Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Mặt Tích Cực Của Sự Sợ Hãi Trong Vấn Đề Tu Tập Hành Đạo

26/07/201821:41(Xem: 7735)
Mặt Tích Cực Của Sự Sợ Hãi Trong Vấn Đề Tu Tập Hành Đạo
MẶT TÍCH CỰC CỦA SỰ SỢ HÃI TRONG VẤN ĐỀ TU TẬP HÀNH ĐẠO
Quang Minh
con co ta 1 (1)
Hành giả tu đạo nên khởi tâm sợ hãi. Vì sợ hãi chính là nguồn gốc của mọi nếp tốt, là đạo hạnh của người thiện lương, là nẻo về của ý thiện lành, là nhân của không tạo tác nghiệp bất thiện.
Sự sợ hãi là tập tính của con người khi mà những gì bất lợi xảy ra thì kéo theo sự sợ hãi bị ảnh hưởng liên lụy tác động đến mình. Nhưng sợ hãi có mặt tích cực của nó trong vấn đề tu tập hành trì đạo pháp mà không phải ai cũng biết, sợ hãi là nếp tốt là đạo hạnh của sự lương thiện trong tâm hồn cao thượng. Vậy sự sợ hãi trong tu tập hành đạo như thế nào? 
Sự sợ hãi về quy luật nhân quả, báo ứng trả vay. Trong đó nghiệp là chủ tạo tác bao nhiêu việc bất thiện, khi đó nghiệp sẽ tác động làm chủ thể tạo tác bị quả báo tương ứng với nhân đã làm. Vì biết quả báo sẽ tới nếu làm việc bất thiện nên hành giả tu tập sợ hãi nhân quả, không làm việc bất thiện mà kéo theo khổ lụy phiền não bởi luân hồi nhân quả trả vay. Vì sợ nhân quả nên phát tâm tu hành làm việc thiện lánh việc dữ, vì sợ nhân quả nên hành vi ứng xử, ngôn từ lời nói, ý niệm khởi lên đều chơn chánh, thiện lành sẽ đưa tới quả an vui hạnh phúc. Vì sợ nhân quả mà con người sống tốt với nhau, vì sợ nhân quả mà làm việc gì cũng phải suy nghĩ cẩn thận tránh điều bất thiện mà nghiệp báo nhân quả sẽ là việc chịu tội báo phiền não đau khổ mà chính mình tự chịu do việc làm xấu của mình đưa lại. 
Sự sợ hãi luân hồi sinh tử. Mỗi lần luân hồi là mỗi lần chết đi và sống lại trong một hình hài hoàn toàn mới mà trí nhớ và ký ức hoài niệm quá khứ tiền kiếp không còn nhớ, những gì có đều quên sạch ( trừ một số rất ít còn nhớ quá khứ tiền kiếp của mình). Khi đó mình lại bắt đầu chuỗi sinh hóa của kiếp người hay vật đầu thai mà sống trong đời với cái thức mang tập khí quá khứ, nhưng khi quên lại làm lại từ đầu, khi quên thì bao công sức tu học lại làm lại, khi quên thì cuộc sống mơ hồ không rõ ràng, và sợ nhất khi quên thì dễ rơi vào đường dữ do bị lôi kéo dẫn dụ của thực tại khác trước, của bạn xấu, môi trường mới không tốt đem lại. Sự sợ hãi luân hồi kéo theo sự sợ hãi về cái chết, khi mà trong cuộc đời vô thường thì cái chết là chướng ngại cho sự tu tập và hành đạo. Cái chết có hai dạng là thuận tự nhiên chết về già và chết bất đắc do bệnh, tai nạn...làm cho người tu hành phải bỏ dở giữa chừng, bỏ việc hành trì và hoằng hóa độ sinh. Sự sợ hãi luân hồi, cái chết giúp hành giả tu tập ý thức được sự sống quý giá thế nào, thân thể là phương tiện tu tập hành đạo. Như đức Phật từng ví thân người khó được như nắm lá trên tay, còn mất thân người như lá cây cả khu rừng. Để mới biết được thân người rất khó, không chấp thân nhưng hãy trọng thân, coi đó là phương tiện mà tu tập đạo pháp, bởi biết đâu khi chết thì thân này hoại và thân người thay bằng thân vật khác thì hối tiếc không kịp tháng ngày không tu tập mà chỉ tạo tác những nghiệp bất thiện mà giờ phải chịu đọa đày. Ở đây còn có sự sợ hãi cái chết thông qua sự nghĩ quẩn về vấn nạn tự tử, khi điều bất như ý trong cuộc sống xảy ra, mà nghĩ quẩn tìm tới cái chết mà nhờ sự sợ hãi về cái chết, sự sợ hãi nhân quả, sự sợ hãi vì mất người thân, không còn thấy người thân, sự sợ hãi khi biết nếu nghĩ quẫn làm bậy đó sẽ làm đau thương mẹ cha, bạn bè, hàng xóm thì giảm nguy cơ tự tử không đáng có. Sự sợ hãi sẽ kéo lại sự chán sống của biết bao người đau khổ. Hay như sự sợ bị tai nạn, chết chóc sẽ làm cho những người tham gia giao thông biết sợ mà không phóng nhanh vượt ẩu gây tai nạn giao thông. Hay như sự bệnh thì ắt sẽ có động lực mà tập thể dục thể thao, ăn uống tiết độ, sinh hoạt đúng giờ...Hay có khi người tu sợ đọc kinh không thuộc bị thầy quở trách mà lo học tu chăm chỉ...
Sự sợ hãi tham, sân, si vì đó là tam độc trong tâm là cuội nguồn của việc tạo nghiệp bất thiện, chiêu cảm quả báo luân hồi sinh tử. Sự sợ hãi tham, sân, si giúp hành giả chuyển hóa tham, sân, si thành giới , định, tuệ là ba pháp ấn của sự giải thoát nội tâm yên vui. Sự sợ hãi của luyến ái, chấp thủ, chấp trước trong sự tham đắm tài, danh, sắc, thực, thùy giúp người tu tập hành đạo nhận thức được đó là nguồn gốc của nghiệp báo mà không làm điều gì phi pháp. 
Sự sợ hãi là bức tường ngăn cách việc làm thiện với bất thiện. Sợ làm điều xấu, sợ làm điều sai trái mà chịu nhân quả, sợ sự vô thường trong kiếp sống nhân sinh sự vô thường của mối quan hệ có khi có rồi không mà trân trọng phút giây hiện tại bên nhau...Và làm gì cũng phải nghĩ đến hậu quả thì đó là sự sợ hãi nhân quả nghiệp báo thông qua sự tạo tác nghiệp mà ra. Và người hành đạo hãy lấy sự sợ hãi làm pháp ấn tạo phương tiện tu tập và hành trì đạo pháp.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/02/2021(Xem: 9126)
Kinh Hoa Nghiêm được giải thích là kinh đầu tiên khi Phật đạt chánh đẵng chánh giác sau 49 ngày thiền định. Sau đó người giảng kinh Hoa Nghiêm cho chư thiên và bồ tát là giảng bằng thiền định tâm truyền tâm nên im lặng suốt 21 ngày. Kinh Hoa Nghiêm nói về Tâm. Kế đến Kinh Lăng Già Phật cũng giảng cho Ma vương và ma quỷ sống trong hang động ở đỉnh núi Lăng Già. Phật giảng bằng tâm truyền tâm ấn nên không có nói bằng lời và giảng về Thức vì Ma vương không còn uẩn sắc nữa mà chỉ còn là tâm thức. Kinh Lăng già là giảng về Duy Thức Luận. (bài viết của cư sĩ Phổ Tấn)
20/02/2021(Xem: 5506)
Washington: Theo báo cáo của The Economist, Trong nỗ lực mới nhất nhằm thắt chặt vòng vây Tây Tạng, Trung Cộng đang buộc người Tây Tạng ít quan tâm đến tôn giáo của họ hơn, và thể hiện nhiệt tình hơn đối với chế độ độc tài của Đảng Cộng sản Trung Quốc do Tập Cận Bình lãnh đạo tối cao. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tăng cường nỗ lực phủ nhận vai trò của Đức Đạt Lai Lạt Ma ra khỏi đời sống tôn giáo của người dân Tây Tạng để xóa bỏ danh tính của họ. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã cưỡng chiếm Tây Tạng vào giữa thế kỷ 20 sau thập niên 1950, và kể từ đó đã kiểm soát khu vực cao nguyên tại Trung Quốc, Ấn Độ, Bhutan, Nepal, và Pakistan tại châu Á, ở phía bắc-đông của dãy Himalaya..
