Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Sống để làm gì?

31/03/201807:10(Xem: 7239)
Sống để làm gì?


Phat thuyet phap 9

Sống để làm gì?



Sống để gặt những gì mình đã gieo và gieo tiếp việc thiện, tích cực tu tập để tiến hóa, có những tái sinh ngày càng tốt hơn, cuối cùng đạt quả vị giải thoát, đi đến chấm dứt sinh tử luân hồi. Đạo Phật tóm gọn trong mấy chữ nhân quả, thiện ác mà thôi.

+ Chúng ta có tái sinh, có kiếp trước và kiếp sau không?

Có rất nhiều câu chuyện trên khắp thế giới về những người chết đi sống lại kể về linh hồn, những người nhớ về kiếp trước của mình như những vị Lạt Ma Tây Tạng, nhà ngoại cảm giao tiếp với linh hồn để tìm được rất nhiều ngôi mộ, v.v

Con người được sinh ra từ những nghiệp tốt và xấu mà mình đã gieo từ vô số kiếp. Trong đời này ta buộc phải nhận quả. Để giảm thiệt hại từ những quả xấu và tăng cường quả tốt thì cần phải làm lành lánh dữ việc xấu dù nhỏ cũng không nên làm còn việc thiện dù nhỏ mấy cũng cố gắng làm. Phật nói số người được tái sinh làm người hoặc chư Thiên (thần thánh) nhiều như 2 cái sừng trên đầu con bò, còn số người sinh vào cõi khổ (rơi vào địa ngục, hóa thành quỷ đói, ma, súc sinh, atula - vị thần hiếu chiến) thì nhiều như lông con bò vậy.

+ Tu tập như thế nào?

Tu tập là tập sửa đổi từng chút một những suy nghĩ, lời nói, hành động của mình. Cái nào thiện thì làm, không thiện thì không làm. Làm việc thiện tâm sẽ an, vui, có phước báu. Bất thiện sẽ bất an, lo lắng, lương tâm cắn rứt, bị quả báo. Gieo nghiệp thiện lành là công việc chính của chúng ta + làm giàu đời sống tâm linh để có điểm tựa trong cuộc sống.

Học về những kiến thức tâm linh giúp ta phân biệt đâu là thiện đâu là bất thiện. Đúng và sai của chân lý nhiều khi rất khác với đúng sai của xã hội. Ví dụ xã hội xem điều hòa kinh nguyệt, nạo phá thai là hợp pháp nhưng về mặt tâm linh đó là hành động giết người.

+ Nhân quả là gieo cái gì gặt cái đó chỉ là sớm hay muộn mà thôi.

+ Có thể gặt ngay lập tức nếu hành động gieo quá mạnh hoặc đủ duyên ví dụ đánh người khác thì bị đánh lại ngay, trồng rau vài mươi ngày là ăn được, v.v

+ Gặt sau một thời gian như trồng xoài, măng cụt vài năm mới có quả, kẻ giết người nhiều chục năm sau mới bị bắt, v.v

+ Gặt ở những kiếp sau: người hay phá thai tái sinh ở cõi nào cũng bị giết ngay trong trứng nước, bị giết nhiều lần. Người thích câu cá cho vui sinh ra bị sứt môi, hở hàm ếch. Người ham mê bia rượu tái sinh bị kém trí tuệ, thiếu sáng suốt. Người có nghiệp sát nặng tái sinh dễ bị dị tật từ trong bụng mẹ, v.v

Có người đời này sống không tốt mà lại có phước là do hưởng phước từ những đời trước còn hành động họ gieo hiện nay thì từ từ mới gặt.

+ Trong mỗi con người đều có phần thiện (người) và bất thiện (con) song song tồn tại. Người tốt có phần thiện mạnh hơn phần bất thiện.

Người xấu trong một khoảng thời gian nào đó phần bất thiện nổi trội nên gây tội nhưng tâm con người luôn luôn thay đổi, nếu người xấu nhận ra mình sai, biết hối lỗi, sửa đổi, bỏ ác theo thiện thì có khả năng trở thành người tốt. Vì vậy không nên nhìn nhận một người nào đó cố định là xấu hay tốt hoàn toàn.

Để trở thành người tốt ta nên giữ ít nhất là 5 giới cơ bản của Phật giáo:

  1. Cố ý tránh xa việc giết người và động vật
  2. Cố ý tránh xa việc trộm cắp
  3. Cố ý tránh xa việc tà dâm
  4. Cố ý tránh xa việc nói dối
  5. Cố ý tránh xa việc uống rượu và các chất gây say.

