Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Trăng Giữa Trời Không

26/08/201722:06(Xem: 5832)
Trăng Giữa Trời Không
TRĂNG GIỮA TRỜI KHÔNG  
Pháp thoại tại chùa Phật Tổ Ngày 29-03-2008

Bồ tát Quán Thế Âm được xem là biểu tượng từ ái của người mẹ hiền. Hình ảnh đó của ngài đã có mặt rất lâu đời trong truyền thống đạo Phật. Nếu ở Trung Hoa, ngài có mặt trong tâm khảm mọi người ngay từ lúc Phật giáo mới du nhập, thì vào kỷ nguyên đầu tiên, khi Phật giáo có mặt ở Việt NamQuán Thế Âm cũng là biểu tượng cho sự linh thành, cảm ứng và cứu độ.

Đặc biệtPhật giáo dân gian ở phương Đông ngay từ đầu đã là tôn giáo của cầu nguyệnDần dần niềm tin của quần chúngPhật tử vào năng lực cứu độ của Bồ tát Quán Thế Âm ngày càng sâu chắc, đến mức trở thành một tín ngưỡng. Ngày nay tất cả mọi ngừi Phật tử hầu như không thể quên ba ngày khá quan trọng trong năm cho lễ vía của ngài: Ngày đản sanh 19 tháng 2, ngày thành đạo 19 tháng 6 và ngày xuất gia 19 tháng 9 (âm lịch).

Chắc chúng ta thầm nghĩ tại sao không có ngày ngài nhập Niết bàn? Bởi ngài là Bồ tát tha phương thị hiện độ sinh trong cõi đời, có mặt khắp mọi nơi theo bản nguyệnhành trạng của ngài đến đi siêu thế cho nên không có ngày nhập Niết bàn.

Chúng ta nên nhớ, Bồ tát Quán Thế Âm vốn là người nam, chứ không phải người nữ. Nhưng từ thế kỷ thứ II về sau, đến cuối đời Tống đầu đời Minh, hình ảnh Quán Thế Âm chuyển dần theo những câu chuyện về sự thị hiện của ngài bằng thân người nữ trong nhân gian và lúc bấy giờ người ta đã tạo tôn tượng của ngài qua hình ảnh người nữ, kéo dài đến hiện tại. Ở Việt Nam, vào thế kỷ thứ II, kinh Vô Lượng Thọ đã xuất hiệnkinh Pháp Hoa Tam Muội cũng dược dịch vào năm 255 tại Giao Châu và nhiều kinh khác, trong đó nói rất rõ về hạnh nguyện và năng lựclợi tha của Bồ tát Quán Thế Âmđồng thời cũng đề cập đến phước đức và sự linh nghiệm của việc tôn kínhxưng tụng danh hiệu của ngài. Từ đó niềm tin Quán Thế Âm có mặt trong lòng người Phật tử Việt Nam và lớn dần cho đến hiện nay.

Các quốc gia như Nhật BảnĐại HànTrung Quốc đều sùng mộ, tín ngưỡng Quán Thế Âm, cũng như cung kính thờ phượng hình ảnh ngài. Và trong khi tạo dựng tôn tượng ngài, người ta thường thể hiện ngài qua ba mươi hai hóa thân. Ngài phát nguyện mang niềm vui đến cho chúng sanh với đức vô úy và năng lực cứu khổ. Ai có lòng tin nơi ngài là có thể đạt được tuệ giácchứng nghiệmđược Thánh quả hiện tiền bằng pháp tu nhĩ căn viên thông. Ngoài đức vô úy ngài thường ban cho mọi người, một điều gần gũi nữa đó là những ai có niềm tin nơi ngài thì đều qua được mọi khổ đau, tai ương, họa hoạn... Nhiều người trong chúng ta đã tu tập theo pháp môn niệm danh hiệu Quán Thế Âm, thế nhưng có khi nào cảm nghiệm được sự linh ứngtừ ngài chưa?

Nếu về Việt Nam, có dịp đi Huế chúng ta có thể thăm đồi Tứ Tượng, cách thành phố Huế khoảng ba mươi cây số. Ngày xưa ngọn đồi chưa có tượng Quán Thế Âm, nhưng nay tôn tượng của ngài đã được dựng lên giữa đỉnh đồi rất uy nghi vì một sự linh hiển xảy ra.