17/02/2021(Xem: 5402)
Nội dung tác phẩm dựa trên một bức tranh nổi tiếng có tên là “Thanh minh thượng hà đồ” (nghĩa là “tranh vẽ cảnh bên sông vào tiết Thanh minh”) của nghệ sĩ Trương Trạch Đoan vào thời nhà Tống cách đây hơn 1000 năm. Thiên tài Albert Einstein đã từng nói: “Nghệ thuật thật sự được định hình bởi sự thôi thúc không thể cưỡng lại của người nghệ sĩ sáng tạo”. Và một nghệ sĩ điêu khắc người Trung Quốc – Trịnh Xuân Huy đã chứng minh điều đó qua kiệt tác nghệ thuật của ông trên một thân cây dài hơn 12 mét. Chắc chắn bạn sẽ phải ngạc nhiên về một người có thể sở hữu tài năng tinh xảo đến như vậy!
17/02/2021(Xem: 5887)
Một quán chiếu về những ánh lung linh trên bề mặt một hồ nước gợn sóng lăn tăn bởi làn gió nhẹ. Một con sông khổng lồ của si mê tin tưởng sai lầm tâm-thân là tồn tại cố hữu tuôn chảy vào hồ nước của việc hiểu sai cái "tôi" như tồn tại cố hữu. Hồ nước bị xáo động bởi những làn gió của tư tưởng phiền não chướng ngại ẩn tàng và của những hành vi thiện và bất thiện. Sự quán chiếu ánh trăng lung linh biểu tượng cho cả trình độ thô của vô thường, qua sự chết, và trình độ vi tế của vô thường, qua sự tàn hoại từng thời khắc thống trị chúng sanh. Ánh lung linh của những làn sóng minh họa tính vô thường mà chúng sanh là đối tượng, và quý vị thấy chúng sinh trong cách này. Bằng sự ẩn dụ này, quý vị có thể phát triển tuệ giác vào trong vấn đề chúng sinh bị kéo vào trong khổ đau một cách không cần thiết như thế nào bằng việc điều hướng với tính bản nhiên của chính họ; tuệ giác này, lần lượt, kích hoạt từ ái và bi mẫn.
16/02/2021(Xem: 4717)
Nói về pháp khí, nhạc khí của Phật giáo là nói đến chuông, trống và mõ. Trong ba pháp cụ đó. Tiếng chuông chùa đã gợi nguồn cảm hứng không ít cho những văn, thi sĩ. Hiện nay rất ít tài liệu nói về nguồn gốc của chuông, trống và mõ. Sự kiện trên khiến các học giả nghiên cứu về chuông, trống, mõ gặp trở ngại không nhỏ. Tuy thế dựa vào bài Lịch sử và ý nghĩa của chuông trống Bát nhã do thầy Thích Giác Duyên viết đã đăng trong Thư Viện Hoa Sen, khiến chúng ta biết được người Trung Hoa đã dùng chuông vào đời nhà Chu ( thế kỷ 11 Trước CN – 256 Trước CN ). Riêng việc chuông được đưa vào các chùa chiền ở Việt Nam từ thời nào người viết không biết có tài liệu nào đề cập đến không?
