Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Giới thiệu sách "Bát Cơm Hương Tích " của TT Nguyên Tạng trên Amazon (Bài viết của Cư Sĩ Nguyên Giác do Cư Sĩ Tường Dinh diễn đọc)

28/05/201816:41(Xem: 14986)
Giới thiệu sách "Bát Cơm Hương Tích " của TT Nguyên Tạng trên Amazon (Bài viết của Cư Sĩ Nguyên Giác do Cư Sĩ Tường Dinh diễn đọc)



Bat Com Huong Tich_Thich Nguyen Tang_Amazon_5_2018

 

Đọc "Bát Cơm Hương Tích”

của TT Thích Nguyên Tạng

 

Bài viết: Cư Sĩ Nguyên Giác

Diễn đọc: Cư Sĩ Tường Dinh

 pdf icon-2

Bát Cơm Hương Tích_Thích Nguyên Tạng 2018




Tuyển tập “Bát Cơm Hương Tích” của Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng là một phần lớn của đời tác giả, ghi lại những gì Thầy mắt thấy tai nghe một thời và rồi nhớ lại...

Tuyển tập chứa đựng rất nhiều kỷ niệm của Thầy Thích Nguyên Tạng, một nhà sư một thời lớn lên nơi vùng cát trắng Khánh Hòa, tu học từ chùa này sang chùa kia, rồi hoàn tất các học vị cao hơn để vào Sài Gòn và rồi sang Úc châu khi bào huynh bảo lãnh sang để tiếp tục tu học và hoằng pháp.



Tuyển tập gồm 25 bài viết trong đó, ghi lại nhiều hình ảnh sinh hoạt trong đời tu sĩ từ thơ ấu cho tới khi sang Úc, và có cơ duyên đi hoằng pháp nhiều nơi trên thế giới.

Trong phần Lời Giới Thiệu, HT. Thích Như Điển viết: “Đó chính là việc 'chân thật bất hư'mà Thầy Nguyên Tạng cũng đã thể hiện được điều đó.”

Bài chính trong tuyển tập là Bát Cơm Hương Tích, ghi nhận cảm xúc tác giả về vai trò tu học và hoằng pháp... Tại sao bát cơm Hương Tích?



Đó là hình ảnh từ Kinh Duy Ma Cật, khi ngài Duy Ma Cật vào chánh định, “dùng thần thông thị hiện khiến cho đại chúng nhìn thấy cõi Phật Hương Tích. Mùi hương ở cõi nước đó vượt hơn mùi hương của cõi trời, cõi người và các cõi Phật khác trong mười phương thế giới. Mọi sự, mọi vật trong cõi đó, đều dùng hương thơm tạo thành. Từ đất đai, kinh thành, lầu các, cỏ cây hoa lá... đều ngào ngạt hương thơm. Mùi hương của cơm cõi ấy cũng tỏa ngát khắp mười phương thế giới. Lúc ấy, Đức Phật Hương Tích cùng các vị Bồ Tát đang ngồi thọ trai, có các Thiên tử cùng một danh hiệu gọi là Hương Nghiêm, đều đã phát tâm Vô Thượng Bồ Đề, đến cúng dường Phật và các Bồ Tát...

Cõi Phật Chúng Hương khác với cõi giới Ta Bà. Đức Phật Hương Tích không dùng ngôn ngữ văn tự mà chỉ dùng phương pháp “Hương trần” để giáo hóa chúng sanh, tức là chúng sanh nơi đó khi ngửi được mùi thơm huyền diệu lập tức quay về chơn tâm, nhẹ nhàng, an lạc và giác ngộ.”



Đó chính là hương của chánh pháp, hương của giới định huệ... Vai trò người tu sĩ từ thời thơ ấu nơi sân chùa miền cát trắng Khánh Hòa vào Sài Gòn, và sang Úc châu, lúc nào cũng sống trong chánh pháp, và đó chính là mang theo bát cơm Hương Tích để mời chúng sinh cõi này cùng thọ dụng -- đó là hương giới, hương định, hương huệ.



Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng viết:

“Trong Kinh Pháp Cú đã đề cập đến ý này: Hương các loài hoa thơm, không ngược bay chiều gió. Nhưng hương người đức hạnh, ngược gió khắp tung bay. Và Người Xưa cũng từng phán quyết rằng: “Quế hương bất viễn thư hương viễn, thế vị vô như Đạo vị trường”. Có nghĩa là hương thơm của cây quế không bay xa bằng mùi thơm của kinh sách, vị ngọt của thế gian không bền vững lâu dài bằng vị ngọt của Đạo. Rõ ràng, hương thơm của bất cứ thứ gì hữu hình bên ngoài đều vô thường, chỉ có hương thơm vô hình bên trong mới miên viễn...”



Tác giả cũng kể lại một kỷ niệm trong bài “Ngồi Thuyền Bát Nhã”...



Thuyền Bát Nhã chính là con thuyền trí tuệ có thể chuyên chở chúng sanh vượt qua biển khổ sanh tử để đến bến bờ Niết bàn giải thoát an vui...



Duyên khởi là, Bộ Đại Bát Nhã 600 quyển, bộ Kinh đã truyền đến VN vào năm 1958 và được Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm (1911-2003) phát tâm dịch sang tiếng Việt. Ôn Trí Nghiêm đã phiên dịch bộ kinh này ròng rã suốt 8 năm, từ 1972 đến 1980 mới hoàn tất. Và theo lời Ôn Đỗng Minh, HT Trí Nghiêm đã dịch theo bản Biệt Hành, gồm 24 tập, mỗi tập gần 1000 trang với 25 quyển nhỏ, và cũng đóng thành 24 tập như nguyên bản chữ Hán.



Thầy Thích Nguyên Tạng viết rằng Thầy có duyên làm thị giả cho Ôn Trí Nghiêm và Ôn Thiện Siêu trong 3 mùa An Cư Kiết Hạ tại Chùa Hải Đức, Nha Trang từ 1981 đến 1983. Đầu năm 1998 người viết được bào huynh là Thượng Tọa Thích Tâm Phương bảo lãnh sang Úc định cư, khi nghe Ôn đau nặng nên đã về thăm Ôn đang nằm bệnh tại Chùa Tỉnh Hội Long Sơn sau mùa An Cư năm 2002 và đứng bên giường bệnh của Ngài, người viết đã phát nguyện sẽ đưa toàn bộ bản dịch của Ngài vào mạng lưới điện toán toàn cầu qua trang nhà quangduc.com, để cúng dường mười phương Phật tử gần xa và cũng để hồi hướng công đức cho Ôn. Sau khi về lại Úc, chúng tôi đã viết một thông báo ngắn cần gấp 24 người phát tâm đánh máy 24 tập Kinh Bát Nhã (bản in năm 1998) ngay lập tức có 24 Phật tử khắp nơi trên thế giới từ Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam, Hoa Kỳ, Âu Châu và Úc Châu phát tâm nhận mỗi người một tập để đánh máy, và đây là bản kinh Đại Bát Nhã tiếng Việt đầu tiên đã online trước lễ Tiểu Tường của Ôn Trí Nghiêm vào ngày 13-01-2004.



Cũng trong bài về chiếc thuyền Bát Nhã, Thầy Thích Nguyên Tạng giải thích vì sao:

“Chư Tổ Đức dạy chúng ta thọ trì Bát Nhã Tâm Kinh mỗi ngày sáu thời là để giúp cho ta huân tập chủng tử Bát Nhã, sống trong thế giới Bát Nhã, mà sống trong thế giới Bát Nhã là sống trong chánh niệm tỉnh giác với tâm rỗng rang, thanh tịnh, rõ ràng thường tri, trực nhận mỗi phút giây của đời sống này là quý báu và mầu nhiệm. Nhờ ánh sáng của Bát Nhã Ba La Mật mà đời sống của chúng ta khinh an trong từng sát na mới mẻ hiện tiền, mỗi bước đi, mỗi hơi thở, ta không rời xa chân như thật tướng, ta sống với một tinh thần vô ngã vị tha, mang tình thương đến cho người, làm vơi bớt khổ đau của người. Nhờ ánh quang minh của Bát Nhã Ba La Mật mà hành giả luôn an trụ trong “đương thể tức không”, là khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần sanh ra sáu thức, ngay nơi đó ta nhận biết được vạn pháp là không tướng, vô tướng, không phải ngoại cảnh biến mất rồi mới là Không mà ngay khi thấy sự vật còn hiện tiền đó vốn đã Không rồi, nên hành giả luôn tỉnh giác chánh niệm, mà chánh niệm là vô niệm, mà vô niệm chính là cứu cánh Niết Bàn, đây là chỗ đến cuối cùng của người đệ tử Phật.”