Chuyện kể rằng vào một đêm nọ, ngài đã hiện thân một người nữ áo dài trắng thướt tha, đến vỗ vào vai người đại đội trưởng chỉ huy đoàn quân đang đóng ở ngọn đồi lúc đang ngủ, bảo hãy mau rời khỏi nơi đây. Người chỉ huy ấy giật mình thức dậy, ra lệnh cho nhổ trại, Chẳng bao lâu sau đó, ngọn đồi bị pháp kích tan hoang. Sau khi thoát chết, người lính trở về thưa với Ôn Từ Đàm (thầy Thiện Siêu) và Ôn Linh Quang (lúc ấy vẫn còn) xin thiết lập nơi ngọn đồi một tượng Bồ tát Quán Thế Âm. Hai Ôn chần chờ chưa quyết định, nhưng sau đó quý Ôn chiêm bao thấy Bồ tát Quán Thế Âm hiện về bảo hãy dựng một tượng Quán Thế Âm nơi ngọn đồi ấy để dân chúng thành phố Huế bớt khổ.

Huế đã vốn nghèo lại càng thêm xơ xác, tang thương bởi cuộc chiến kéo dài; hết nỗi kinh hoàng trong Tết Mậu Thân - 1968, lại đến nỗi đau trong mùa hè đỏ lửa năm 1972. Và từ ngày ngọn đồi Tứ Tượngđược tôn trí thánh tượng Quán Thế Âmtrải qua bao nhiêu đợt binh lửa tàn phá, nhưng pho tượng vẫn không bị suy suyển một chút nào. Những năm gần đây, nơi ấy đã trở thành một trung tâm lớn để Phật giáo tỉnh Thừa Thiên tổ chức những lễ hội rất quy mô.

Những sự kiện kể trên nói lên niềm tin của người Phật tử Việt Nam nói riêng và của người Phật tửphương Đông nói chung đối với Bồ tát Quán Thế Âm.

Tuy nhiên, điều sâu xa chúng ta cần chia sẻ ở đây là trong cả ngàn người xưng tánthọ trì danh hiệuQuán Thế Âm, có người được ngài hiện thân cứu độgia hộ, có người thì chưa cảm nhận được năng lực từ bi của ngài. Tại sao? Có thể đức tin thì ai cũng có, nhưng mức độ của đức tin về ngài thì chúng tacó thể không giống nhau. Cũng là niềm tin nhưng tùy theo mức độ tâm thức, cách thức biểu lộ ứng dụng niềm tin khác nhau nên chúng ta chưa cảm được năng lượng từ bi nơi ngài. Thông thường chúng ta chỉ niệm danh hiệu ngài lúc cần đến: lúc khổ đau, gặp chuyện bất trắc ta mới cầu ngài, qua sông gặp sóng dữ thì mới niệm tên ngài, qua được rồi lại quên hết, vì thế nên chưa cảm được năng lượng từ bicủa đức Bồ tát gia hộ. Khi niềm tin Bồ tát Quán Thế Âm được hình thành vững chắc trong ta, tâm ta khẩn thiết trì niệm danh hiệu ngài thì chắc chắn cảm ngay được năng lượng lành của ngài đến với mình.

Người Phật tử thuần thành là người có niềm tin bất hoại, là người biết trân quí từng giây phút tu tập để không lãng phí cuộc đời của mình. Thời gian của đời sống đi qua rất nhanh, hãy nhớ rằng một ngày nếu ta không gieo xuống một chút phước điền, thì chắc chắn những phiền nãolo âunghiệp chướng sẽ tràn ngập tâm thức. Hãy thường xuyên gieo vào tâm thức mình những thiện lành, những niềm tin chính đángđể trở nên xứng danh là người Phật tử thuần thànhChúng ta không một ai có thể lường được những bất hạnhrủi ro sẽ đến với đời mình. Có gì bảo đảm cho ta ngày mai, có gì bảo đảm cho đời sống ta luôn an bình. Cho nên vấn đề quan trọng nhất là hãy tạo những nghiệp lành từ những ý niệm trong sángthánh thiện, đó sẽ là nơi che chở cho chúng ta.

Có một bài kệ tán thán Bồ tát Quán Thế Âm rất hay được truyền tụng trong văn học Phật giáo, có thể giúp chúng ta trên con đường thực tập chuyển hóa, thanh lọc thân tâm:

Bồ tát thanh lương nguyệt
Du ư tất cánh không

Chúng sanh tâm cấu tịnh
Bồ đề 
ảnh hiện  trung.

