng ta đã làm quen trong các Kinh Phật trước đây ; lấy ví dụ về vị thầy đầu tiên của Thiện Tài : ngài Đức Vân ở trên đỉnh núi Diệu Phong mà Thiện Tài đã phải khó khăn tìm kiếm trong 7 ngày mới gặp được. Đức Vân là đám mây đạo đức, đám mây lành che mát thế gian , ngài ở trên đỉnh núi, Thiện tài phải leo lên tới đỉnh núi mới gặp được - đỉnh núi là biểu trưng cho một vị trí vượt lên cao, lên trên đời thường. Càng lên cao, tầm nhìn của chúng ta càng rộng, càng thoáng (nhờ đó mà Thiện Tài học được pháp môn Phổ Kiến) . Sự kiện ‘bảy ngày’ mới gặp được ngài Đức Vân được giải thích là người học Đạo Thiện Tài phải trải qua 7 phương tiện ( hay học tập 7 giác chi)

5. Cách học Phật Pháp của Thiện Tài đồng tử không phải là học từ chương mà bằng vào sinh họat thực tiển như Tổ Huệ Năng bằng công phu giã gạo nơi đạo tràng Huỳnh Mai vậy. Do đó, những gì Thiện tài gặp trên đường tìm cầu chân thiện tri thức đều là những vấn đề phải học hỏi và mỗi thành tựu đều là những tiến bộ trên đường Đạo vì ‘Phật Pháp bất ly thế gian pháp.’ ACE chúng ta cũng vậy: sống, làm việc tham gia sinh hoạt GĐPT, dìu đắt đàn em . . . đều là vừa học vừa tu Đừng nói rằng ‘ làm việc GĐPT vừa tốn thì giờ, vừa tốn tiền bạc - vì không có lương đã đành mà việc gì cũng phải ‘móc túi ra,’ đã vậy còn chuốt lấy phiền não’ Qủa thật có như vậy mà không phải vậy vì thông qua việc làm ‘ ăn cơm nhà vác ngà voi’ này, vô hình chung, ACE chúng ta có thể thành tựu nhiều việc, tiến bộ về nhiều mặt, có nhiều niềm vui, v..v.. miễn là chúng ta luôn trung kiên với lý tưởng, không bao giờ biết mệt mỏi, không bao giờ thấy nhàm chán. Thiện Tài đã dùng hết cuộc đời mình để học, để sống thực nghĩa là áp dụng những bài học đó vào chính cuộc sống truớc mặt , dể chứng nghiệm sự đồng hoá giữa lý thuyết với thực tế cuộc sống , cho nên cuộc hành trình của Thiện tài mới được gọi là cuộc hành trình’ chứng nhập pháp giới’ nói cách khác là đi vào thế giới của ‘sự sự vô ngại’ hay nói theo sư phụ Tuệ Sỹ là ‘sống vĩnh cửu trong từng sát na và nhìn thấy vô biên trong từng hạt cát’ ( Thầy thường khuyên ACE chúng ta mở rộng lòng mình ra để ‘khoảnh khắc trở thành thiên thu và mỗi hạt cát là một đại thiên thế giới’ đúng là ý này đây phải không các bạn ?)

6. Bài học cuối cùng dể chấm dứt buổi học hôm nay là về P/M quán tưởng mà Thiện tài đồng tử đã học với ngài Hải Vân . ACE chúng tôi thật ngưỡng mộ đầu óc thông minh vĩ đại của Thiện Tài đã đành mà còn bội phục chàng ta ở khả năng quán tưởng nữa . Thiện tài đã ngồi nhìn mặt biển , quán tưởng về tính chất bao la & sâu thẳm của biển, khả năng chứa đựng vô số loài động , thực vật với muôn ngàn tính chất , màu sắc thay đổi không kể xiết & biển đã tiếp nhận vô số nguồn năng lượng từ trên trời đến dưới đáy biển v..v. rồi liên hệ với tính chất đa dạng, phức tạp của tâm, và cả vạn pháp v..v.. Thiện Tài đã giúp ACE chúng tôi phấn chấn tinh thần , tự hưá sẽ tinh tấn trong những giờ ngồi thiền và dành nhiều thì giờ hơn để đi vào việc quán chiếu những đề tài như Biển, Nước, ngoài thân, thọ . . . mà chúng ta thường thực tập.

Nói chung, chỉ riêng phẩm Nhập Pháp Giới này, ACE chúng tôi biết rằng mình học suốt đời cũng không xong vì trong mỗi bài học của Thiện tài là cũng đã có vô số bài học mà chúng ta có thể rút ra được rồi. Tuy nhiên, không chỉ với Hoa Nghiêm , mà với tất cả các Bộ Kinh khác, ACE chúng tôi cũng chỉ dám nghĩ rằng mình ‘cỡi ngựa xem hoa’ nhưng đi ngang qua rừng hoa thì cũng được thơm lây chút chút- đó là những bài học rút ra được đem áp dụng vào sinh hoạt riêng và sinh hoạt GĐPT để trao truyền phần nào cho các em mình , vậy là ‘mãn nguyện’ rồi.

Tâm Minh ghi


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
21/08/2020(Xem: 5629)
Vào hôm thứ Hai, ngày 27 tháng 7 năm 2020, một cuộc họp trực tuyến (online) của nội các do bà Sheikh Hasina, Thủ tướng Chính phủ Bangladesh chủ trì, đã thông qua dự thảo thỏa thuận giữa Tổ chức Lumbini Development Trust of Nepal và Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Bangladesh về việc xây dựng tu viện Phật giáo Bangladesh. Tu viện Phật giáo được đề xuất sẽ được xây dựng tại Lâm Tỳ Ni, nơi Đản sinh của Đức Phật lịch sử. Việc xây dựng được bắt đầu với lợi ích cá nhân, và kế hoạch của Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền nước Cộng hòa Nhân dân Bangladesh tại Nepal, Mashfee Binte Shams, và Bí thư thứ nhất, Asit Baran Sarkar.
20/08/2020(Xem: 6887)
Kinh Kim Cang Bát Nhã được ngài Cưu Ma La Thập (344-413) dịch từ tiếng Phạn sang Hán văn, và được thái tử Chiêu Minh (499-529) chia bố cục ra 32 chương. Đây là một trong những bộ kinh quan yếu nhất của Thiền Tông Trung Hoa đặc biệt từ thời Lục Tổ Huệ Năng (638- 713), người đã ngộ đạo, kiến tánh qua câu "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" trong lời khai thị từ Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn (601-674). Cụm từ "Ưng Vô Sở Trụ" được nhắc đến hai lần trong kinh: lần 1st ở chương 4 ("Diệu Hạnh Vô Trụ") và lần 2nd ở chương 10th ("Trang Nghiêm Tịnh Độ). Đây không là sự trùng lặp mà mà là sự tiến triển vi diệu về ý nghĩa của cụm từ này với rất nhiều hàm tàng đặc sắc và quan trọng trong phân biệt nhận thức theo Duy Thức Học cùng hành trì tu tập Phật đạo.
17/08/2020(Xem: 12387)
Năm 2020 những chương trình tu học Phật pháp như Phật Đản,Vu Lan, Khoá Tu Học Bắc Mỹ, Khoá an cư của Giáo Hội.v.v...khắp toàn cầu đều phải tạm ngưng vì nạn dịch COVID-19. Tại Mỹ và một số các nước, tất cả học đường phải đóng cửa và chuyển qua online. Giáo sư và sinh viên phải chật vật vì một hệ thống mới hoàn toàn. Sự thay đổi đó làm tất cả mọi người xôn xao và lo lắng, bất an...Bản thân chúng con, lịch giảng của các bang được sắp xếp vào năm trước-2019 phải huỷ bỏ. Phật tử khắp nơi gọi đến thăm hỏi và mong ước có được một lớp học Phật pháp bằng một phương tiện nào đó để tâm được an, thân được nhẹ từ lời giảng dạy trực tiếp của Chư Tăng-Ni. Đây cũng là điều mà chúng con trăn trở và tham vấn ý kiến của Chư tôn đức để chúng con có thể mở ra một chương trình tu học online miễn phí cho tất cả quý Phật tử khắp nơi trên thế giới.
16/08/2020(Xem: 8925)
Người giải thoát giống như một bánh xe quay tròn đều, không bị mắc kẹt, vướng bận, thanh thoát, thông suốt. Họ không còn ý niệm “tôi là như thế này, tôi là như thế nọ, tôi là đây, tôi là kia”. Người tu nhẫn nhục mà thấy ta đang nhẫn nhục là mắc kẹt rồi. Càng nhẫn nhục chừng nào thì CÁI TA càng lớn chừng đó. Nhẫn nhục mà không thấy ta nhẫn nhục thì mới thông suốt. Người tu hạnh khiêm cung mà thấy mình khiêm cung là mà mắc kẹt rồi. Càng khiêm cung chừng nào, thì CÁI TA càng lớn chừng đó. Tu riết như vậy lâu ngày thành bịnh, hết thuốc chữa vì kẹt lâu ngày, bánh xe không quay tròn đều được, thậm chí không thể chuyển động được vì các bộ phận bị ô-xy hóa, bị rỉ sét do chấp pháp, chấp tướng lâu ngày, thành thử bệnh nặng.