Không chỉ viết về kinh điển, Thầy Thích Nguyên Tạng còn kể một số chuyện trong nhà chùa.

Thí dụ, trong bài “Cúng Cháo,” khi giải thích về nguồn cơn vì sao các chùa cúng cháo cho cô hồn, tác giả kể lại:



“...Tôi nhớ lại Sư Phụ của tôi (cố TT Chơn Kiến) có kể, lúc Hòa Thượng Thanh Bình mới về Trụ Trì một chùa làng ở trên Thanh Minh, Trường Lạc ở Diên Khánh (ngoại thành Nha Trang); vì HT bận rộn việc chùa nên quên cúng cháo, tối hôm đó, cô hồn hiện ra đập cửa phòng Ngài xin cháo để ăn, HT liền thức dậy nấu cháo để cúng ngay trong đêm khuya. Ngoài ra có nhiều chuyện kể khác, có vị Trụ Trì quên cúng cháo nên đêm về bị cô hồn khiêng đặt xuống đất, hoặc nghe dưới nhà bếp có tiếng khua chén bát, do cô hồn lục lạo đòi ăn...”

Tương tự, Thầy Thích Nguyên Tạng cũng có các bài như Cúng Đại Bàng, kể lại duyên do vì đâu, trích:



“Theo lời thuật lại trong khế kinh, ngày kia Đức Phật đi du hóa gặp một con chim Đại Bàng bắt các loài chim nhỏ ăn thịt. Chim Đại Bàng này có chiều kích rất lớn, mỗi lần há miệng, một hơi hút của nó chiếm một phạm vi nhiều cây số, tất cả các loài chim nhỏ đều bị cuốn hút vào miệng nó. Thấy việc sát sanh quá nhiều nên Đức Phật đã từ bi giáo hóa. Ngài dạy rằng: “Tất cả chúng sanh đều ham sống sợ chết, do đó chớ giết và chớ bảo giết”. Chim Đại Bàng tự nghĩ: “Thực phẩm hằng ngày của mình là thịt sống của các loài chim, nay Phật không cho ăn, lấy gì để nuôi thân mạng này”. Phật dạy: “Từ đây về sau ngươi về Chùa nào gần nhất để quý Tăng Ni cho ăn”...”



Hay về ý nghĩa khi thọ trai, qua bài “Cúng Quá Đường,” Thầy Thích Nguyên Tạng viết: “Quá Đường, còn gọi là Thượng Đường hay Phó Đường, nơi Tăng chúng đến thọ thực mà tâm không tham trước ...”



Hay là thói quen “lưu phạn”... tác giả giải thích:



“Lưu phạn là san sẻ phần cơm của mình cho chúng quỷ thần và cho người ăn sau mình; ý nghĩa bố thí, mở rộng tình thương của mình dành cho người bất hạnh, không đủ cơm ăn áo mặc, ý tưởng này giúp cho hành giả nuôi dưỡng từ tâm ngay trong lúc mình ăn.”



Với giọng văn vừa uyên bác, vừa chơn chất, Thầy Thích Nguyên Tạng đã kể về nhiều vị Thầy, ghi nhận cảm xúc riêng đối với từng vị thầy.



Như khi viết về ân sư là cố Thượng Tọa Thích Chơn Kiến, tác giả ghi ơn cố ân sư đã làm môt cầu nối cho bản thân Thầy Thích Nguyên Tạng và truyền thống Phật Giáo Tây Tạng ngoài nước:



