Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Loại Trừ Những Chướng Ngại Cho Một Sự Chết Thuận Lợi

28/08/201818:36(Xem: 6191)
Loại Trừ Những Chướng Ngại Cho Một Sự Chết Thuận Lợi
Loại Trừ Những Chướng Ngại Cho Một Sự Chết Thuận Lợi
 
Nguyên bản: Removing obstacles to a favorable death
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D.
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển

his-holiness-dalai-lama-002

 

-***-

 

Mặc dù ta kìm lại kiên cố, nhưng ta không thể ở lại

Lợi lạc gì ở đấy

Trong sự kinh khủng và sợ hãi

Của những gì không thể thay đổi được?

-ĐỨC PHẬT-

 

-***-

 

Thi Kệ Số Bốn

Xin cho chúng tôi được giải tỏa khỏi sự tràn ngập của đau khổ

Qua nhiều nguyên nhân của sự chết

Khi trong tập họp này của những nhận thức sai lầm về chủ thể và đối tượng

Thân thể của ảo tưởng được cấu thành bởi bốn yếu tố bất tịnh

Và tâm thức sắp chia ly

 

 - việc sử dụng hết phước nghiệp vốn giữ cho sự sống tiếp tục. Những trường hợp này có thể giải thích cho sự thực tập lâu dài của ta với những thể trạng đạo đức của tâm thức đã không hoạt động (mặc dù điều này không cần thiết như vậy). Khổ đau tự nó có thể làm phát sinh rất nhiều sự sợ hãi mà việc quán chiếu đạo đức trở thành vô hiệu, ngoại trừ đối với những ai đã được tu tập đến một trình độ cao cấp và có những năng lực lớn về thiền nhất tâm. Do vậy, thật quan trọng để phát những nguyện ước ngay từ bây giờ để được thoát khỏi những nổi đau đớn và sợ hãi tràn ngập như vậy, và để chết trong một cung cách thư thái, điều này cho phép thái độ đạo đức mà ta đã từng trau dồi được mạnh mẽ; ta sẽ có thể chết với một sự thấu hiểu rộng lớn hơn.

 

Vì sự chết liên hệ đến việc chia lìa thân thể và tâm thức, thật quan trọng để nhận ra bản chất của “cái tôi” vốn được thiết lập liên hệ đến tập họp của các uẩn vật lý và tâm lý, cũng như bản chất của chính các tập họp uẩn này. Loại thân thể mà chúng ta sở hữu là một thực thể bất tịnh, được sản sinh từ bốn yếu tố của đất, nước, gió, lửa; chủ thể chịu đau đớn từ ngay cả những nguyên nhân sơ sài, và giống như một ảo tưởng cả trong cảm giác của việc hiện hữu ở đây một thời khắc và qua đi trong thời khắc tiếp theo, và trong cảm nhận việc xuất hiện để tồn tại một cách cố hữu nhưng thật sự là một sự tồn tại cố hữu vốn trống rỗng. Bằng việc hiện hữu là sạch nếu được rửa, và  hiện hữu hạnh phúc, thường còn, và dưới sự điều khiển của ta, thân thể an trú, có thể nói như vậy, trong một tập họp của những khái niệm sai lầm về bản chất của tâm ý và những đối tượng của nó.

 

Tập  họp của những khái niệm sai lầm trong thi kệ số bốn liên hệ đến vòng luân hồi. Nó được xây dựng bằng những hành vi (nghiệp) vốn dưới ảnh hưởng của các cảm xúc phiền não. Những cảm xúc phiền não sinh khởi từ si mê - khái niệm thiển cận của sự tồn tại cố hữu, ngộ nhận bản chất của tự thân và người khác, cũng như mọi thứ - vọng tưởng những thứ này tồn tại bằng cung cách hiện hữu của chính họ. Do thế, si mê là nguyên nhân căn bản của vòng đau khổ và vòng luân  hồi.

