Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vũ trụ luận Phật giáo

10/10/201821:42(Xem: 7740)
Vũ trụ luận Phật giáo

Vũ trụ luận Phật giáo

 duc-phat-vu-tru

           GS Nguyễn Vĩnh Thượng

Lời tác giả: Việc biên soạn chắc chắn không tránh khỏi những chỗ sai sót, chúng tôi ước mong được sự lượng thứ của các bậc cao minh. Những sự sửa sai và bổ khuyết của quý vị độc giả sẽ giúp  bài viết này được đầy đủ và hoàn hảo hơn trong lần viết lại; đó quả là niềm vinh hạnh cho chúng tôi.
    
NVT

 

      Trong bài viết này chúng tôi sẽ trình bày:

                  I.-Định nghĩa Vũ trụ luận.
                  II.- Vũ trụ luận trong tư tưởng Phật giáo.
                  III.- Ảnh hưởng của vũ trụ luận Phật giáo đối với đời sống xã hội hằng ngày.

 

I.- Định nghĩa vũ trụ luận:
              Trong bài “Phật giáo như là một triết học hay như là một tôn giáo”, chúng tôi đã định nghĩa về các cụm từ: siêu hình học, vũ trụ luận và bản thể luận. Nay tôi xin ghi lại các định nghĩa này trước khi tìm hiểu Vũ trụ luận của Phật giáo (Buddhist cosmology):

          Siêu hình học ( Metaphysics) là tiếng có nguồn gốc từ Hy Lạp cổ xưa là meta-physica (meta= bên kia, physica= vật lý, vật hữu hình). Siêu hình học có mục đích khảo sát bản chất căn bản của sự hiện hữu, của sự tồn tại (being). Siêu hình học là một trong những tác phẩm triết học của Aristotle (Hy lạp, Trong bài “Phật giáo như là một triết học hay như là một tôn giáo”, chúng tôi đã định nghĩa về các cụm từ: siêu hình học, vũ trụ luận và bản thể luận. Nay tôi xin ghi lại các định nghĩa này trước khi tìm hiểu Vũ trụ luận của Phật giáo (Buddhist cosmology):

          Siêu hình học ( Metaphysicslà tiếng có nguồn gốc từ Hy Lạp cổ xưa là meta-physica (meta= bên kia, physica= vật lý, vật hữu hình). Siêu hình học có mục đích khảo sát bản chất căn bản của sự hiện hữu, của sự tồn tại (being). Siêu hình học là một trong những tác phẩm triết học của Aristotle (Hy lạp, 384 tr.C.N). Siêu hình học gồm có hai ngành chính là: 384 tr.C.N). Siêu hình học gồm có hai ngành chính là:

                                 1.-Vũ trụ luận (Cosmology) là tiếng có nguồn gốc từ Hy lạp là Kosmos = thế giới, logia= nghiên cứu về. Vũ trụ luận là khoa nghiên cứu về thế giới, vũ trụ để tìm hiểu nguồn gốc, sự tiến hoá, thay đổi trải qua nhiều thế hệ, và số phận của vũ trụ. Việc khảo cứu về vũ trụ đã có một lịch sử lâu dài liên quan đến khoa học, triết học, thuyết bí truyền của một nhóm người, và của một tôn giáo. Vũ trụ luận nghiên cứu các vấn đề chính yếu sau đây: - Vũ trụ vạn vật phát sinh từ đâu?.-Tính chất của vũ trụ vạn vật như thế nào: tĩnh hay động, thường hằng hay vô thường, luôn luôn chuyển biến. Vũ trụ vạn vật có khởi thuỷ, có chấm dứt không?- và đưa ra giả thuyết về địa vị của con người ở trong vũ trụ.
                                2.-Bản thể luận ( Ontology) là tiếng có nguồn gốc từ Hy Lạp là ontos = sự hiện hữu, sự tồn tại (being); logia = nghiên cứu về. Bản thể luận là khoa nghiên cứu về sự hiện hữu (the study of being), về hữu thể (existence).
Bản thể luận khảo sát sự hiện hữu như là chính nó đang hiện hữu, tức là bản tính của hữu thể (the nature of existence), thực thể hiện hữu có thể chia ra thành các nhóm được gọi là các “phạm trù” của hữu thể (the categories of existence) và những điều liên hệ.