“Thầy là một hành giả Mật Tông Kim Cang Thừa, Thầy từng gặp Thượng Tọa Viên Đức tại Thủ Thiêm, Sài Gòn thọ học cốt tủy của Mật Giáo và sau đó Thầy hành trì theo bộ sách Hiển Mật Viên Thông. Trong tịnh thất của Thầy có thờ hình Phật Mẫu Chuẩn Đề Vương, Thầy đã áp dụng thực hành Tam mật tương ưng, phương pháp trọng yếu của Mật Tông mong đạt đến diệu dụng của pháp tu này. Con có phước duyên làm thị giả Thầy trong các kỳ Thầy nhập thất tịnh tu, nên dần dần được ảnh hưởng và chú ý đến pháp tu Mật Tông này. Đó chính là nhân duyên thù thắng mà Thầy đã trực tiếp gieo mầm hạt giống cho con làm quen với pháp tu này, đặc biệt là Thầy đã khai thị cho con về hành trạng tái sinh của các vị Lạt Ma Tây Tạng như Ngài Padmasambhava, Ngài Govinda, Ngài Milarepa.... Thầy đã bắt một chiếc cầu nối giữa con với Phật giáo thế giới bên ngoài, làm khơi dậy một thiện duyên cho con sau này tìm hiểu nghiên cứu dịch thuật các tài liệu...”



Độc giả cũng sẽ tìm gặp các bài viết về cố Hòa Thượng Thích Minh Tâm, ngươì hoằng pháp bên Châu Âu và được Thầy Nguyên Tạng gọi là “Người trồng Sen trên tuyết”...



Trong khi đó, giọng văn Thầy Thích Nguyên Tạng chùng xuống, bùi ngùi khi viết về Thầy Thích Hạnh Tuấn đã ra đi trong khi ước mơ xây dựng Phật Việt còn dở dang:



“Hành trình Phật Việt của Thầy Hạnh Tuấn cũng thể hiện rõ nét ở Tổ Đường Chùa Trúc Lâm qua phong cách thờ phượng của Thầy. Thầy không thờ Tổ Sư Bồ Đề Đạt Ma (470-543) theo truyền thống mà lại tôn thờ Sơ Tổ Trúc Lâm (1258-1308, đạo hiệu của Vua Trần Nhân Tông sau khi xuất gia), người khai sáng Thiền phái Trúc Lâm trên núi Yên Tử, mở ra một trào lưu tu học Phật tại VN vào triều đại nhà Trần.



Một nét riêng Phật Việt khác của Thầy Hạnh Tuấn là tôn thờ và phổ biến tôn tượng Quan Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn. Pho tượng này đang tôn trí tại Chánh Điện Chùa Trúc Lâm từ 2007 là phục chế theo mẫu của pho tượng Quan Thế Âm Nghìn Tay Nghìn Mắt, một di sản, một bảo vật đang được bảo tồn tại Chùa Bút Tháp, tỉnh Bắc Ninh, Việt Nam. Đây là một kiệt tác nghệ thuật điêu khắc của nền PGVN...”



Tuyển tập cũng kể về một số kỷ niệm với Hòa Thượng Thích Như Huệ, được tác giả gọi là “Người giữ vững mái chèo” với ghi nhận:



“Một điều thú vị khác mà người viết lưu tâm về Đức Trưởng Lão HT Như Huệ, Ngài là người có trí nhớ như máy thu âm mp3, bằng chứng là người viết đã từng “thi đua” với Ngài trùng tuyên lại “Quy Sơn Cảnh Sách” (khoảng 12 trang A4 cả nguyên văn chữ Hán và nghĩa Việt) của Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu, đây là một áng văn bất hủ trong văn khố Phật Giáo. HT Như Huệ nhớ vanh vách từng câu từng chữ trong bộ sách gối đầu giường này...”



Tương tự, độc giả sẽ thấy trong sách những hình ảnh và cảm xúc của tác giả Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Huyền Tôn...



Hay là kỷ niệm với Hòa Thượng Thích Như Điển trên các chặng đường hoằng pháp, trong đó gặp một số Phật tử tinh tấn, như cụ bà Diệu Bích, hơn 90 tuổi, ở thành phố Montreal, miền Nam Canada -- “bà cụ từng là chủ hãng viết BIC xưa kia, nhưng điểm làm cho tôi chú ý là bà cụ đang niệm Phật công cứ, không bỏ sót một ngày nào trong mấy mươi năm qua.”



Và nhiều bài khác, với nhiều chủ đề dễ dàng lôi cuốn người đọc.



