Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nữ Đệ Tử Phật và Vấn Đề Hoằng Pháp Nơi Xứ Người

29/04/201817:06(Xem: 5676)
Nữ Đệ Tử Phật và Vấn Đề Hoằng Pháp Nơi Xứ Người


Duc The Ton 2

NỮ ĐỆ TỬ PHẬT

VÀ VẤN ĐỀ HOẰNG PHÁP NƠI XỨ NGƯỜI



Đệ tử của Đức Phật luôn gồm đủ bốn chúng xuất gia và tại gia: Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Nam cư sĩ và Nữ cư sĩ. Mỗi chúng đều có vai trò quan trọng nhất định trong việc lợi mình, lợi người và duy hoằng Phật Pháp tại nhân gian.

Việc hoằng Pháp lợi sanh nơi xứ người xưa nay phần chính là chư Tỳ kheo. Bên cạnh đócó nhiều Tỳ kheo ni và Nữ cư sĩ cũng đã đóng góp rất lớn. Nhiều tấm gương sáng của Nữ đệ tử Phật đã được ghi lại mà nữ giới hậu học ngày nay cần nên soi chiếu.

I. Những gương sáng của Nữ đệ tử Phật

I.1. Xích Tôn công chúa và Văn Thành công chúa (623-680)

Xích Tôn Công chúa (Bhrikuti Devi) đến từ Nepal, và Văn Thành công chúa (文成公主) đến từ Trung Quốc - Đời nhà Đường, là đệ nhứt và đệ nhị vương hậu của vua Tùng Tán Cán Bố (Romaji Songtsan Gampo), một vị vua đáng tự hào của dân tộc người Tạng vào đầu thế kỷ thứ VII, người sáng lập đế quốc Tây Tạng (tại vị 618-650)[1]. Hai vị công chúa này nguyên là Phật tử. Khi được rước về làm vương hậu, họ không những hoàn thành sứ mệnh chính trị, đem lại sự giao hảo cho hai bên quốc gia mà còn đem đến cho người Tạng một nền văn hóa thuần thiện. Đó là Phật Giáo. Khi đến Tây Tạng họ đã đem theo nhiều kinh điển và tượng Phật. Với bản tính hiền dịu của người nữ, họ đã cảm hóa vua Tùng Tán Cán Bố trở thành một vị vua Phật tử thuần thành, xuyển dương Phật Pháp đắc lực, giúp cho triều đại của Vua phát triển mạnh mẽ một cách rực rỡ nhất trong lịch sử Tây Tạng. Hai vị công chúa này cũng đã truyền dạy giáo lý của Phật cho người dân Tây Tạng, giúp họ thay đổi được bản tính hung hăng, man dã và trở thành dân tộc thuần lương, nhân bản[2]. Những công ơn to lớn của hai vị công chúa này cùng với vua Tùng Tán Cán Bố đã được ghi vào lịch sử Tây Tạng, và cả thế giới đều biết đến.

I.2. Công chúa Tỳ kheo ni Sanghamitta (308 BCE - 229 BCE)

Tỳ kheo ni Sanghamitta cũng nguyên là một công chúa, ái nữ của vua A Dục (Ashoka) - một vị vua Phật tử và cũng là vị vua vĩ đại nhất trong việc thống nhất đất nước Ấn Độ (304 BC - 232 BC). Tuy là một công chúa quyền uy cao quý nhưng Bà đã từ bỏ tất cả để xuất gia theo Phật và trở thành Tỳ kheo ni. Vào thế kỷ thứ III trước Công nguyên, Bà cùng với Hoàng huynh của mình là Tỳ kheo Mahindha đã đem Phật Giáo từ Ấn Độ truyền sang Tích Lan. Với bản tính hài hòa, dễ gần gũi của người nữ, Tỳ kheo ni Sanghamitta đã cảm hóa dân chúng trên Quốc đảo này vô cùng kính mộ và theo Phật Giáo rất đông. Đặc biệt trong số đó là hoàng hậu Anula, tức chánh hậu của vua Devanampiya Tissa (250 BC - 210 BC), và các thị nữ của hoàng hậu cũng xuất gia, trở thành những Tỳ kheo ni trong giáo đoàn Ni giới của Bà. Vậy Bà là người đầu tiên đã thành lập Giáo đoàn Ni tại Tích Lan, sau đó Ni giới được truyền sang Trung Quốc, Miến Điện và Thái Lan[3].