Sư ông Làng Mai đã dịch như sau:

Bụt là vầng trăng sáng
Đi ngang trời thái không
Hồ tâm chúng sanh  lặng
Trăng hiện bóng trong ngần.

Đây là bài thi kệ thường được xưng tán trong các buổi lễ sám để tỏ lòng thành kính đức Bồ tát Quán Thế ÂmHình ảnh gợi tả của bài kệ khiến chúng ta nhớ đến câu: "Thiên giang hữu thủy, thiên giang nguyệt" - Ngàn con sông có nước thì ngàn mặt trăng hiển hiện. Có nghĩa là một khi tâm chúng ta có niềm tin trong sángvững chắc thì Quán Thế Âm liền có mặt.

Khi tu tập theo hạnh nguyện Bồ tát Quán Thế Âmchúng ta phải bước qua bốn giai đoạn: Thứ nhất là phát khởi niềm tin đối với ngài; thứ hai là thực hành thanh lọc tâm; thứ ba là phát khởi lòng từ bi; và thứ tư là làm cho tâm biểu hiện phẩm chất của Bồ tátTrở thành một Phật tử thuần tín, có niềm tin sâu vào Tam Bảo là ta đã thực hiện bước đầu tiên. Tiếp đến, chúng ta cần phải thực tập chuyển hóa, thanh lọc tâm thức và làm phát khởi trong ta năng lượng tình thương rộng lớn của Bồ tát Quán Thế Âm. Và cuối cùng là làm cho thân tâm lắng sạch phiền não, làm cho con người mình trở thành một hóa thân của Bồ tát Quán Thế Âm.

Có thể nói không một ai thiếu niềm tin mà tồn tạiChúng ta có thể là một người cang cường không tin vào thế giới vô hình, không biết e sợ điều gì, nhưng ít nhiều chúng ta cũng gắn niềm tin vào một cơ chế xã hội, một năng lực chánh trịNếu không gắn cuộc đời ta cho niềm tin về một cơ chế vận hành xã hộihay quyền lực chánh trị thì cũng gắn niềm tin vào thế lực của đồng tiền. Nhưng thông thường, khi đã lớn tuổi, nếm trải đủ ngọt bùi, cay đắng của cuộc đời, đối mặt với những bất ngờ đổ xuống đời mình thì người ta lại có niềm tin thiên hướng về bên trong, tin vào thế giới vô hình.

Con người là một sinh thể được cấu tạo bằng hai phần vật chất và tinh thầnVật chất có thể biến hoại, nhưng tinh thần thì vẫn còn lại. Tinh thần làm chủ hình hài vật chất này, cho nên khi tâm thức được nâng cao ở một tầm mức nào đó thì niềm tin của ta hoàn toàn đặt vào thế giới tâm linh. Và nhu yếu tâm linh là nhu yếu phát sinh một cách tự nhiên, dù cơ chế xã hội đương thời có muốn hay không muốn thúc đẩy chúng ta hướng vào con đường đó. Tôn giáo phát sinh từ nhu cầu tâm linh, từ trái tim con người, từ sự thao thức, khát khao hướng đến một điều gì cao sâu hơn đáp ứng cho nội tâm và hoàn cảnh bên ngoài. Khi quan sát thực tế có thể nói rằng, nếu thiếu may mắn chúng ta sẽ lạc bước vào những tôn giáo cuồng tín và ngược lại, may mắn hơn thì chúng ta sẽ tiếp nhận một tôn giáo mà đạo đứctrí tuệcủa tôn giáo đó có thể thúc đẩy chúng ta biết vươn đến một đời sống thanh cao đúng nghĩa. Chung quy, chúng ta thấy niềm tin là nền tảng ban đầu để một con người có thể tồn tại và thăng tiến tùy theo năng lực trí tuệ và phước duyên của họ.