               Để hiểu rõ, chúng ta liệt kê các câu hỏi, các chất vấn mà Bản thể luận có thể đặt ra khi khảo sát về sự hiện hữu, về hữu thể như:
    -Cái gì là nguyên lý cơ bản ẩn tàng trong sự hiện hữu?
    -Cái gì khác nhau giữa thực tại chân thật (really existing) và chỉ là sự biểu hiện để hiện hữu (only appearing to exist)?
    -Thế giới bên ngoài có thực sự hiện hữu không?
    -Tha nhân có thật sự hiện hữu không?
    -Thượng đế (God) có thật sự hiện hữu không?
    -Tôi hiện hữu như thế nào?  hay Tôi từ đâu đến và tôi sẽ đi về đâu? hoặc Vì mục đích gì mà Tôi hiện hữu ở đây?

                Như vậy trong tư tưởng Tây phương, Bản thể luận chỉ nghiên cứu về hữu thể (existence) và đã đánh giá tích cực cho hữu thể, dĩ nhiên đã có nhận định tiêu cực cho vô thể (non-existence). Trong tư tưởng Đông phương thì “vô thể/ phi hiện hữu” (non-existing) là nền tảng cơ bản của Bản thể luận; như quan niệm (non-being) của Lão giáo, và quan niệm Tánh không (Srt. Sunyata, Emptiness) của Long Thọ / Nagarjuna (khoảng 150 - khoảng 250 CN).

 

II.-Vũ trụ luận của Phật giáo:

 

            Đức Phật lịch sử Thích-ca Mâu-ni đã giữ im lặng trước những câu hỏi về sự hiện hữu của Thượng đế hay Đấng sáng tạo. Ngài không bao giờ trả lời các câu hỏi của đệ tử về nguồn gốc của vũ trụ, về Đấng sáng tạo ra vũ trụ. Ngài đã phủ nhận bất cứ nguyên nhân đầu tiên nào hay là nguyên nhân của các nguyên nhân như là cội nguồn của tất cả những vật được tạo thành. Theo Đức Phật, tất cả những vật hiện hữu đều biến chuyển không ngừng. Sự biến chuyển này thì vô thuỷ vô chung. Nguồn gốc của vũ trụ không do một Đấng Sáng tạo (Creator God) tạo ra. Ngài nhấn mạnh rằng tất cả mọi vật hiện hữu trong tất cả thế giới thì thay đổi không ngừng. Tất cả mọi vật đều biến đổi từ trạng thái này sang trạng thái khác. Sự hiện hữu của mọi vật là một chuổi điều kiện để biến thành vật khác, sự biến chuyển này theo định luật  thường. Do đó, Đức Phật đã giảng dạy về “Duyên Khởi” hay “12 nhân duyên” nối kết nhau thành một chuỗi vòng tròn.
     (
Xem thêm bài Duyên Khởi của NVT)

                Đức Phật lịch sử đã không chấp nhận một Đấng Sáng Tạo ra vũ trụ, tức là Ngài không muốn bàn đến Vũ trụ luận là một bộ môn của Siêu hình học.

                Thật vậy, Đức Phật chỉ giảng dạy những điều gì mà Ngài gọi là Pháp (Dharma), là chân lý của sự hiện hữu (the truth existence). Chính bản thân Đức Phật lịch sử đã không thực hành Phật giáo (Buddhism) như ngày nay các vị Phật tử thực hành. Các đệ tử của Ngài, các vị thừa kế của Ngài đã quảng diễn, phân loại và làm đa dạng hoá các lời giảng dạy của Đức Phật lịch sử. Họ đã tạo nên những trường phái Phật giáo khác nhau, với những truyền thống khác nhau để giải thích các bài thuyết pháp mà chính Đức Phật có lẽ đã không dự đoán trong khi Ngài còn tại thế.