Tỳ kheo ni Sanghamitta cũng đã mang đến quốc đảo này một cây Bồ đề con được chiết từ cây Bồ đề gốc tại Bodhgaya, nơi Đức Phật thành đạo. Cây Bồ đề đó được Vua Devanampiya Tissa ở Tích Lan kính đón một cách long trọng và đem trồng trong một khu vườn rất tôn nghiêm. Cây Bồ đề ấy đã trở thành cây cổ thụ nhất - vẫn còn tồn tại đến ngày nay, để cho tín đồ Phật tử và khách hành hương các nơi đến chiêm bái.

Sau khi Bà cùng người Hoàng huynh đem Phật Pháp đến đất nước Tích Lan thì Phật Giáo đã trở thành Quốc giáo, đem lại nhiều lợi lạc tâm linh cho người dân trên Quốc đảo này. Phật Giáo nói riêng và người dân Tích Lan nói chung cho đến ngày nay đều ghi nhận công ơn của Bà cùng người anh trai của Bà.

Hình tượng xuất dương đến nơi xa xôi để hoằng pháp của Tỳ kheo ni Sanghamitta là một tấm gương cho Ni giới ngày nay đã rời xa quê hương, đem Phật Pháp đến xứ người như Hoa Kỳ và các quốc gia khác nơi hải ngoại cần noi theo.

II. Phật Giáo sơ truyền tại Mỹ

Phật Giáo chính thức truyền vào Mỹ từ cuối thế kỷ thứ 19, do những văn nghệ sĩ từ nhiều đất nước như Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, Tích Lan, Nga, Đức… Họ đã thành lập các hội và tổ chức các cuộc hội thảo về Phật Giáo, và đã tạo được sự chú ý của một số quần chúng trí thức khá đông thuộc người Mỹ. Mặc dù vậy, nhưng cho đến thế kỷ 20 Phật Giáo mới thực sự phát triển và gây ảnh hưởng sâu rộng trong xã hội Mỹ, nhờ các nhà truyền giáo từ châu Á sang như Thiền sư Suzuki, Hòa Thượng Tuyên Hóa, Lama Kalu Rinpoche…[4]

Cũng vào giữa và cuối thế kỷ 20, một số đông tu sĩ Tăng Ni đến từ Việt Nam bằng nhiều phương diện như du học, tị nạn... Quý Ngài đã mang Phật Giáo đến Hoa Kỳ và đã thành công trong việc duy trì và phát triển Phật Pháp trong cộng đồng người Việt, đồng thời cũng đã đưa Phật Pháp vào niềm tin và thực hành của một số khá đông người bản xứ. Quý Ngài đã làm những viên gạch lát đường, đã mồi được ngọn đuốc Phật Pháp cho thế hệ thứ hai và thứ ba, con cháu của người Việt sinh ra tại Mỹ. Một số giới trẻ này đã xuất gia và một số đông đã quy y Tam Bảo.

Tuy nhiên Phật Giáo hiện nay cũng chỉ gọi là thời kỳ sơ khai tại đất Mỹ. Theo thống kê, Phật Giáo hiện nay chỉ 0,9% trong tổng số dân của nước Mỹ[5]. Để Phật Pháp tiếp tục duy trì và phát triển tại vùng đất mới này là trách nhiệm của những thế hệ kế tiếp.

Tuy vậy, cả nam và nữ đệ tử Phật ở thế hệ này tại Hoa Kỳ nên cần thêm nhiều cố gắng, cùng kết hợp để mồi ngọn đuốc Phật Pháp cho thế hệ tiếp theo thật sự vững cháy, và tỏa sáng đến người bản xứ, chứ chưa thể hoàn toàn buông tay được.

