Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bà Chủ Chùa

04/08/201810:30(Xem: 6789)
Bà Chủ Chùa

“BÀ CHỦ CHÙA”

Chưa bao giờ mà quyền lực mềm mang tên nhà bếp tại đa số các chùa lại lên ngôi đến vậy.

Nó dần trở thành điểm đen nhạy cảm nhất tại các chùa khi Phật tử luôn được cảnh báo trước về những bất cập cho những ai đang có ý định phát tâm ở lại công phu, công quả lâu dài.

“Nhất bái trụ trì, nhị bái Thích ca, thứ ba nhà bếp”, nó như luật bất thành văn, vì không biết mà lỡ đụng vào cái gì, tìm cái mô, tô hay chén cũng dễ dàng bị sửa lưng, nhắc nhở như kiểu: “Muốn cái gì thì nói - Đói thì cũng từ từ - Cái chùa này có ngừ (người) - Chứ không phải vô chủ”.

Vì được sự hậu thuẫn mạnh mẽ từ phía sau, vì cứ nghĩ không có ta là ngôi chùa này sẽ đóng cửa, vì là người có công, có cán nên dần trở thành “bà chủ chùa” đầy uy nghiêm - quyền lực, nắm trong tay cả quyền sinh sát mà cả trụ trì cũng phải im lặng, còn Tăng chúng cũng phải dè chừng, khép nép khi muốn cần gì từ nhà bếp chứ huống chi là Phật tử mới ngày đầu nhập đạo - chạy mất dép.

Quyền lực đó được thể hiện một cách vi tế từ ánh mắt dò xét cho đến bằng giọng điệu khó nghe, khuôn mặt nhăn nhó, sân hận tự kiêu như chứa đầy những ý niệm độc tố được hoà lẫn vào trong từng món ăn mỗi khi dâng lên cúng dường cho Tăng chúng.

Nếu như người đứng đầu không để tâm

Dần rồi ngôi chùa được chia thành hai thế giới khác biệt, theo từng phe, từng nhóm, người thì muốn được yên nên chỉ đến tụng kinh, niệm Phật xong là bẽn lẽn ra về dù đang đói, còn mấy ông bà chủ chùa thì chẳng khi nào chịu lên chánh điện để tu như một sự cố thủ cho uy quyền và lãnh địa.

Riết rồi cái tâm học đạo ban đầu như đã mất, nghe đến cái tên là ai cũng ngán, cũng né, cũng dè chừng, phước thì không thấy mà phiền não sân si thì dãy đầy.
su giac minh luatTác giả ĐĐ Giác Minh Luật



Nghĩ cũng thương - vì được phước ở chùa lâu mà tánh tình như thị mầu, thị nở.

Cửa chùa tuy rộng mở nhưng khó ở được nếu không có tâm tu, hiền lành và khiêm hạ.

Thiệt lòng thì mình cũng như người ta, ai đến chùa cũng vì tìm cầu học đạo, vì muốn có được điểm tựa bình an cho cuộc đời, chứ không phải vì miếng ăn, tô cơm hay bát phở mà lại vô tình nói năng như kiểu ban ơn làm phước.

Do trong chùa nên người ta mới nhịn chứ không phải làm thinh là không hay, không biết.

Ngôi già lam có yên bình, Tăng chúng có yên ổn, Phật tử có hiệp hoà hay không cũng một phần quan trọng từ nhà bếp, nên đã có duyên được phụng sự, được có phước gần gũi chúng Tăng, thân cận Phật tử vào ra thì nên biết giữ gìn mà tiếp tục gieo trồng những hạt giống của khiêm cung, hiền lành và tươi mát, bằng không sẽ tự biến mình thành tự mãn, bất cần và lập dị.

Vì chùa là của thập phương bá tánh góp công tô tạo, chứ không của riêng ai thì lấy đâu ra quyền uy và kiêu ngạo.

Hãy nghĩ lại những ngày đầu tiên tìm thầy học đạo đầy rụt rè, cung kính, dễ thương, dễ mến để vội hồi đầu thức tỉnh, chứ bằng không coi mình trên cả chúng Tăng là tội lỗi khôn cùng chứ lấy đâu ra phước đức mà tự hào, hãnh diện.

Ở chùa từ nhỏ, gặp nhiều nên riết rồi cũng hiểu.

Vài lời nhắn gửi chung cho những người có tâm khi đã nhiều lần vô tình chứng kiến những nỗi đau âm thầm được vọng lên từ nhà bếp.