                   Đến thế kỷ thứ 3 trước Công Nguyên (3rd Century B.CE), Đại đế Asoka đã tổ chức Phật giáo như là một tôn giáo. Vào khoảng thế kỷ thứ nhất sau Công Nguyên (1st Century CE) thì truyền thống Phật giáo Đại thừa/Phật giáo Phát triển (Mahayana Buddhism/ Developmental Buddhism) bắt đầu phát sanh. Từ đó, Phật giáo Phát triển đã cố gắng giảng giải sự hình thành của vũ trụ và cuộc sống của con người. Như đã biết, Phật giáo đã triển khai lý thuyết về luân hồi (Samsara), thuyết này được cải tiến theo thời gian để giải thích sự hiện hữu của thế tục qua vòng sanh-tử không ngừng của sanh (birth), tử (death), tái sanh (re-birth), tái tử (re-death) trong một vũ trụ có 3 thế giới / tam giới (Srt. Tri-Loka/ Trai-Lokya/ Trai-Dhatuka; Pa. Ti-Loka; Av. Three regions/ Three Realms/Three Regions/ Three Spheres). Trước đó, Ấn độ giáo (Hinduism) cũng đã quan niệm về 3 thế giới gồm có: 1. Trời/ Thiên đàng (Srt. Swarga –Lok, Av. Sky/ Heaven); 2.Mặt đất/ nơi chúng ta đang sống (Srt. Martya –Lok, Av. The Earth); 3. Địa ngục (Srt. Narka – Lok, Av. The Hell) được coi là nơi ở dưới mặt đất.


               Trong các kinh văn của Phật giáo Nguyên thuỷ (Early Buddhism Texts) đã trình bày quan niệm về 3 thế giới ở trong vũ trụ. 3 thế giới là những nơi đến cho các chúng sanh theo nghiệp lực tái sanh (Karmic rebirth). Đó là:

                              1.-Dục giới (Srt. Kama-Loka/ Kamadhatu, Av. the word of Desire/ the Realm of Desire).
                               2.-Sắc giới (Srt. Rupa-Loka/ Rupa-Dhatu, Av. The world of Form/ The Realm of Form).
                               3.-Vô Sắc giới (Srt. Arupa-Loka/Arupa-Dhatu, Av. The world of No-Form(Form-less-ness)/ The Realm of No-form/ The abstract world).

 

                        Sau đây chúng ta sẽ duyệt qua các điểm chính của ba thế giới vừa nêu trên:

                          1.-Dục giới là thế giới mà chúng ta đang sống. Đây là thế giới của chúng sanh còn có những ham muốn về giới tính và về ăn uống (sex and food). Trong cảnh giới này chúng sanh còn ưa muốn về 5 dục: sắc dục, thanh dục, hương dục, vị dục và xúc dục.
                             Theo truyền thống của Phật giáo lúc sơ khai (Early Buddhist tradition) thì Dục giới có 5 loại trong bánh xe sinh tử là: 1.Cõi địa ngục, 2. Cõi Ngạ quỷ/quỷ đói, 3.Cõi súc sanh/ loài thú, 4.Cõi người, 5. Cõi trời. Rồi theo sự tiến triển, truyền thống Phật giáo về sau (later Buddhist tradition) đã thêm vô “Cõi thần”. Ngày nay, Phật giáo vẫn còn giữ quan niệm: có 6 loại trong Dục giới (6 Categories/ six sub-Realms), người Trung Hoa gọi là lục đạo (six ways):

                                     1.1.-Cõi Địa ngục (Srt. Niraya, Av. The Hell Realm) là nơi chúng sanh bị đày đọa.
                                    