14/02/2021(Xem: 5318)
Pháp Hoa kinh là vua của các kinh vì ở vào thời kỳ thứ 5 trong lịch sử đạo Phật. Lúc bấy giờ là cuối đời thọ mạng của đức Phật nên kinh giảng của người mang toàn bộ tính chất của đạo Phật do người thuyết pháp. Có hai cốt lỏi của kinh Pháp Hoa là Phật tánh và Tri kiến Phật. Phật tánh đã được tóm lược trong bài Nhận biết Phật tánh cùng tác giả. Tri là biết, kiến là thấy, biết thấy Phật là gì? Biết là tuệ giác người dạy cho chúng ta và thấy là thấy đại từ bi của Phật. Đó là trí tuệ và từ bi là đôi cánh chim đại bàng cất cao bay lên trong tu tập. Chúng ta nghiên cứu trí tuệ của toàn bộ đạo Phật một cách tổng luận để tư duy, về phần từ bi chúng ta đã hiểu qua bài Tôi Học kinh Pháp Hoa đồng tác giả. Trí tuệ đạo Phật có gồm hai phần triết lý đạo Phật và ứng dụng. Tri kiến Phật là nắm hết các điểm chính của đạo Phật theo lịch sử của thời gian. Chúng ta hãy đi sâu về tuệ giác.
14/02/2021(Xem: 4902)
Ta hãy tự thoát ra khỏi thân mình hiện tại mà trở về lúc ta mới được sanh ra. Trong phút giây đặc biệt đó ta là gì? Ta vừa được chào đời, được vỗ mông để bật tiếng khóc là phổi ta hoạt động, mọi chất nhớt trong miệng được lấy ra và không khí vào buồng phổi: ta chào đời. Thân ta lúc đó là do 5 uẩn kết tạo từ hư không, 5 uẩn do duyên mà hội tụ. Cơ cấu của thân thể ta là 7 đại đất nước gió lửa không kiến thức. Cơ thể ta mở ra 6 cổng (căn) để nhập vào từ ngoài là 6 trần để rồi tạo ra 6 thức.
14/02/2021(Xem: 5548)
Nhân đọc bài về tuổi già của Đỗ Hồng Ngọc Bác sĩ y khoa, tôi mỉm cười. Mình cũng thuộc tuổi già rồi đấy!! Các bạn mình cũng dùng chữ ACCC= ăn chơi chờ chết vì vượt qua ngưỡng tuổi 70 rồi. Vậy theo BS Ngọc là làm như vậy cũng thực tế đó nhưng có thật là hạnh phúc tuổi già không? Bạn có đủ hết, con cái thì hết lo cho chúng được nữa rồi, chúng tự lo lấy chúng. Tiền bạc thì hết lo được nữa rồi có bấy nhiêu thì hưởng bấy nhiêu.
14/02/2021(Xem: 5045)
Phật giảng thuyết có ba phương cách: a. Giảng trực tiếp như các kinh đạo Phật Nguyên thủy, b. Giảng bằng phủ định, từ chối là không và phủ định hai lần là xác định tuyệt đối. c. Giảng bằng biểu tượng, đưa câu chuyện cánh hoa sen hay viên ngọc trong túi người ăn mày để biểu tượng hoá ý nghĩa sâu xa của kinh. Phương cách thứ ba này là kinh Pháp Hoa. Có nhiều biểu tượng nhưng nổi bật nhất là cánh hoa sen là biểu tượng kinh Pháp Hoa.
10/02/2021(Xem: 9817)
Long Khánh là một thị xã ven Đô, Phật giáo tuy không sung túc như các Tỉnh miền Trung Nam bộ, nhưng sớm có những ngôi chùa khang trang trước 1975, do một số chư Tăng miền Trung khai sơn lập địa. Hiện nay Long Khánh có những ngôi chùa nổi tiếng như chùa Hiển Mật hay còn gọi là chùa Ruộng Lớn tọa lạc tại Thị xã Long Khánh, chùa Huyền Trang, tọa lạc tại ấp Bàu Cối, xã Bảo Quang,.…Nhưng điều đáng nói là một ngôi Tam Bảo hình thành trong vòng 5 năm,khá bề thế. Qua tổng thể kiến trúc và xây dựng, không ai ngờ hoàn hảo trong thời gian cực ngắn, đó là Tịnh xá Ngọc Xuân, do sư Giác Đăng,đệ tử HT Giác Hà, hệ phái Khất sĩ, thuộc giáo đoàn 5 của Đức thầy Lý.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]