 

Việc hiểu sai về sự tồn tại cố hữu thúc đẩy nghiệp – cả những hành động và các khuynh hướng được tích tập từ những hành động ấy – động lực của vòng luân hồi. Các hiện tượng sinh khởi qua tiến trình này của si mê xuất hiện để tồn tại cố hữu, nhưng chúng không như vậy, và vì vậy là tập họp của những sai lầm. Tập họp của vòng luân hồi được tạo nên bằng nhận thức sai lầm rằng chủ thể và đối tượng, kẻ đi bắt và người bị bắt, các hiện tượng nội tại và ngoại tại, tồn tại trong và tự chính chúng, một cách cố hữu, dưới năng lực của chính chúng.

 

Với thi kệ này, ta phát nguyện ước rằng khi tâm thức sắp chia lìa khỏi thân thể ảo tưởng được làm nên bởi bốn yếu tố, thì ta sẽ không bị phiền não với nổi đau khổ tràn ngập, vì điều này sẽ gây trở ngại cho sự thực tập thành công. Những điều kiện khác ngăn trở là tham luyến và thù oán, vốn là những chướng ngại khổng lồ cho một thái độ đạo đức.

 

TOÁT YẾU THỰC TẬP

 

1-    Hãy thực tập bây giờ vì thế vào lúc lâm chung năng lực sự quen thuộc của ta với đạo đức sẽ tác động thái độ của ta.

2-    Hãy xem thân thể thật sự là một tập họp của những nhận thức sai lầm, vì mặc dù nó hiện hữu là sạch sẽ khi ta tắm rửa nó, cũng như một nguồn gốc của hạnh phúc, thường còn, và dưới sự kiểm soát của ta, nó không phải vậy. Nó được sản sinh từ bốn yếu tố (đất, nước, gió, lửa), là đối tượng của đau khổ, và thay đổi từng thời khắc tương hợp với bản chất của nó.

3-    Mọi người và mọi vật hiện hữu để tồn tại dưới năng lực, và sự si mê của chính chúng chấp nhận hiện tướng sai lầm này, làm cho sinh khởi những cảm xúc phiền não về tham luyến, thù oán, và bối rối thêm. Những cảm xúc phiền não này lại làm ô nhiễm các hành vi của thân thể, lời nói và tâm ý, làm tiến trình của vòng luân hồi kéo dài mãi. Hãy thấu hiểu rằng ta đang sống trong một tập họp của những nhận thức sai lầm.

 

Thi Kệ Số Năm

Xin cho chúng tôi được thoát khỏi những hiện tướng sai lầm phi đạo đức

Khi, bị lừa dối vào lúc nhu cầu kéo dài thân thể này quá thiết tha

Những kẻ thù kinh khủng – thần chết – biểu hiện

Và chúng ta tự giết mình

với những vũ khí của ba độc tố: tham luyến, thù oán, và bối rối.

 

Thời điểm lâm chung là rất quan trọng, vì nó đánh dấu sự chấm dứt một kiếp sống và sự bất đầu một kiếp sống mới. Nếu vào lúc quyết định này thân thể tiếp tục duy trì với ta, ta có thể đặt sự tin tưởng vào nó, nhưng vào lúc quan trọng nó lừa dối chúng ta. Thân thể của chúng ta, được kéo dài rất thân thiết bằng thực phẩm, áo quần, tiền bạc, nhà ở, thuốc men, và ngay cà những hành vi xấu ác, từ bỏ chúng ta.

 

Chỉ đề cập sự chết làm chúng ta hơi không thoải mái. Khi tiến trình sự chết của chính ta biểu hiện và những khía cạnh hải sợ của vô thường, được gọi là “thần chết” trong thi ca, tự biểu hiện, một số người phản ứng với một sự dính mắc mạnh mẽ với tài sản, thân nhân, bè bạn, và thân thể, trong khi những người khác tỏ ra thù oán kẻ thù của họ và cho sự đau khổ dường như không thể chịu đựng nổi. Thậm chí nếu tham luyến và thù oán không hiện diện, ta lại phát sinh một niềm tin mạnh mẽ trong chính sự tồn tại cố hữu của chính ta và tất cả những hiện tướng của nó – hình thức trung tâm của si mê. Ba độc tố này – tham luyến, thù oán, và si mê – là những chướng ngại nội tại mạnh mẽ nhất đối với sự thực tập đạo đức của ta, và trong một cảm nhận sâu hơn, đây là những vũ khí mà với nó ta tự giết mình vào lúc chết. Để giữ cho những thái độ độc hại này không sinh khởi trong khi lâm chung, hãy thiết lập những nguyện ước rằng tham luyến, và thù oán mạnh mẽ không sinh khởi và những hiện tướng sai lầm không xuất hiện.