1.2.-Cõi Ngạ quỷ/ Cõi quỷ đói (Srt.Preta, Av. The Realm of Hungry Ghosts) là nơi có những chúng sanh bị bỏ đói như một hình phạt vì các tội lỗi đã làm.

                                     1.3.- Cõi Súc sanh/ Cõi loài thú (Srt. Pasu, Av. The realm of Animals) là nơi chúng sanh là những động vật.
                                     
1.4. Cõi Người/ Cõi Nhân thế (Srt. Nara, Av. The realm of Humans) là nơi con người đang sanh sống. Đây là thế giới tốt để giúp con người tạo nên nghiệp nhân tốt để thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi. Nếu chúng sanh tạo nghiệp nhân xấu thì bị sa đọa vào cõi thấp kém hơn.
                                     
1.5.-Cõi Thần/ Cõi A-tu-la (Srt. Asura, Av. The Realm of Angels/ The Realm of lower Gods).
                                     
1.6.- Cõi Trời/ Cõi Thiên (Srt. Deva, Av.The realm of Gods): đây là nơi mà các Trời, các Tiên sống, các vị vừa hưởng được phước lạc vừa trông nom các chúng sanh ở 5 cõi kia. Các Thiên, các Tiên có quyền lực che chở cho người hiền đức khỏi bị bọn hung thần khuấy phá.

 

                          Việc tái sanh (re-birth) xảy ra không ngừng, tức là không có chúng sanh nào ở một cõi vĩnh viễn. Chúng sanh có thể tái sanh từ cõi này sang cõi khác là tuỳ thuộc vào nghiệp báo (volitional action), vào chủ ý và hành động (intentions/ wills, and actions). Nếu chúng sanh tạo nghiệp nhân tốt thì có thể chuyển đổi qua một cõi tốt hơn, và ngược lại.

 

                          2.-Sắc giới: đây là thế giới của các thiên, các tiên. Họ không còn những ham muốn về dục tính, không còn muốn ăn. Song vẫn còn hình thể và nhận thức (forms and perceptions). Chúng sanh đang ở cõi Dục giới có thể tu tập thiền định để có thể tái sanh vào cõi Sắc giới. Các Thiên, các Tiên có thể tu tập thiền định để đắc quả từ sơ thiền (1st Jhana), Nhị thiền (2nd Jhana), Tam thiền (3rd Jhana) và Tứ thiền (4th Jhana).

 

                         3.-Vô Sắc giới: đây là thế giới cao nhất trong vũ trụ, đây là một thế giới thuần tuý tâm linh (pure spirit/ pure awareness) nơi đây các Thiên xa lìa những ham muốn, tránh khỏi những hình sắc, nói cách khác đây là một thế giới không có hình thể và lòng ham muốn dục tính và ham muốn thực phẩm. Các vị Thiên, các vị Tiên ở đây đã đạt được thiền định cao thâm. Có bốn thế giới thiền (four Jhana worlds) tương ứng với 4 tình trạng thiền định Vô Sắc giới: 

                                   1.-Xứ không vô biên (The world of infinite space).
                                   2.-Xứ thức vô biên (The world of infinite consciousness).
                                   3.-Xứ vô sở hữu (The world of emptiness/ nothingness).

                                   4.-Xứ phi tưởng phi phi tưởng (The world of neither perception nor non perception).

 

            Chúng sanh ở trong 3 thế giới trên vẫn còn ở trong vòng sinh tử. Bởi vì Niết-bàn (Nirvana) không phải là một trạng thái của thiền định, Niết-bàn là một trạng thái giải thoát khỏi những điều kiện, những cấu tạo của hiện hữu (all conditioned and constructed existence).