Giác Minh Luật

Bang Arizona, 29/07/2018.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
25/10/2012(Xem: 8381)
Phương pháp thiền Vipassana là một phương pháp đơn giản và thực tiễn để đạt được an lạc thực sự cho tâm hồn và đưa đến một cuộc sống hạnh phúc và có ích. Vipassana có nghĩa là “nhìn thấy sự việc đúng như thật”. Đây là một tiến trình hợp lý để thanh lọc tâm bằng cách tự quan sát. Phương pháp thiền cổ truyền này đã được Đức Phật Thích Ca truyền dạy hơn 2500 năm trước tại Ấn Độ như một phương thuốc chữa căn bệnh khổ chung cho tất cả, không mang tính tôn giáo hay tông phái.
25/10/2012(Xem: 8387)
Phương pháp thiền Vipassana là một phương pháp đơn giản và thực tiễn để đạt được an lạc thực sự cho tâm hồn và đưa đến một cuộc sống hạnh phúc và có ích. Vipassana có nghĩa là “nhìn thấy sự việc đúng như thật”. Đây là một tiến trình hợp lý để thanh lọc tâm bằng cách tự quan sát. Phương pháp thiền cổ truyền này đã được Đức Phật Thích Ca truyền dạy hơn 2500 năm trước tại Ấn Độ như một phương thuốc chữa căn bệnh khổ chung cho tất cả, không mang tính tôn giáo hay tông phái.
24/10/2012(Xem: 6660)
Buổi sinh hoạt đạo tràng hôm nay quý thầy sẽ cho quý Phật tử một bài tập để tu học, bài tập này có tựa là “Tập nghĩ tốt cho người”. Đây là một bài tập phải trui luyện suốt năm. Tại sao chúng ta phải tập nghĩ tốt cho người? Vì người ta thường có thói quen thấy cái xấu mà ít thấy cái tốt của người. Nhất là khi đã có thành kiến với ai thì lại càng cố nhìn những cái xấu của người nhiều hơn, và khi đã ghét ai thì đến cái cửa, cái cổng cũng ghét luôn, nên người biết tu rồi thì phải tập nghĩ đến cái tốt của người khác.
22/10/2012(Xem: 6583)
Sau khoá sám hối và toạ thiền buổi tối mùng 1 tháng 2 chùa Ba vàng trở nên tĩnh lặng. Bỗng xuất hiện một xe ô tô cấp cứu, trên xe là một chú bé có hình dạng mặt thật là ghê sợ, mặt chú lồi về phía trước như một quả bòng, 2 mắt cũng lồi lấm lét ở cuối đuôi mắt, gần 2 thái dương
21/10/2012(Xem: 5584)
Dường như người Nhật Bản rất thấm nhuần và áp dụng giáo lý đạo Phật trong cuộc sống hằng ngày, cho nên họ quí trọng xem con người đều bình đẳng vì cùng có Phật tánh như nhau, chứ không dựa vào dáng vẻ giàu nghèo bên ngoài, thường xuyên làm chuyện phải có lợi ích cho người khác, cũng như không dám trộm cắp, hại người, để được nghiệp quả tốt. Chuyện thứ nhất: Trung thực
18/10/2012(Xem: 8252)
Trong cuộc sống, hằng ngày mỗi buổi sáng khi thức dậy, chúng ta suy nghĩ làm sao có tiền, có tình, có địa vị, có thức ăn ngon, có ngủ nghỉ thỏa thích. Để được hưởng thụ những thứ đó, chúng ta phải tính toán, làm việc vất vả, thậm chí nhúng tay vào tội lỗi. Rồi một ngày nào đó theo định luật sinh, trụ, dị, diệt, chúng ta nhắm mắt tắt hơi, bỏ lại những thứ mình ham muốn, suốt đời khổ cực tìm cầu. Đến cõi đời này với hai bàn tay trắng, ra đi cũng hai bàn tay trắng, chỉ còn nghiệp theo mình, đưa mình đến một trong sáu đường: địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, A–tu–la, người và trời.
17/10/2012(Xem: 6423)
Có 3 loại nghiệp ảnh hưởng đến tương lai của chúng ta không chỉ ở đời này mà còn ở nhiều đời sau là: Thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp. Trong 3 loại nghiệp đó có lẽ khẩu nghiệp là dễ bị nhất vì hầu như không ai có thể tránh được giao tiếp với người xung quanh, từ gia đình cho đến xã hội. Trong các giới thì giới nữ lại càng dễ bị khẩu nghiệp nhất. Với bài viết này, chúng tôi mong quý Phật tử nữ (Ưu Bà Di) nên thận trọng hơn khi dùng lời nói của mình.
17/10/2012(Xem: 8660)
ôi rất mongquý vị sẽ nắm bắt được thế nào là "cốt lõi của giáo huấn Phật Giáo".Trong buổi nói chuyện hôm nay, nếu tôi nêu lên câu hỏi: "Vậy cốt lõi củagiáo huấn Phật Giáo là gì?" thì nhất định tôi cũng sẽ nhận được vô số cáccâu trả lời trái ngược nhau, không câu nào giống với câu nào cả. Mỗi người trảlời tùy theo những gì mà họ được học hay được nghe, hoặc là do sự suy luậnriêng của mình. Chúng ta cứ thử nhìn vào những gì đang xảy ra trong thế giớingày nay xem sao. Trong thế giới của chúng ta còn có được mấy ai đủ sức để nhậnbiết đâu là cốt lõi của giáo huấn Phật Giáo? Và trong số đó có mấy ai đã mangra ứng dụng hiệu quả được cái cốt lõi đó?
17/10/2012(Xem: 7921)
Tôi hành thiền Vipassanà không theo cách rập khuôn một bài bản cố định, có điều kiện của các thiền sư, thiền viện hay thiền phái nổi tiếng nào, dù biết rằng những phương pháp vận dụng quy mô ấy đều đem lại lợi lạc nhất định cho rất nhiều hành giả và bản thân tôi cũng đã học hỏi từ đó rất nhiều.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]