 

Vào lúc lâm chung, thật quan trọng để thoát khỏi thuốc men vốn làm cho ta không thể suy nghĩ một cách thích đáng. Đối với một hành giả tôn giáo các dược phẩm làm tối tăm tâm thức là phải tránh, vì tâm ý ta phải trong sáng tối đa như có thể. Việc tiêm một mũi thuốc cho phép “một sự chết bình yên” có thể cướp mất cơ hội cho tâm thức biểu hiện trong một cung cách đạo đức bằng việc quán chiếu về vô thường, phát sinh niềm tin, cảm nhận từ bi, hay quán chiếu về vô ngã. Tuy nhiên, nếu một liều thuốc giảm đau không làm tâm thức mê mờ được phát triển, thì thậm chí nó có thể hữu ích, vì ta có thể tiếp tục biểu hiện chức năng tinh thần, thoát khỏi sự xao lãng vì đau đớn.

 

TOÁT YẾU THỰC TẬP

 

1-    Hãy thấu hiểu rằng thân thể này, mà ta duy trì với bất cứ giá nào, thì sẽ ruồng bỏ ta một ngày nào đó.

2-    Hãy tránh tham luyến với hoàn cảnh chúng ta đang lìa xa.

3-    Hãy tránh thù oán mà chúng ta phải bỏ lại.

4-    Hãy cách xa khỏi tham luyến, thù oán, và si mê tối đa như có thể, vì thế ta có thể duy trì sự thực tập đạo đức trong khi lâm chung.

5-    Hãy nhận ra rằng bằng việc uống thuốc hay tiêm thuốc để có một sự chết an lành thì ta có thể đang tự đánh mất một cơ hội quyết định cho việc biểu hiện đạo đức.

 

Ẩn Tâm Lộ, Tuesday, August 7, 2018

 

 

 

HƯỚNG DẪN VỀ SỰ CHẾT ĐỂ SỐNG TỐT ĐẸP HƠN

 

Nguyên bản: Advice on Dying and Living a Better Life

Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma

Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D.

Chuyển ngữ: Tuệ Uyển

 