             Tóm lại, chúng sanh vẫn lang thang trôi nỗi (wandering) từ kiếp này đến kiếp sống khác (life after life), từ thế giới này đến thế giới khác trong vòng sanh tử luân hồi cho đến khi chúng sanh ngộ được Niết-bàn thì chúng sanh mới thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi.

                 Quan niệm về 3 thế giới ở trong vũ trụ là vũ trụ luận của Phật giáo Đại thừa hay Phật giáo Phát triển.

 

III.-Ảnh hưởng của vũ trụ luận Phật giáo đối với đời sống hằng ngày:
          

         Chúng ta nhận thấy quan niệm vũ trụ luận của Phật giáo Phát triển có những ảnh hưởng đối với đời sống xã hội hằng ngày như sau:

                 1.- Cái nhìn mở rộng về 3 thế giới trong vũ trụ vạn hữu có thể khuyến khích mọi người phát triển các hành vi đạo đức của mình cho tốt đẹp hơn, giúp chúng ta hướng thiện để có thể tái sanh đến một thế giới tốt đẹp hơn. Chúng ta hiểu rằng con người và sinh vật không phải là những chúng sanh duy nhất sống trong vũ trụ. Quan niệm về thế giới ngạ quỷ, thế giới thiên, thế giới thần không thể chứng minh bởi khoa học, nhưng chúng ta có thể cảm nghiệm được qua các nghi lễ tôn giáo hay bởi những suy niệm siêu hình. Đôi khi trong thế giới thực nghiệm, không cần đến các nghi lễ tôn giáo, đã có một số người có thể cảm nhận sức mạnh linh thiêng của Trời, Phật, của Bồ-tát Quán thế âm và họ có thể cảm thấy sự xuất hiện của các vị này. Hơn nữa, sự hiểu biết về sự hiện hữu của vô số thế giới giúp con người không nên chỉ nghĩ về thế giới mình đang sống mà thôi, tức là trái đất này.

 

              2.-Quan niệm cho rằng vũ trụ này gồm có nhiều thế giới với nhiều tầng khác nhau giúp con người ý thức rằng các nghiệp hay hành động có ý thức của mỗi chúng sanh có thể xác định được tương lai của họ. Theo đạo đức học Phật giáo nếu một người thực hiện và giữ gìn 5 giới cấm như: không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối, không rượu chè trác táng; và giúp đở, bố thí người nghèo khó, hoạn nạn thì đã tạo được nghiệp nhân tốt, khi tái sanh có đến thế giới tốt hơn cõi người. Trái lại, nếu chúng sanh có những nghiệp nhân xấu như cướp của, giết người, hảm hại người khác v…v..., và không ăn năn, hối cải thì họ sẽ tái sanh vào cõi địa ngục, cõi ngạ quỹ, cõi súc vật.  Học thuyết về vũ trụ có nhiều thế giới đã làm sáng tỏ nguyên lý về nhân và quả trong học thuyết về “Duyên khởi hay Thập nhị nhân duyên” của Phật giáo.  Nguyên lý nhân quả giúp con người ý thức và hướng dẫn các hành động/nghiệp của mình để tạo nên các nghiệp nhân tốt, và do đó sẽ sanh ra các nghiệp quả tốt. Nếu xã hội này có nhiều người có hành động tốt thì thế giới này chắc không có chiến tranh, xã hội sẽ không có người đấu đá người, cảnh giựt giọc, cảnh có những kẻ hạ những thủ đoạn độc ác v…v…Nói thêm, việc phổ biến vũ trụ luận Phật giáo sẽ giúp cho đời sống xã hội sẽ bớt rối loạn, bớt xáo trộn hơn, tuy nhiên việc này đòi hỏi nhiều thời gian, không thể đạt được trong một sớm một chiều.