III. Vài điều cơ bản tiếp theo về việc hoằng Pháp tại Mỹ

III.1. Hướng dẫn con cháu về chùa - Vai trò của Nữ cư sĩ

Nhiều con cháu của người Việt sinh ra tại Mỹ không hiểu hoặc hiểu rất sơ sài về Phật Giáo, tức tôn giáo truyền thống của tổ tiên. Do đó khi bạn bè rủ vui, hoặc khi kết hôn với người ngoài tôn giáo, con cháu của các Phật tử rất dễ dàng cải đạo.

Đây là trách nhiệm của những Nữ cư sĩ, người sống có gia đình mà ở đó người phụ nữ này đóng vai trò trực tiếp trong việc động viên chồng, dạy dỗ con cái. Để có được gia đình hạnh phúc trọn vẹn, người nữ ngoài việc khuyến hóa người bạn đời của mình cùng hướng về một tư tưởng tâm linh, quan trọng hơn nữa nên hướng dẫn con cháu của mình về chùa, quy y Tam Bảo, học hỏi giáo lý Phật để biết được những căn bản về đạo hiếu, đạo lý của con người, đồng thời để duy trì tín ngưỡng truyền thống của ông bà. Những đứa trẻ sinh ra trong gia đình giống như tờ giấy trắng, mà cha mẹ, trực tiếp nhất là người mẹ là người giáo dục đầu đời. Những gì cha mẹ vẽ trên tờ giấy trắng đó có thể là dấu ấn suốt đời của con cháu mình.

Vậy Nữ cư sĩ nên theo gương của hai công chúa cư sĩ trên, nên Phật hóa gia đình của mình để có được hạnh phúc gia đình trọn vẹn, đồng thời duy trì tín ngưỡng tôn giáo truyền thống xưa nay của tổ tiên; và tương lai có thể có những con cháu là người xuất gia hoằng truyền Chánh Pháp, tiếp nối mạng mạch Phật Pháp tại đất nước Hoa Kỳ này.

III.2. Vai trò của nữ đệ tử xuất gia

Nữ đệ tử xuất gia của Phật đại diện là Tỳ kheo ni, nên học theo gương của cố Trưởng lão Tỳ kheo ni Sanghamitta, và cần có những tiêu chuẩn như sau:

III.2.a. Giữ tinh thần hòa hợp: Ni giới đang sống trong một đất nước bận rộn và rộng lớn tại Mỹ, việc ngồi lại với nhau để lắng nghe, chia sẻ là điều rất khó. Do đó trong những khóa tu, những mùa an cư, Ni chúng nên tập trung về một trú xứ để cùng tu tập, chia sẻ, sống hòa kính với nhau theo pháp Lục hòa. Nhờ hòa hợp mà có được niềm an lạc trong cuộc sống, đồng thời có được sức mạnh trong việc góp phần hoằng truyền Phật Pháp nơi xứ người.   

III.2.b. Chịu khó và dõng mãnh:  Ni giới nên dõng mãnh, chịu khó vào đời, đem tâm từ ái, dùng các phương tiện như tổ chức khóa tu cho lớp trẻ, cầu nguyện trong các buổi lễ, thăm bệnh nhân nơi các bệnh viện, thăm người già ở những nursing home, thuyết Pháp tại các trại tù, tham gia từ thiện…

III.2.c. Hiểu cuộc sống của người bản xứ: “Khế cơ” và “khế lý” là những điều cần yếu trong việc giáo hóa độ sanh (khế cơ, khế lý, khế thời). Người hoằng pháp ngoài kiến thức Phật học, cần nên biết rõ về phong tục, văn hóa và tâm lý của người bản xứ để dùng những phương tiện phù hợp thì việc hoằng hóa mới có hiệu quả.