MỤC LỤC

01-Tỉnh thức về sự chết

02- Giải thoát khỏi sự sợ chết

03- Chuẩn bị để cho sự chết

04- Loại trừ những chướng ngại đến cái chết có lợi

05-Thành tựu những điều kiện thuận lợi cho thời điểm lâm chung

06- Hành thiền trong khi đang chết

07- Cấu trúc bên trong

08- Linh quang của sự chết

09- Phản ứng với tình trạng trung ấm thân

10- Đón nhận một sự tái sanh tích cực

11- Thi kệ quán chiếu hàng ngày

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/01/2021(Xem: 7373)
“Tha Nhân Là Địa Ngục” (L’enfre, cest les autres/Hell is other people) là câu nói thời danh của triết gia Pháp Jean Paul Sartre. Trong vở kịch nhan đề Huis Clos (Cửa Đóng) tiếng Anh dịch là “Không lối thoát” (No Exit) và tiếng Việt có nơi dịch là “Phía Sau Cửa Đóng” trong đó mô tả ba nhân vật lúc còn sống đã làm nhiều điều xấu. Khi chết bị nhốt vào địa ngục nhưng không phải là “địa ngục” với những cuộc tra tấn ghê rợn về thể xác mô tả trong các tôn giáo, mà bị nhốt vĩnh viễn trong một căn phòng kín. Tại đây ba nhân vật bất đồng, cãi vã nhau- không phải vì cơm áo mà vì quan điểm, sở thích, cách suy nghĩ, tư tưởng, lối sống. Cuối cùng một người không sao chịu đựng được đã thốt lên “Tha nhân là địa ngục”. Câu nói này trở nên nổi tiếng và tồn tại cho tới ngày nay.
07/01/2021(Xem: 6572)
Vào năm 2004, Thư Viện Anh Quốc đã mở cửa đón khách vào thưởng một “pháp bảo” của Phật giáo Trung Hoa mang tên “Kinh Kim Cang”, đó là một trong những cổ vật chính được trưng bày tại cuộc triển lãm “Con Đường Tơ Lụa. Bên cạnh cuốn “Kinh Kim Cang” còn có những cổ vật khác được giữ gìn hoàn hảo hơn 1000 năm qua như : một súc lụa, một tấm thảm trải trước lò sưởi tại ngôi nhà bỏ hoang đã 1.100 năm, một cuộn len 1300 năm tuổi … Phần lớn cổ vật trưng bày tại triển lãm được lấy từ bộ sưu tập của Sir Marc Aurel Stein.
07/01/2021(Xem: 6166)
Một khuôn mặt trong một tấm gương xuất hiện là một khuôn mặt, nhưng thế nào đi nữa hình ảnh đấy không là một khuôn mặt thật sự; đấy là từ những quan điểm trống rỗng về sự hiện hữu của một khuôn mặt. Giống như thế, một nhà huyển thuật có thể gợi lên những ảo ảnh dường như là những thứ thật sự. như một người ở trong một cái thùng bị xiên bởi một cây gươm, nhưng tất cả hoàn toàn không được tạo ra thật sự như những thứ được thấy. Tương tự thế, các hiện tượng như thân thể hiện diện được tạo ra từ chính phía của đối tượng nhưng trống rỗng trong việc được thiết lập cách ấy và luôn luôn như thế.
04/01/2021(Xem: 6055)
Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa ra nhận xét chính thức đầu tiên về việc nghỉ hưu, từ các trách nhiệm chính trị trong một buổi giảng dạy công khai tại Tsuglagkhang, Dharamshala, ngày 19 tháng 3 năm 2011. Năm 1963, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã ban hành một Hiến pháp Dân chủ (democratic constitution) hoàn toàn dựa trên Giới luật Phật giáo, và bản Hiến chương Nhân quyền của Liên Hợp Quốc để biên soạn, và chuẩn bị cho một mô hình đất nước Tây Tạng tự do ở tương lai:
04/01/2021(Xem: 7612)
Ngày Xuân ngày Tết, nếu ai tìm những giờ phút thanh thản yên tịnh bằng những bước nhẹ nhàng khoan thai vào vãng cảnh các chùa chiền tự viện, dâng hương bái Phật, nếu để ý sẽ thấy ở một vách tường nào đó treo bộ tranh mang tên gọi là “Thập mục ngưu đồ”. Không phải chốn già lam thiền viện nào cũng có trưng treo, vì đó không phải là điều bắt buộc thuộc thanh quy giới luật, nhiều khi chỉ được treo để trang trí, hay được trưng ra ở một nơi hằng ngày đi qua đi lại như để nhắc nhở, vậy nếu khi ta bắt gặp được tức là ta đang hữu duyên, hãy đừng bỏ dịp đứng trước bộ tranh mang những nét sơ sài ấy để ngắm từng bức mà chiêm nghiệm nghiền ngẫm.