+ Giới không phải là điều ngăn cấm mà là thành trì ngăn chúng ta đừng đi vào đường ác, là rào cản cho chúng ta khỏi rơi vào vực sâu tội lỗi. Giới là tình thương của chư Phật đối với chúng sinh vì Phật nhìn ra nguyên nhân của khổ nên khuyên ta không nên làm điều bất thiện - có khả năng gây đau khổ cho ta. Càng giữ nhiều giới thì càng an lạc. Càng khép mình vào khuôn khổ càng tránh được tâm phóng dật (tâm buông thả, chạy theo dục vọng).

+ Giới có giới thô và giới vi tế. Ví dụ ta không giết ai nhưng khi thấy người ác bị giết ta tán thành thì cũng có cộng nghiệp sát rồi. Giữ giới không nói dối thì cũng không nên nói lời đâm thọc, lời gây chia rẽ, lời phỉ báng, lời phù phiếm, v.v

+ Không chỉ giữ giới mà còn cần hành giới như đang làm gì thì làm tốt việc đó, làm có trách nhiệm, làm những nghề chân chính tránh nghiệp sát (như bác sĩ nạo phá thai, nghề giết mổ gia súc, gia cầm), cứu giúp người và động vật, bố thí, cúng dường, nói lời an ủi người khác, v.v

+ Đỉnh cao của hành giới là thành giới. Chỉ cần thành tựu 1 trong 5 giới cũng giúp chúng ta trở thành 1 vị Thánh, có thần thông và chắc chắn tái sinh lên cõi Trời. Theo “Cuộc đời và di huấn của bà DIPA MA”: bà là một cư sĩ Ấn Độ chỉ giữ 5 giới nhưng đạt được thần thông trong đời này. Bà dạy Thiền cho những người nội trợ và họ thực hành thiền nhập thế - thiền ngay trong sinh hoạt hàng ngày để có sự an lạc. Mẹ Teresa đã được phong Thánh vì lòng bác ái (tình yêu rộng khắp – lòng từ bi) của bà - cống hiến cả đời cho những người nghèo khó. Nicholas Winton – người anh hùng thầm lặng cứu thoát hơn 600 đứa trẻ ra khỏi Đức Quốc xã. Ông được nữ hoàng Anh phong tước hiệp sĩ ở tuổi 94. Người lãnh đạo Tiệp Khắc trao cho ông vinh dự cao nhất, trạm xe London tạc tượng của ông, thậm chí một hành tinh trong vũ trụ được đặt theo tên ông! Ông đã hành hạnh Bồ Tát cứu vớt chúng sinh và chắc chắn rằng ông sẽ tái sinh lên cõi Trời.

+ Con người sinh ra trong cõi dục (ham muốn) nên ai cũng có xu hướng làm biếng, làm ít mà thích hưởng nhiều (tiền bạc, yêu đương, được khen, ăn uống và ngủ). Nếu chỉ muốn đủ ăn đủ mặc đủ sống thì là bình thường nhưng nếu muốn quá nhiều, dư ra, tích trữ thì lại là tham. Vì tham nên ta làm nhiều hơn, có nhiều hơn để thỏa mãn những ham muốn của mình.

+ Ai biết hài lòng với cái mình đang có thì có thể dừng lại hưởng nhàn J

+ Nếu muốn nhiều mà không đạt được sinh mệt mỏi, chán nản, bực tức, sân hận, v.v có thể phát tác ra bên ngoài đối với người khác hoặc quay ngược vào trong tâm là buồn bã, tự ti, ghen ghét, đố kỵ, thất vọng, v.v là những trạng thái, tâm trạng có hại cho cơ thể, đỉnh cao là trầm cảm và tự sát (vì bị phụ tình, vì thất bại trong công việc, v.v).

+ Có người nghĩ rằng kiếp này sống khổ thì chết đi để khỏi khổ, kiếp sau sẽ tốt hơn nhưng thật sai lầm vì chết với tâm sân hận sẽ tái sinh làm ma bị những cảnh tượng đau khổ trước khi chết lặp đi lặp lại trong tâm mãi cho đến khi nào nhận ra là mình đã sai lầm mới có thể siêu sanh được. Thân người khó có được mà không biết quý trọng thì đến khi nào mới lại được làm người ?!