Trong sách này, độc giả sẽ được Thầy Thích Nguyên Tạng dẫn đi xem một vòng các sinh hoạt thiền môn, trong khi kể nhiều chuyện rất ít khi nghe ở ngoài cổng chùa -- thí dụ, sự tích Bồ Tát Quan Thế Âm hiện thân làm một thiếu nữ xinh đẹp, và rao rằng hễ chàng nào thuộc kinh điển sẽ được cô chọn làm chồng. Câu chuyện ly kỳ, gay cấn, dẫn tới một nút thắt cuối truyện đã hiển lộ lên pháp ấn vô thường và bất như ý của cõi này.



Hay là chuyện từ một sát thủ trở thành nhà sư theo Phật, và rồi trở thành A Lá Hán... đó là truyện về ngài “Angulimala, Một Câu Chuyện Về Sức Mạnh Của Lòng Từ...”



Được biết, Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng sinh năm 1967 tại Nha Trang. Xuất gia năm 1980, thọ giới Sa Di năm 1985 và thọ giới Tỳ Kheo năm 1988. Tốt nghiệp Trường Cơ bản Phật học Vĩnh Nghiêm năm 1992, trường Đại học Sư phạm (ngoại ngữ Anh) năm 1995 và trường Cao cấp Phật học Vạn Hạnh năm 1997. Đến Úc định cư năm 1998 và sáng lập trang nhà Quảng Đức www.quangduc.com. Tốt nghiệp Cử nhân Xã hội học tại Đại học La Trobe năm 2006. Hiện TT là Trụ Trì Tu Viện Quảng Đức,Melbourne, Úc Châu và là Phó Tổng Thư Ký của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Úc Đại Lợi-Tân Tây Lan. Thượng Tọa là tác giả và dịch giả của nhiều tập sách như: Chết và Tái Sanh, Phật Giáo Khắp Thế Giới, Sức Mạnh của Lòng Từ, Hỏi Hay Đáp Đúng, Phật ngọc hòa bình, Lịch sử Phật Giáo Úc Đại Lợi...



Nói ngắn gọn, tuyển tập “Bát Cơm Hương Tích” mang sức mạnh ở các thể văn: văn học, đạo học, sự tích một số sinh hoạt trong chùa, kỷ niệm về một số vị Thầy, và trong tận cùng... là sức kể chuyện từ một ngòi bút chân tu thực học như Thầy Thích Nguyên Tạng, và từ các trang sách là mùi hương của Giới Định Huệ...



 

Quý độc giả có thể mua tập sách “ Bát Cơm Hương Tích” này trên trang Amazon, họ sẽ gởi đến tận nhà cho quý vị: https://www.amazon.com/dp/1720339341/ref=sr_1_1?s=books&ie=UTF8&qid=1527489669&sr=1-1

 

bat com huong tich


Kính thưa Thầy,

Lâm Ngữ Đường đã khen nhà văn, nhà thơ Trương Triều đời nhà Thanh (có nơi viết là Trào) là một nhà văn đã dung hợp đẹp nhất, tài tình nhất trong số các nhà văn của Trung Hoa về việc hòa nhập tinh thần của nhà văn với tinh thần của thiên nhiên, nhất là trong tác phẩm U Mộng Ảnh (Ước Mơ) gồm hơn 200 câu cách ngôn nói về nghệ thuật thưởng thức đời sống.


Trương Triều đã viết "Kinh truyện nghi độc tọa độc, sử giám nghi dữ hữu cộng độc," nghĩa là kinh truyện thì nên đọc một mình mà sử giám thì nên đọc cùng bạn; hơn nữa tác phẩm Bát Cơm Hương Tích của Thầy vừa là tự truyện, vừa là hồi ký mà tác giả đã đem tâm tình trang trải chân phương trên những trang giấy trắng về màu và trong veo về tính với văn phong duyên dáng mà chơn chất của một vị Tăng sĩ tròn đầy giới hạnh.