 

         3.-Cõi trời hay Thiên đàng với đời sống thanh thản của chư Thiên, chư Tiên là những hấp dẫn cho con người và gây niềm hy vọng cho nhiều người. Trong đời sống thực tế, con người gặp nhiều điều bất như ý, nhiều điều khổ nạn gây bởi bạn bè, anh em, vợ chồng, đồng nghiệp v…v… và những thiên tai gây ra. Mặc dầu cuộc cách mạng của kỷ thuật, những phát minh mới về các thuốc trị liệu nhiều chứng bịnh ngặt nghèo đã giúp sự phát triển đời sống vật chất và tinh thần, làm diụ bớt những đau đớn về thể xác và tinh thần, nhưng con người vẫn còn cảm thấy nhiều điều bất an. Quan niệm vũ trụ luận của Phật giáo có thể giúp người ta bình an về tinh thần nhờ ở niềm tin rằng người ta có thể vượt khỏi đời sống ở trái đất này để đi vào cõi thiên/ thiên đàng khi con người chết một khi con người đã tạo được nghiệp nhân tốt.

 

         4.-Ba thế giới trong vũ trụ vẫn còn trong vòng sinh tử luân hồi, tức là chúng sanh sống trong các thế giới này cũng có sự thay đổi vô thường. Thật vậy, mặc dầu cõi thiên có rất nhiều hạnh phúc và bình an hơn, nhưng chư Thiên sanh sống trong cõi Trời cũng không phải là không có thay đổi. Chư Thiên có thể có đời sống dài hơn chư nhưng Chư Thiên là những chúng sanh cũng phải chết, chư Thiên có thể tái sanh ở một cõi thấp hơn nếu chư Thiên có những hành động có chủ ý sai trái. Ba thế giới: Dục giới, Sắc giớiVô sắc giới là những gì biến đổi vô thường, chúng sanh cần phải vượt ra khỏi 3 thế giới này. Con người cần phải để ra nhiều thì giờ để thực nghiệm tâm linh và đạt được cứu cánh Niết-bàn để giải thoát khỏi sự tái sanh vào 3 thế giới vô thường này nữa.

 

Toronto, 09 August 2018

Nguyễn Vĩnh Thượng                    

 

Tái liệu tham khảo chính yếu:

  Như đã liệt kê ở các bài viết trước.

 

                     