Ta thường dính mắc, muốn níu giữ những gì mình ưa thích như tiền, đồ vật quý, nhà cửa, người yêu, mạng sống, v.v nên khi chết thường hóa thành ma mà không siêu thoát được.

Mỗi người như một con nhện giăng tơ. Mỗi vòng tơ là một mối quan hệ, một dính mắc.  Khi vòng nào đứt thì bị rúng động, chảy máu cho đến chết.

Nếu khi chết được thiêu, đem tro cốt vào chùa, mỗi ngày được nghe Kinh, nghe giảng Pháp đến khi nào nhận ra những sai lầm của mình, buông bỏ được thì mới có khả năng siêu thoát.

Tại sao bạn đến với Phật Pháp?  Phật độ tùy duyên. J

+ Phật Pháp như một nhà thuốc miễn phí, ai đang đau khổ (có bệnh về tâm) muốn chữa bệnh thì đến, tùy theo bệnh gì mà lựa thuốc phù hợp với mình. Chư Tăng và chư Ni là những vị bác sĩ, tùy duyên mà mình gặp bác sĩ giỏi hay dở.

+ Đi chùa nghe Pháp phần nhiều là phụ nữ vì phụ nữ nhẹ dạ và chịu nhiều đau khổ nhưng phụ nữ cũng rất dễ tu vì giàu tình cảm, vị tha, biết hy sinh vì người khác. Hãy xem những người sống bên cạnh là ruộng phước của mình, gieo xuống hạnh phục vụ để những thiện lành của mình có cơ hội trổ sinh.

+ Nhiều khi mình biết bệnh, biết thuốc nhưng thuốc đắng quá mình không thích uống ví dụ ta khó tập Thiền vì khi Thiền mình chỉ quan sát những điều khởi sinh chứ không thọ hưởng được gì. Thiền nhạt như ăn cơm với rau luộc mà không thêm muối, nước chấm hay ớt vì vậy không hấp dẫn.

+ Những ham muốn của con người  rất mạnh mẽ nên dù biết không tốt vẫn rất khó thay đổi. Ví dụ dùng máy tính trong thời gian dài sẽ làm mắt mỏi và mờ nhưng rất khó dứt ra khi đang xem 1 bộ phim nhiều tập hoặc truyện dài hấp dẫn. Ai cũng biết hút thuốc lá có khả năng bị ung thư phổi nhưng mấy ai bỏ được. Bởi vậy, chiến đấu với chính những ham muốn của mình thật là khó.

+ Tu tập đúng thì khỏe mạnh, an lạc, khá giả, hạnh phúc hơn.

Phân biệt hỷ thiện và hỷ tham:

+ Hỷ thiện: niềm vui khi làm việc tốt, khi cho đi thì nhẹ nhàng, an lạc.

+ Hỷ tham: vui nhiều, bùng nổ, muốn niềm vui kéo dài như khi trúng số hoặc khi đội bóng mình ủng hộ chiến thắng. Vui kết hợp với tâm phóng dật có thể phát sinh những hành động quá khích.

+ Đôi khi thấy mình tiến được 1 bước rồi lại thụt lùi 5-6 bước. Cho nên lúc nào cũng phải tự nhủ bắt đầu lại, bắt đầu lại. Không bao giờ là muộn để sửa đổi. Ta không thể thay đổi thế giới, xã hội, gia đình mà chỉ có thể thay đổi chính bản thân mình mà thôi.

+ Mong rằng mọi người đều có định hướng sống đúng đắn, có quyết tâm và sức mạnh để chiến thắng những thói hư tật xấu của chính mình để ngày càng tiến hóa nhé! J