 

 

Amazon.com/Thích Nguyên Tạng/Bát Cơm Hương Tích

blank

Quý độc giả có thể mua tập sách “ Bát Cơm Hương Tích” này trên trang Amazon, họ sẽ gởi đến tận nhà cho quý vị: https://www.amazon.com/dp/1720339341/ref=sr_1_1?s=books&ie=UTF8&qid=1527489669&sr=1-1

Bat Com Huong Tich (Vietnamese Edition)May 24, 2018
by Nguyen Tang Thich
Paperback
$15.00 $ 15 00 Prime

 


Đọc Bát Cơm Hương Tích của Thầy thì tư tưởng của Trương Triều lại bàng bạc đó đây trong tác phẩm như hai con người thiện lành thì hợp với nhau.



Vô thiện vô ác thị thánh nhân,
Thiện đa ác thiểu thị hiền giả,
Thiện thiểu ác đa thị dung nhân, [thiện ít ác nhiều là người tầm thường]
Hữu ác vô thiện thị tiểu nhân,
Hữu thiện vô ác thị Tiên, Phật.


Nhưng có hai câu sau của Trương Triều thật xứng hợp với Thầy.


Một là, "Vị nguyệt ưu vân, vị thư ưu đố, vị hoa ưu phong vũ, vị tài tử giai nhân ưu mệnh bạc, chân thị Bồ Tát tâm trường."

(Vì trăng mà lo mây, vì sách mà lo mối mọt, vì hoa mà lo mưa gió, vì tài tử giai nhân mà lo mệnh bạc, đó thật là tấm lòng Bồ Tát vậy).

Và hai là, "Phương ngoại bất tất giới tửu, đãn tu giới tục; hồng quần bất tất thông văn, đãn tu đắc thú."


(Người tu hành trong xã hội công nghiệp thì linh động phương tiện mà hành hoạt nhưng vẫn giữ tròn giới đức; người con gái đẹp không nhất thiết phải hiểu biết văn chương nhưng cần phải cư xử dịu dàng, khôn khéo mà khiêm tốn).


Nói chung thân hữu của con mà chưa đọc tác phẩm Bát Cơm Hương Tích của Thầy là một thiệt thòi cho chính họ.


Kính Thầy,
Nguyên Toàn
Trần Việt Long



 

 bat com huong tich

Bìa sách “Bát Cơm Hương Tích”…

 

Bat Com Huong Tich_Thich Nguyen Tang_1Bat Com Huong Tich_Thich Nguyen Tang_2

Bat Com Huong Tich_Thich Nguyen Tang_4

 



batcomhuongtich2
   BÁT CƠM HƯƠNG TÍCH

Được biết  tập sách của TT Nguyên Tạng "Bát Cơm Hương Tích" sẽ cho ra mắt chung

trong buổi sinh hoạt  " Có Mặt Cho Nhau " được tổ chức tại Việt Báo

vào lúc 4:30-8:30 chiều ngày 2-6-2018.

Vui với niềm vui đó , con viết bài thơ này kính dâng Thầy

và Đại Chúng với tất cả lòng hoan hỉ .


Bát cơm Hương Tích Phật ban
Phước duyên vui hưởng lòng an lạ thường
Cơm thơm tích tụ mùi hương
Ăn vào cảm thấy tình thương trải dài .

Tu hành công đức là đây
Thoát ly sanh tử nào vây bụi trần
Tay nâng chén bát cơm nầy
Nguyện đời dâng hiến tràn đầy trong tôi .

Rồi xin uống chén Tào Khê
Cho lòng giải thoát cơn mê cuộc đời
Phật Tâm toả khắp hoa trời
Vui niềm Pháp Lạc muôn đời chẳng quên .

            Dallas , 29-5-2018
                   Tánh Thiện

***
Quý độc giả có thể mua tập sách “ Bát Cơm Hương Tích”

 này  trên trang Amazon, họ sẽ gởi đến tận nhà cho quý vị:

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/01/2021(Xem: 7379)
“Tha Nhân Là Địa Ngục” (L’enfre, cest les autres/Hell is other people) là câu nói thời danh của triết gia Pháp Jean Paul Sartre. Trong vở kịch nhan đề Huis Clos (Cửa Đóng) tiếng Anh dịch là “Không lối thoát” (No Exit) và tiếng Việt có nơi dịch là “Phía Sau Cửa Đóng” trong đó mô tả ba nhân vật lúc còn sống đã làm nhiều điều xấu. Khi chết bị nhốt vào địa ngục nhưng không phải là “địa ngục” với những cuộc tra tấn ghê rợn về thể xác mô tả trong các tôn giáo, mà bị nhốt vĩnh viễn trong một căn phòng kín. Tại đây ba nhân vật bất đồng, cãi vã nhau- không phải vì cơm áo mà vì quan điểm, sở thích, cách suy nghĩ, tư tưởng, lối sống. Cuối cùng một người không sao chịu đựng được đã thốt lên “Tha nhân là địa ngục”. Câu nói này trở nên nổi tiếng và tồn tại cho tới ngày nay.
07/01/2021(Xem: 6574)
Vào năm 2004, Thư Viện Anh Quốc đã mở cửa đón khách vào thưởng một “pháp bảo” của Phật giáo Trung Hoa mang tên “Kinh Kim Cang”, đó là một trong những cổ vật chính được trưng bày tại cuộc triển lãm “Con Đường Tơ Lụa. Bên cạnh cuốn “Kinh Kim Cang” còn có những cổ vật khác được giữ gìn hoàn hảo hơn 1000 năm qua như : một súc lụa, một tấm thảm trải trước lò sưởi tại ngôi nhà bỏ hoang đã 1.100 năm, một cuộn len 1300 năm tuổi … Phần lớn cổ vật trưng bày tại triển lãm được lấy từ bộ sưu tập của Sir Marc Aurel Stein.
07/01/2021(Xem: 6167)
Một khuôn mặt trong một tấm gương xuất hiện là một khuôn mặt, nhưng thế nào đi nữa hình ảnh đấy không là một khuôn mặt thật sự; đấy là từ những quan điểm trống rỗng về sự hiện hữu của một khuôn mặt. Giống như thế, một nhà huyển thuật có thể gợi lên những ảo ảnh dường như là những thứ thật sự. như một người ở trong một cái thùng bị xiên bởi một cây gươm, nhưng tất cả hoàn toàn không được tạo ra thật sự như những thứ được thấy. Tương tự thế, các hiện tượng như thân thể hiện diện được tạo ra từ chính phía của đối tượng nhưng trống rỗng trong việc được thiết lập cách ấy và luôn luôn như thế.
04/01/2021(Xem: 6058)
Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa ra nhận xét chính thức đầu tiên về việc nghỉ hưu, từ các trách nhiệm chính trị trong một buổi giảng dạy công khai tại Tsuglagkhang, Dharamshala, ngày 19 tháng 3 năm 2011. Năm 1963, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã ban hành một Hiến pháp Dân chủ (democratic constitution) hoàn toàn dựa trên Giới luật Phật giáo, và bản Hiến chương Nhân quyền của Liên Hợp Quốc để biên soạn, và chuẩn bị cho một mô hình đất nước Tây Tạng tự do ở tương lai:
04/01/2021(Xem: 7617)
Ngày Xuân ngày Tết, nếu ai tìm những giờ phút thanh thản yên tịnh bằng những bước nhẹ nhàng khoan thai vào vãng cảnh các chùa chiền tự viện, dâng hương bái Phật, nếu để ý sẽ thấy ở một vách tường nào đó treo bộ tranh mang tên gọi là “Thập mục ngưu đồ”. Không phải chốn già lam thiền viện nào cũng có trưng treo, vì đó không phải là điều bắt buộc thuộc thanh quy giới luật, nhiều khi chỉ được treo để trang trí, hay được trưng ra ở một nơi hằng ngày đi qua đi lại như để nhắc nhở, vậy nếu khi ta bắt gặp được tức là ta đang hữu duyên, hãy đừng bỏ dịp đứng trước bộ tranh mang những nét sơ sài ấy để ngắm từng bức mà chiêm nghiệm nghiền ngẫm.
04/01/2021(Xem: 4681)