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/02/2021(Xem: 4989)
Nhà thiền có danh từ Tọa Xuân Phong để diễn tả hạnh phúc khi thầy trò, đồng môn, được ngồi yên với nhau, không cần làm gì, nói gì mà như đang cho nhau rất đầy, rất đẹp. Danh từ đó, tạm dịch là “Ngồi Giữa Gió Xuân” Mùa Xuân chẳng phải là mùa tiêu biểu cho những gì hạnh phúc nhất trong bốn mùa ư? Hạ vàng nắng cháy, vui chơi hối hả như đàn ve sầu ca hát suốt mùa để cuối mùa kiệt lực! Thu êm ả hơn, nhưng nhìn mây xám giăng ngang, lá vàng lả tả, tâm- động nào mà không bùi ngùi tưởng tới kiếp nhân sinh?
07/02/2021(Xem: 5222)
Chú mục đồng chậm rãi bước xuống sông. Bên cạnh chú, con trâu lớn nhất đàn ngoan ngoãn xuống theo. Đôi mắt hiền lành của nó nhìn chú như mỉm cười, tin tưởng và thuần phục. Những con trâu bé hơn lại nhìn bước đi vững chãi, an lạc của con trâu đầu đàn mà nối nhau, cùng thong thả qua sông. Đây là khúc sông cạn mà chú đã dọ dẫm kỹ lắm. Đáy sông lại không có những đá nhọn lởm chởm có thể làm chân trâu bị thương. Bên kia sông, qua khu rừng có những cội bồ đề râm mát là tới đồng cỏ rộng. Mùa này, sau những cơn mưa, cỏ non vươn lên xanh mướt, đàn trâu gồm bẩy con mà chú có bổn phận chăm sóc tha hồ ăn uống no nê sau những giờ cực nhọc cầy bừa ngoài đồng lúa.
07/02/2021(Xem: 8012)
Khi những cơn bảo và áp thấp nhiệt đới hung hãn nhất vừa tạm qua đi, khí trời phương Nam cũng trở buồn se lạnh. Nhiều người cho đó là hoàn lưu của những cơn bão miền Trung mà tất cả con dân “bầu bí chung dàn” vẫn còn đang hướng về chia sẻ, nhưng ít người nhận ra rằng đó chính là cái se lạnh của mùa đông phương Nam, báo hiệu mùa xuân sắp đến nơi ngưỡng cửa của bộn bề lo toan hằng năm.
06/02/2021(Xem: 6151)
Mười bức “Tranh Chăn Trâu” trong phần này là của họa sư Nhật Bản Gyokusei Jikihara Sensei, vẽ vào năm 1982 nhân một cuộc thăm viếng thiền viện Zen Mountain Monastery ở Mount Tremper, New York, (Hoa Kỳ). Họa sư vẽ để tặng thiền viện. Các bài thơ tụng thời nguyên gốc của thiền sư Quách Am viết vào thế kỷ thứ 12. Thơ tụng được chuyển dịch ở đây bởi Kazuaki Tanahashi và John Daido Loori, sau đó được nhuận sắc bởi Daido Loori để mong tạo lập ra những hình ảnh và ẩn dụ cho thêm giống với phong cảnh núi sông ở quanh thiền viện Zen Mountain Monastery. Thiền sư Daido Loori là người lãnh đạo tinh thần và là tu viện trưởng của thiền viện này.
04/02/2021(Xem: 5631)
Hôm qua mình có giới thiệu cuốn sách Buddhism in America (Phật Giáo Mỹ) của Richard Hughes Seager. Có bạn hỏi thêm muốn tìm hiểu Phật Giáo Mỹ nên nhờ mình giới thiệu vài cuốn. Nghĩ rằng đây là câu hỏi hay nên mình xin viết giới thiệu 7 cuốn sách để nhiều người lợi lạc. 1. Cuốn The Faces of Buddhism in America (Diện Mạo của Phật Giáo ở Mỹ) do Charles Prebish 2. Buddhist Faith in America (Đức Tin Phật Giáo ở Mỹ) tác giả Michael Burgan 3. Buddhism in America của Richard Huges Seager (1999, tái bản 2012) 4. Buddhism in America của Scott Mitchell 5. Altered Traits: Science Reveals How Meditation Changes Your Mind, Brain, and Body, 2017 6. A Mindful Nation: How a Simple Practice Can Help Us Reduce Stress, Improve Performance, and Recapture the American Spirit, 2012, 7: American Dharma: Buddhism Beyond Modernity
01/02/2021(Xem: 4267)