27/3/2018

 Võ Thị Anh Thi

Ý kiến bạn đọc
01/04/201806:56
Khách
* Bài viết dựa trên những kiến thức về VI DIỆU PHÁP do SƯ CÔ TÂM TÂM giảng dạy.
31/03/201801:06
Khách
Có một số chỗ để mặt cười :) nhưng bị biến dạng thành chữ J. Xin quý vị thứ lỗi.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/01/2021(Xem: 5450)
Từ lâu các kinh sách Phật Giáo Việt Nam bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ âm Hán Việt của Trung Quốc. Từ những được chư tôn thiền đức Tăng Ni chuyển qua quốc ngữ tiếng Việt, để Phật tử dễ đọc, nhất là những vị chưa có kiến thức về âm Hán Việt. thế kỷ 20 (năm 2000 trở đi) các kinh sách dần dần đã Người biên soạn xuất gia tại Chùa Liên Hoa, Bình Thạnh, với Tôn Sư Hải Triều Âm, các kinh sách trong Chùa tụng bằng tiếng Việt do Tôn sư chuyển ngữ. Từ năm 2005 trở đi, người biên soạn định cư và hoằng pháp tại Hoa Kỳ. Nhiều Chùa ở Hoa Kỳ vẫn còn tụng kinh bằng âm Hán Việt và nhiều nơi phải tụng bằng tiếng Anh cho người bản địa và thế hệ con cháu thứ hai sanh tại Mỹ có thể tụng hiểu được. Phật tử Việt tụng kinh bằng tiếng Việt mà vẫn chưa hiểu được ý nghĩa ẩn sâu trong lời kinh và càng bối rối hơn khi tụng kinh bằng bằng âm Hán Việt. Đó là lý do thúc đẩy, chùa Hương Sen biên soạn một cuốn “NGHI LỄ HÀNG NGÀY” bằng tiếng Việt và tổng hợp gần 50 bài kinh:
01/01/2021(Xem: 6178)
Trong kho tàng văn học của Việt Nam và Phật Giáo, Trần Thái Tông (1225 - 1258) đã có những đóng góp vô cùng to lớn và giá trị, những sáng tác của Ngài, bất hủ qua dòng thời gian, tỏa sáng lồng lộng trên bầu trời Dân Tộc và Đạo Pháp. Trần Thái Tông được kể như một vị Thiền sư cư sĩ vĩ đại, nhà thiền học uyên thâm, thành tựu sự nghiệp giác ngộ. Một vị vua anh minh dũng lược, chiến thắng quân Nguyên Mông giữ gìn bờ cõi, đem lại cường thịnh ấm no cho dân cho nước, đã để lại tấm lòng cao quý thương yêu đời đạo, lưu lại di sản trí tuệ siêu thoát cho hậu thế noi theo.
29/12/2020(Xem: 6911)
Tịch tĩnh bất động hay định lực có thể đè nén những cảm xúc chướng ngại ẩn tàng, nhưng nó không thể loại trừ hoàn toàn chúng. Tuệ giác nội quán là cần thiết bởi vì như được giải thích trước đây, nó có thể loại trừ hoàn toàn những cảm xúc phiền phức và những rối rắm hậu quả của chúng. Thiền ổn định (chỉ) và thiền phân tích (quán) bây giờ phải làm việc với nhau. Khi chúng thể hiện chức năng cách này, chúng có thể nhổ gốc những cảm xúc phiền phức và loại trừ những giới hạn của thông tuệ vì thế chúng ta có thể hoàn thành mục tiêu tối hậu của việc giúp đở những kẻ khác một cách hiệu quả hơn.
29/12/2020(Xem: 5752)
Thơ thiền Nhật bản là cả một thế giới thi ca độc đáo, tiêu biểu cho tư tưởng và chủ trương tu tập của thiền học Zen, nhất là qua một thể thơ cực ngắn gọi là haiku. Điểm đáng lưu ý và cần nêu lên trước nhất là thơ thiền Nhật bản khác hẳn với thơ Đường của Trung quốc. Một số học giả, kể cả các học giả Tây phương, dường như đôi khi không nhận thấy được sự khác biệt này khi mang ra phân tích và tìm hiểu tinh thần Phật giáo chung cho cả hai thế giới thi ca trên đây.
28/12/2020(Xem: 5243)
Moscow: Thuật ngữ “Tukdam, ཐུགས་ དམ་” mô tả một dạng thiền cao cấp trong truyền thống Kim Cương thừa, thường được thực hành bởi các tu sĩ Phật giáo trong trạng thái quá độ sang sự chết, được gọi là trung hữu – bardo (chìa khóa để giải mã những Bí mật của Nghệ thuật sinh tử). Trạng thái nhập thiền định Phật giáo Mật tông hiếm có được gọi là “Tukdam, ཐུགས་ དམ་” đã được các nhà khoa học phương Tây nghiên cứu Và Tìm hiểu trong nhiều năm, với sự lãnh đạo của Tiến sĩ ngành tâm lý và tâm thần học - Richard Davidson thuộc Đại học Wisconsin-Madison (Mỹ), người sáng lập và Chủ tịch Trung tâm Tâm Trí Lực (Center for Healthy Minds).