04/01/2021(Xem: 4674)
Phật Vàng (Golden Buddha) có tên chính thức trong tiếng Thái là “Phra Phuttha Maha Suwana Patimakon”, nặng 5,5 tấn. Sau nhiều lần di chuyển, pho tượng hiện đang nằm trong đền thờ Wat Traimit, Bangkok, Thái Lan. Hiện tại, mặc dù các học giả vẫn chưa xác định chắc chắn nguồn gốc của pho tượng là bắt nguồn từ thời gian nào. Nhưng dựa theo cấu trúc của phần đầu bức tượng (hình quả trứng), thì có thể đoán rằng, nó ra đời vào dưới triều Sukhothai vào thế kỷ 13 – 14 – một trong những giai đoạn nổi tiếng nhất của nghệ thuật kiến trúc Phật giáo Thái Lan.
03/01/2021(Xem: 9670)
Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu Thiền sư TRÌ BÁT (Kỷ Sửu 1049) Thiền sư TỊNH THIỀN (Tân Sửu 1121) Hoà thượng THÍCH ĐẠT THANH (Quý Sửu 1853) Hoà thượng THÍCH GIÁC NHIÊN (Đinh Sửu 1877) Thiền sư THÍCH CHƠN PHỔ - THUBTEN OSALL LAMA (Kỷ Sửu 1889) Hoà thượng THÍCH BỬU LAI (Tân Sửu 1901) Hoà thượng THÍCH THIÊN ÂN (Ất Sửu 1925) Hoà thượng THÍCH MINH THÀNH (Đinh Sửu 1937)
03/01/2021(Xem: 5793)
“Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Với một nước nông nghiệp như nước ta, hình ảnh con trâu nặng nề lầm lũi, kềnh càng cục mịch luôn gắn bó với những cánh đồng thửa ruộng, thân thiết với bao người nông dân chân lấm tay bùn, và gần gũi với lũ trẻ mục đồng thường nghêu ngao bài hát quen thuộc “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ!”… Không chỉ như thế, trâu cũng đã từng gắn bó với cuộc đời một vài danh nhân lịch sử như Đinh Bộ Lĩnh, Đào Duy Từ… Đối với nền văn học nước nhà, con trâu còn có cái công rất lớn trong việc làm phong phú ngôn ngữ, nhất là trong ca dao- đồng dao-tục ngữ.
01/01/2021(Xem: 5374)
Từ lâu các kinh sách Phật Giáo Việt Nam bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ âm Hán Việt của Trung Quốc. Từ những được chư tôn thiền đức Tăng Ni chuyển qua quốc ngữ tiếng Việt, để Phật tử dễ đọc, nhất là những vị chưa có kiến thức về âm Hán Việt. thế kỷ 20 (năm 2000 trở đi) các kinh sách dần dần đã Người biên soạn xuất gia tại Chùa Liên Hoa, Bình Thạnh, với Tôn Sư Hải Triều Âm, các kinh sách trong Chùa tụng bằng tiếng Việt do Tôn sư chuyển ngữ. Từ năm 2005 trở đi, người biên soạn định cư và hoằng pháp tại Hoa Kỳ. Nhiều Chùa ở Hoa Kỳ vẫn còn tụng kinh bằng âm Hán Việt và nhiều nơi phải tụng bằng tiếng Anh cho người bản địa và thế hệ con cháu thứ hai sanh tại Mỹ có thể tụng hiểu được. Phật tử Việt tụng kinh bằng tiếng Việt mà vẫn chưa hiểu được ý nghĩa ẩn sâu trong lời kinh và càng bối rối hơn khi tụng kinh bằng bằng âm Hán Việt. Đó là lý do thúc đẩy, chùa Hương Sen biên soạn một cuốn “NGHI LỄ HÀNG NGÀY” bằng tiếng Việt và tổng hợp gần 50 bài kinh:
01/01/2021(Xem: 6090)
Trong kho tàng văn học của Việt Nam và Phật Giáo, Trần Thái Tông (1225 - 1258) đã có những đóng góp vô cùng to lớn và giá trị, những sáng tác của Ngài, bất hủ qua dòng thời gian, tỏa sáng lồng lộng trên bầu trời Dân Tộc và Đạo Pháp. Trần Thái Tông được kể như một vị Thiền sư cư sĩ vĩ đại, nhà thiền học uyên thâm, thành tựu sự nghiệp giác ngộ. Một vị vua anh minh dũng lược, chiến thắng quân Nguyên Mông giữ gìn bờ cõi, đem lại cường thịnh ấm no cho dân cho nước, đã để lại tấm lòng cao quý thương yêu đời đạo, lưu lại di sản trí tuệ siêu thoát cho hậu thế noi theo.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]