Phật Vàng (Golden Buddha) có tên chính thức trong tiếng Thái là “Phra Phuttha Maha Suwana Patimakon”, nặng 5,5 tấn. Sau nhiều lần di chuyển, pho tượng hiện đang nằm trong đền thờ Wat Traimit, Bangkok, Thái Lan. Hiện tại, mặc dù các học giả vẫn chưa xác định chắc chắn nguồn gốc của pho tượng là bắt nguồn từ thời gian nào. Nhưng dựa theo cấu trúc của phần đầu bức tượng (hình quả trứng), thì có thể đoán rằng, nó ra đời vào dưới triều Sukhothai vào thế kỷ 13 – 14 – một trong những giai đoạn nổi tiếng nhất của nghệ thuật kiến trúc Phật giáo Thái Lan.
03/01/2021(Xem: 9674)
Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu Thiền sư TRÌ BÁT (Kỷ Sửu 1049) Thiền sư TỊNH THIỀN (Tân Sửu 1121) Hoà thượng THÍCH ĐẠT THANH (Quý Sửu 1853) Hoà thượng THÍCH GIÁC NHIÊN (Đinh Sửu 1877) Thiền sư THÍCH CHƠN PHỔ - THUBTEN OSALL LAMA (Kỷ Sửu 1889) Hoà thượng THÍCH BỬU LAI (Tân Sửu 1901) Hoà thượng THÍCH THIÊN ÂN (Ất Sửu 1925) Hoà thượng THÍCH MINH THÀNH (Đinh Sửu 1937)
03/01/2021(Xem: 5797)
“Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Với một nước nông nghiệp như nước ta, hình ảnh con trâu nặng nề lầm lũi, kềnh càng cục mịch luôn gắn bó với những cánh đồng thửa ruộng, thân thiết với bao người nông dân chân lấm tay bùn, và gần gũi với lũ trẻ mục đồng thường nghêu ngao bài hát quen thuộc “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ!”… Không chỉ như thế, trâu cũng đã từng gắn bó với cuộc đời một vài danh nhân lịch sử như Đinh Bộ Lĩnh, Đào Duy Từ… Đối với nền văn học nước nhà, con trâu còn có cái công rất lớn trong việc làm phong phú ngôn ngữ, nhất là trong ca dao- đồng dao-tục ngữ.
01/01/2021(Xem: 5375)
Từ lâu các kinh sách Phật Giáo Việt Nam bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ âm Hán Việt của Trung Quốc. Từ những được chư tôn thiền đức Tăng Ni chuyển qua quốc ngữ tiếng Việt, để Phật tử dễ đọc, nhất là những vị chưa có kiến thức về âm Hán Việt. thế kỷ 20 (năm 2000 trở đi) các kinh sách dần dần đã Người biên soạn xuất gia tại Chùa Liên Hoa, Bình Thạnh, với Tôn Sư Hải Triều Âm, các kinh sách trong Chùa tụng bằng tiếng Việt do Tôn sư chuyển ngữ. Từ năm 2005 trở đi, người biên soạn định cư và hoằng pháp tại Hoa Kỳ. Nhiều Chùa ở Hoa Kỳ vẫn còn tụng kinh bằng âm Hán Việt và nhiều nơi phải tụng bằng tiếng Anh cho người bản địa và thế hệ con cháu thứ hai sanh tại Mỹ có thể tụng hiểu được. Phật tử Việt tụng kinh bằng tiếng Việt mà vẫn chưa hiểu được ý nghĩa ẩn sâu trong lời kinh và càng bối rối hơn khi tụng kinh bằng bằng âm Hán Việt. Đó là lý do thúc đẩy, chùa Hương Sen biên soạn một cuốn “NGHI LỄ HÀNG NGÀY” bằng tiếng Việt và tổng hợp gần 50 bài kinh:
01/01/2021(Xem: 6091)
Trong kho tàng văn học của Việt Nam và Phật Giáo, Trần Thái Tông (1225 - 1258) đã có những đóng góp vô cùng to lớn và giá trị, những sáng tác của Ngài, bất hủ qua dòng thời gian, tỏa sáng lồng lộng trên bầu trời Dân Tộc và Đạo Pháp. Trần Thái Tông được kể như một vị Thiền sư cư sĩ vĩ đại, nhà thiền học uyên thâm, thành tựu sự nghiệp giác ngộ. Một vị vua anh minh dũng lược, chiến thắng quân Nguyên Mông giữ gìn bờ cõi, đem lại cường thịnh ấm no cho dân cho nước, đã để lại tấm lòng cao quý thương yêu đời đạo, lưu lại di sản trí tuệ siêu thoát cho hậu thế noi theo.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]