28/12/2020(Xem: 5367)
Phật giáo đồ các quốc gia Đông Á, thường Kỷ niệm ngày Đức Phật Nhập Niết bàn vào tháng 2 Âm lịch. Nhưng tại địa phương tôi, Trung tâm Thiền miền Bắc Carolina (the North Carolina Zen Center) lại tổ chức Kỷ niệm ngày Đức Phật Thành đạo vào tháng 12 Âm lịch, với một buổi chia sẻ Pháp thoại với Thanh thiếu niên Phật tử, một buổi lễ thắp nến lung linh, tỏa sáng ánh đạo vàng từ bi, trí tuệ, và một bữa ăn tối sau lễ Kỷ niệm.
24/12/2020(Xem: 5940)
Đức Đạt Lai Lạt Ma và nhà hoạt động môi trường người Thụy Điển về biến đổi khí hậu, thiếu nữ (17 tuổi) Greta Thunberg sẽ hội thảo cùng với các nhà khoa học hàng đầu vào ngày 9 tháng 1 tới, về mối quan tâm ngày càng tăng, đối với phản ứng các bên về “khủng hoảng khí hậu: những biến đổi do con người gây ra trong môi trường làm tăng tốc độ nóng lên toàn cầu”. Cuộc thảo luận sẽ được tổ chức bởi Viện Tâm trí và Đời sống (Mind and Life Institute), rút ra từ cuốn sách mới nhất của Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chủ nghĩa hoạt động của nàng thiếu nữ (17 tuổi) Greta Thunberg, nhà hoạt động môi trường người Thụy Điển về biến đổi khí hậu và một loạt phim giáo dục mới về biến đổi khí hậu.
24/12/2020(Xem: 5119)
Trung tâm Phật giáo Somapura (Somapura Mahavihara, সোমপুর মহাবিহার, Shompur Môhabihar) được kiến tạo vào thế kỷ thứ 8, tọa lạc tại Paharpur, Badalgachhi Upazila, Naogaon, Tây Bắc Bangladesh, một ngôi Già lam Cổ tự lớn thứ hai phía Nam dãy Hymalaya, một trong những trung tâm Phật giáo lớn nhất Nam Á, thành tựu nghệ thuật độc đáo, ảnh hưởng đến nhiều trung tâm Phật giáo lớn khác trên thế giới.
24/12/2020(Xem: 4542)
Hoàng đế Phật tử ltan Khan, vị Đại hộ pháp, triều đại của Ngài đã đánh dấu thời đại Phật giáo Mông Cổ Cực thịnh, Ngài là hậu duệ của Thành Cát Tư Hãn và là lãnh tụ của bộ tộc Tümed của Mông Cổ. Vào giữa thế kỷ 16, năm 1578 Ngài bệ kiến Sonam Gyatso, Đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 3 và ban cho Ngài tước hiệu “Đại Dương”, “ám chỉ Hoàng đế Phật tử ltan Khan, vị Đại hộ pháp Trí tuệ Siêu phàm như Biển” Tước hiệu Đạt Lai Lạt Ma cũng được ban cho hai vị Giáo chủ tiền nhiệm của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 3, và tước hiệu này trở thành thông dụng cho tất cả những người kế nhiệm Đức Đạt Lai Lạt Ma Sonam Gyatso về sau này.
21/12/2020(Xem: 7714)
Thơ là chữ viết, nhưng thơ cũng là giữa những dòng chữ. Thơ là lời nói ra, nhưng thơ cũng là giữa những lời nói ra, hiển lộ cả trước và sau lời nói ra. Thơ là ngôn ngữ và thơ cũng là vô ngôn, là tịch lặng. Và là bên kia của chữ viết, bên kia của lời nói. Khi đọc xong một bài thơ hay, khi không còn chữ nào trên trang giấy để đọc nữa, chúng ta sẽ thấy thơ là một cái gì như sương khói, mơ hồ, lung linh, bay lơ lửng quanh trang giấy. Cũng như thế, Kinh Phật là thơ, là lời nói, là tịch lặng, là bên kia ngôn ngữ. Khi bài Tâm Kinh đọc xong, khắp thân tâm và toàn bộ ba cõi sáu đường đều mát rượi, ngấm được cái đẹp của tịch lặng ẩn hiện bên kia những chữ vừa đọc xong. Cội nguồn thơ, cũng là cội nguồn Kinh Phật, đó là nơi của vô cùng tịch lặng, một vẻ đẹp như sương khói phả lên những gì chúng ta nhìn, nghe, cảm xúc và hay biết.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]