16/08/2020(Xem: 6052)
Một pho tượng Phật, được phát hiện trong khi đào móng cho một ngôi nhà tại Mardan, Mardan là một thành phố thuộc Khyber Pakhtunkhwa, Pakistan, hôm thứ Bảy, ngày 18 tháng 7 vừa qua, đã bị công nhân xây dựng địa phương đập vỡ thành nhiều mảnh bởi họ không tôn trọng thánh tích Phật giáo, khiến chính quyền địa phương phẫn nộ và lo lắng.
16/08/2020(Xem: 6327)
Cư sĩ Milton Glaser, người Mỹ, nhà Thiết kế Đồ họa hiện đại, với nhiều công trình nổi tiếng và bền bỉ. Ông đã từ giã trần gian và đã để lại ấn tượng những hình ảnh Phật giáo. Cư sĩ Milton Glaser, người Mỹ, nhà Thiết kế Đồ họa hiện đại đã mãn báo thân, trút hơi thở cuối cùng tại quận Manhattan, thành phố New York, Hoa Kỳ vào ngày 26 tháng 6 vừa qua, vào ngày Sinh nhật lần thứ 91 của ông.
15/08/2020(Xem: 5859)
(Thimphu, Bhutan) – Vào ngày 11 tháng 8 vừa qua, Chính phủ Vương quốc Hy Mã Lạp sơn Bhutan đã áp dụng lệnh phong tỏa toàn quốc đầu tiên kể từ khi đại dịch Virus corona tấn công Vương quốc Phật giáo này. Chính phủ Vương quốc Phật giáo này đã ban hành lệnh cách ly cho khoảng 750.000 người dân, các cơ quan nhà nước cũng đề nghị đóng cửa tất cả các trường học, cơ sở đào tạo và các cửa hàng kinh doanh; hoãn các kỳ thi và không rời địa bàn sinh sống trong thời gian này.
15/08/2020(Xem: 6122)
Sự từ biệt trần gian Ta bà của Cư sĩ Steven D. Goodman (1946-2020) là vô cùng kính tiếc, một sự mất mát cho việc nghiên cứu Phật giáo Tây Tạng tại phương Tây. Cư sĩ Steven D. Goodman, Giáo sư, Tác giả và Dịch giả nổi tiếng bởi các tác phẩm kinh điển Phật giáo Tây Tạng, đã an nhiên trút hơi thở cuối cùng tại tư gia và về cõi Phật vào ngày 03 tháng 8 năm 2020, Oaklan, Hoa Kỳ. Hưởng thọ 75 tuổi.
14/08/2020(Xem: 7592)
Phần này bàn về cách dùng tiền quí, cheo, bài ca dao “đi chợ tính tiền” và các cách tính tiền thời trước và thời LM de Rhodes, dựa vào tự điển Việt Bồ La và một số tài liệu chữ Nôm/chữ quốc ngữ. Đây là những chủ đề có rất ít người đề cập đến. Tài liệu tham khảo chính của bài viết này là bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) từ điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra từ điển này trên mạng, như trang này chẳng hạn http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false .
11/08/2020(Xem: 9690)
Ai đã truyền Việt Nam Phật Giáo qua Trung Quốc: Khương Tăng Hội, người Việt Nam. Vào năm nào: năm 247 tây lịch. Nơi nào tại Trung Quốc: Kiến Nghiệp, nay là Nam Kinh. Chùa đầu tiên được xây dựng tại Kiến Nghiệp là chùa nào: Do Khương Tăng Hội xây dựng chùa Kiến Sơ tại Kiến Nghiệp, Nam Kinh, hiện nay, 2020, vẫn còn. Trưỡng lão Hòa Thượng Thích Trí Quảng, Đệ Nhất Phó Pháp Chủ Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam đã đến thăm chùa đó cách nay mấy năm và đã xác nhận với tôi tại chùa Huê Nghiêm của Ngài tại quận hai, thành phố Hồ Chí Minh vào tháng 7 năm 2017. Khương Tăng Hội mất năm 280. Nghĩa là Ngài hành đạo tại Trung Quốc được 33 năm. Trong khi đó Bồ Đề Đạt Ma đến Trung Quốc năm 520, nghĩa là sau Khương Tăng Hội 273 năm.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]