III.2.d. Trang bị ngôn ngữ: Ngôn ngữ là phương tiện rất quan trọng để truyền đạt thông điệp. Người hoằng pháp nên trang bị tiếng Mỹ khi đem Phật Pháp vào đất nước Mỹ, mà không phải chỉ một chiều bắt buộc con em của mình phải học tiếng Việt, hoặc cố gắng đầu tư soạn dạy tiếng Việt. Nhìn lại lịch sử Việt Nam từ xưa cho đến nay đã thay đổi biết bao ngôn ngữ: chữ Hán, chữ Nôm, cho đến nay là chữ La Tinh - Quốc ngữ. Con em ở Việt Nam không phải bắt buộc học tiếng Hán hay tiếng Nôm, nhưng tất cả Phật pháp, văn hóa, lịch sử… của người Việt vẫn được lưu truyền đầy đủ và phong phú đến ngày nay. Hơn nữa, hiện nay con cháu của người Việt sinh ra tại Mỹ đang là thế hệ thứ hai và thứ ba, các em còn biết được chút ít tiếng Việt. Nhưng đến thế hệ thứ tư, thứ năm và trở về sau, chắc chắn chúng không còn hiểu được tiếng Việt. Vậy người hoằng pháp tại nước Mỹ, ngoài việc dạy tiếng Việt cho lớp trẻ, phần chính nên cập nhựt ngôn ngữ của người Mỹ.

III.2.e. Truyền giáo không giới hạn:

Đạo Phật truyền đến nơi nào chủ yếu đối tượng là người dân ở nơi ấy. Những tư tưởng phân biệt chỉ truyền đạo cho người Việt hoặc con em của người Việt sinh ra tại Mỹ là điều rất giới hạn. Vậy đối tượng chính để hướng đến truyền đạo là những người dân bản xứ, bao gồm cả con em của người Việt được sinh ra tại Mỹ; và dĩ nhiên trong đó có cộng đồng người Việt hiện tại. Như vậy, đến một lúc nào đó trong tương lai, “cây Bồ đề trong chậu đất của Việt Nam có thể chuyển trồng thẳng trên nền đất Mỹ” để tự nó tiếp tục phát triển và sinh sôi; nghĩa là biến danh từ “Phật Giáo Việt Nam tại Mỹ” thành “Phật Giáo Mỹ”.

Trên là một số điều cơ bản mà tu sĩ Phật Giáo nói chung, Ni giới nói riêng nên áp dụng trong việc hoằng pháp trong thời đại mới nơi xứ người, cụ thể là đất nước Hoa Kỳ hiện nay.

IV. Sự khó khăn cần giúp đỡ

Mặc dù nữ giới vẫn có khả năng, nhưng căn bản vẫn là phái yếu về thể chất lẫn tinh thần nên cần có sự quan tâm, giúp đỡ.

Thời xưa Phật dạy các Tỳ kheo ni phải nương Tỳ kheo tăng để an cư, không được an cư nơi không có trú xứ Tăng, mục đích để được chư Tăng bảo vệ khỏi bị những nạn trộm cướp hay thú rừng quấy phá. Thời nay tuy không phải bảo vệ về những mặt ấy nhưng Ni giới cũng cần sự trợ duyên, khích lệ tinh thần từ chư Tăng trong việc tu học và làm Phật sự. Đặc biệt những lớp trẻ, sơ cơ, cần có sự quan tâm giúp đỡ từ các bậc Trưởng thượng, tạo điều kiện, môi trường để Ni chúng thuận duyên trong việc tu học và đóng góp Phật sự, hoằng truyền chánh pháp, lợi lạc quần sanh.

Nói tóm lại, như lời Đức Phật đã tuyên bố: “Mỗi chúng sanh đều có Phật tánh”. Người nữ cũng có khả năng thành Phật, tức đủ khả năng để tự độ mình và độ người. Vậy Nữ giới nên có niềm tin vào bản thân, tự hoàn thiện chính mình cả giới đức và trí tuệ, đồng thời mạnh mẽ, chịu khó vào đời như những vị công chúa xuất gia và tại gia trên, góp phần duy hoằng chánh pháp, lợi lạc quần sanh. Đó cũng là trách nhiệm và ý nghĩa sống của những người con Phật, không phân biệt Nam hay Nữ đệ tử Phật xưa và nay.