Tại các nước nông nghiệp hình ảnh con trâu với đứa trẻ chăn trâu ngồi trên lưng trâu thổi sáo là một hình ảnh quen thuộc thường gắn liền với đời sống của người dân. Tại Việt Nam, từ lâu hình ảnh này đã đi vào tâm thức mọi người và không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào lãnh vực văn học nghệ thuật nữa. Trong văn học Phật giáo nói chung và văn học Thiền tông nói riêng thời hình ảnh con trâu với trẻ mục đồng đã trở thành thi liệu, biểu tượng, thủ pháp nghệ thuật. Những hình ảnh này hiển hiện trong truyền thống kinh điển cũng như được đề cập đến nhiều lần trong những thời pháp của đức Phật khi Ngài còn tại thế.
01/02/2021(Xem: 9187)
Vào thời thái cổ, theo truyền thuyết Đế Minh là cháu bốn đời của vua Thần Nông đi tuần thú phương Nam đến núi Ngủ Lĩnh ( nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung quốc ). Vua Đế Minh đã dừng chân tại nơi nầy, ngài cưới Vu Tiên nữ con vua Động Đình Hồ làm vợ. Đế Minh sinh được một trai tư chất thông minh ngài đặt tên Lộc Tục. Vào năm 2879 trước tây lịch ( khoảng thế kỷ thứ 7 TCN ) Đế Minh phong cho con làm vua ở phương Nam. Lộc Tục lên ngôi xưng đế hiệu Kinh Dương Vương đặt tên nước là Xích Quỷ ngài đóng đô tại Phong châu.
01/02/2021(Xem: 5733)
Kinh Phật đầu tiên là kinh Hoa Nghiêm, kinh Phật cuối cùng là kinh Đại Bát Niết Bàn. Chúng ta học hai kinh nầy để nắm trọn lịch trình của đạo Phật. Kinh Đại Bát Niết Bàn thường gọi là Niết Bàn là kinh vừa kể lại lịch sử đức Phật trước khi nhập diệt vừa là kinh nói về lời giáo huấn cuối cùng của ngài. Vừa tâm lý tình cảm vừa là lời nhắn nhủ sau cùng của Phật cho đạo tràng như người cha trăn trối cho con tiếp tục theo đường đi của ngài. Đời thế gian của Đức Phật khi sinh ra vì bào thai to lớn quá phải giải phẩu bụng của mẹ ngài nên mất máu mà mất sớm, ngài sống qua sự nuôi dưỡng của người dì em của mẹ.
01/02/2021(Xem: 7048)
Phần này bàn về các danh từ gọi dụng cụ gắp cơm và đưa vào miệng (ăn cơm) như đũa hay trợ, khoái, giáp cùng các dạng âm cổ của chúng. Các chữ viết tắt khác là Nguyễn Cung Thông (NCT), Hán Việt (HV), Việt Nam (VN), TQ (Trung Quốc), ĐNA (Đông Nam Á), HT (hài thanh), TVGT (Thuyết Văn Giải Tự/khoảng 100 SCN), NT (Ngọc Thiên/543), ĐV (Đường Vận/751), NKVT (Ngũ Kinh Văn Tự/776), LKTG (Long Kham Thủ Giám/997), QV (Quảng Vận/1008), TV (Tập Vận/1037/1067), TNAV (Trung Nguyên Âm Vận/1324), CV (Chính Vận/1375), TVi (Tự Vị/1615), VB (Vận Bổ/1100/1154), VH (Vận Hội/1297), LT (Loại Thiên/1039/1066), CTT (Chính Tự Thông/1670), TViB (Tự Vị Bổ/1666), TTTH (Tứ Thanh Thiên Hải), KH (Khang Hi/1716), VBL (tự điển Việt Bồ La/1651) ĐNQATV (Đại Nam Quấc Âm Tự Vị/1895).
29/01/2021(Xem: 5744)
Ở đời không phải ai cũng chấp nhận sự chân thành của bạn. Những người quanh ta luôn công nhận việc tốt mà ta đã và đang làm, trở thành đương nhiên như thế… và đến một ngày kia bạn quá mệt mỏi liệu có ai bên cạnh bạn và cảm thông với bạn không? Vì trong suy nghĩ của họ bạn là người tự nguyện cho đi..., trong hoàn cảnh như thế liệu bạn có tiếp tục cho đi nữa hay không? Tất nhiên là có, chúng ta hãy tiếp tục sống tốt nhưng phải là người tốt thông minh. Hãy tin rằng không có nỗ lực nào là uổng phí, hãy có quan điểm và lý tưởng của chính mình, luật nhân quả luôn đền bù cho bạn xứng đáng. Nhà Phật dạy có Luân Hồi-Ngiệp Báo. Không ai phủ nhận rằng quan tâm chăm sóc người khác là tốt, nhường nhịn người khác đều là tốt, tuy nhiên quan tâm quá, họ sẽ làm khó ta vạn lần, nhiệt tình quá họ sẽ đâm ra nghi ngờ, thậm chí khiến bạn bị tổn thương …
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]