 


Thích Nữ Minh Huệ

(Quảng Diệu)


 



[2] https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%B4ng_ch%C3%BAa_V%C4%83n_Th%C3%A0nh#cite_ref-3

[3]https://dhammawiki.com/index.php?title=Sanghamitta

[4]http://www.tuvienquangduc.com.au/quocte/01pgkhaptg-hoaky.html

[5] https://en.wikipedia.org/wiki/Religion_in_the_United_States#cite_ref-ReligFreedom-UnivVirginia_77-0

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/06/2012(Xem: 6589)
Tình yêu thương có năng lực vô song, giúp bạn không còn cảm xúc sợ hãi. Một khi bạn phát triển được tình yêu thương (tâm Đại từ) thì sẽ không còn chỗ cho sự sợ hãi.
05/06/2012(Xem: 28336)
Mới đây theo công trình nghiên cứu của giáo sư Eric Sharp thuộc Đại học Sydney, Australia, trong số những thánh nhân của thế kỷ thứ 20 này, có ba thánh nhân người châu Á. Đó là cố thi hào Ấn Độ Rabindranath Tagore (1861-1941), Thánh Mahatma Gandhi (1869 - 1948) và một vị hiện sống là Tenzin Gyatso, Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 (1935-?). Vâng, Tenzin Gyatso, Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 hiện nay được nhiều nơi trên thế giới công nhận là một hóa thân Quan Âm và một bậc thầy tâm linh vĩ đại của nhân loại
27/05/2012(Xem: 8540)
Guru Rinpoche tuyên bố với Jomo Shedron rằng việc trì tụng lời cầu nguyện này cũng ngang bằng với việc trì tụng toàn thể Bài Trì tụng Hồng danh Đức Văn Thù.
27/05/2012(Xem: 6029)
Mục đích của việc cúng dường mạn-đà-la là xua tan sự bám chấp vào cái tôi và bất cứ kiểu thái độ quan niệm nào mà bám vào thứ gì đó như là của ai đó.
26/05/2012(Xem: 6277)
Khi trí tuệ được thắp sáng, bóng tối vô minh nhiều kiếp liền được xua tan, cuộc đời hết tối tăm, cho người người đều được hưởng trọn niềm vô biên phúc lạc.
26/05/2012(Xem: 6216)
Căn cứ trên khái niệm về Tính không nghĩa là Quang Minh khách thể, và cũng căn cứ khái niệm về Quang Minh chủ thể, chúng ta cố gắng phát triển một sự lí hội thông hiểu...
26/05/2012(Xem: 6200)
Đạo sư đại diện cho sự khuyến khích của sự thật; ngài đại diện cho sự kết tinh của lực gia trì, từ bi và trí tuệ của chư Phật và mọi Đạo sư.
25/05/2012(Xem: 7776)
Chọn pháp môn Tịnh Độ Tông, niệm Phật cầu vãnh sanh Tịnh Độ... Tâm Tịnh
25/05/2012(Xem: 7579)
Đây là một vùng đất huyền bí và diệu kỳ nhất trên thế giới. Trên rìa của Hy Mã Lạp Sơn, trên góc cạnh sâu kín nhất của Ấn Độ, tôi đã du hành nửa vòng trái đất để đến nơi này, đến nơi trú ngụ của một bậc hiền nhân được cho là hóa thân của Đức Phật, Đức Thánh Thiện Đạt Lai Lạt Ma.
20/05/2012(Xem: 6625)
Nói đến chùa, không thể không nhắc đến Huế. Cố đô là nơi có mật độ chùa chiền thuộc loại cao nhất Việt Nam với trên một trăm ngôi chùa lớn nhỏ. Lần nào đến Huế tôi cũng đến thăm, lễ Phật và thưởng ngoạn tại ít nhất là 1 ngôi chùa.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567