Với nền tảng đức tin ban đầu đó, khi ta là người thực sự ưa thích tu tập, muốn cảm nghiệm được nhân quả trong đạo Phật một cách rõ ràng, ngoài niềm tin đặt vào các vị Bồ tátThánh hiền..., chúng ta cần phải làm một việc rất quan trọng nữa, đó là thanh lọc tâm hay chuyển hóa tâm thức của mình. Mặc dù có niềm tin lớn đối với các vị Phật, Bồ tát; miệng có niệm danh hiệu quý ngài bao nhiêu triệu lần nhưng lòng ta vẫn chứa đầy năng lực tiêu cực, thì ta vẫn không có khả năng tiếp xúc được với năng lực cảm ứng của chư Phật, Bồ tát. Chắc ta vẫn thường nghe câu: "Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu". Trong ta một khi đã tràn đầy năng lượng thiện lành, khi nhìn người tức khắc ánh mắt tỏa ra sự dịu mát, mọi lời nói ra đều hòa nhã, nghe êm ái. Nếu người tiếp xúc cảm được độ rung của ta thì họ là người có cùng cung bậc tâm thức như ta. Nếu tâm ta chứa đầy thị phi, ghen tị, nhỏ nhen... thì loay hoay ta cũng tìm đến một người cùng tâm thức như ta mà thôi. Trái tim nhân ái có thể thương người, tử tế với người, giúp đỡ người nhưng chắc chắn không thể hòa hợp và gắn bó thân tình với những người như vậy.
Thế nên, thực tập chuyển hóa tâm là phương pháp tất yếu nếu ta muốn chiêu cảm được năng lượng gia hộ của Bồ tát. Và khi lòng mình ở một tầng mức nào đó sẽ cảm ứng với dòng năng lượng, cùng hòa nhịp độ rung của tầng sóng bên ngoài giống như mình. Chúng ta nâng chiều cao tâm thức lên thì cảm được năng lượng ở chiều cao tương ứng. Cũng tương tự như cách chúng ta sử dụng máy radio, máy vô tuyến truyền hình... tu tất cả các tần số và mỗi tần số đều có độ rung của nó. Nếu bắt đúng vùng phủ sóng thì chúng ta sẽ nhận được đúng hình ảnhâm thanh hiện ra.

Thực tập thanh lọc tâm là làm sao cho các chất liệu tiêu cực trong lòng ta ngày càng rơi rụng, tiêu tán đi, dành chỗ cho năng lượng tích cực lớn dậy, nở hoa. Nếu chúng ta làm được điều này thì năng lượng của Bồ tát Quán Thế Âm dễ dàng được cảm ứng, vì ngài là biểu tượng cho từ bi và trí tuệ. Để cho quá trình thanh lọc thân tâm được hiệu quảchúng ta cần có không gian, cần hóa giải những điều kiện tạo nên năng lượng tiêu cực trong đời sống của mình. Chẳng hạn như việc niệm Phật là một trong những cách làm cho phiền nãosầu khổ rơi rụng bớt, và như vậy là ta cũng đang thanh lọc thân tâm.

Khi niệm Phật chúng ta có thể niệm lớn tiếng ra bên ngoài hay niệm thầm với những câu danh hiệu hiện lên liên tục trong tâm thức. Đây là bước căn bản để cho chúng ta làm quen với việc thực tập. Nếu chúng ta đọc thành tiếng liên tục các danh hiệu được ghi trong các quyển kinh (hay nghi thức tụng niệm), thì gọi đó là tụng danh hiệu Phật (cũng như tụng kinh vậy). Chúng ta cần lưu ý rằng việc niệm Phật có ý nghĩa rất quan trọng và sâu sắc. Khi chiết tự chữ niệm, ta có ở trên chữ kim có nghĩa là ngay hiện tại, bây giờ và ở đây; bên dưới là chữ tâm tức là đem sự nhận biết của ta dừng trụ ngay ở đây và bây giờ. Đó là ý nghĩa của chữ niệm. Chữ Phật nghĩa là giác ngộtỉnh thức; ở đây hàm ý trí tuệ luôn bừng sáng không vắng mặt phút giây nào, luôn mời gọi sự nhận biết an trú ngay nơi hiện tại, không để cho tâm thức đuổi chạy về quá khứ, rong ruổi ở tương lai, cũng không ở trong trạng thái mơ màng như chìm vào giấc ngủ. Trạng thái tỉnh sáng, nhận biết hiện tại gọi là trạng thái giác ngộ của tâm. Đó là ý nghĩa của việc niệm Phật.

Niệm Phật là một pháp môn rất thù thắng. Một lời kinh, một tiếng niệm Phật một khi đã gieo vào tâm thức sẽ đưa đến năng lực kỳ diệu có thể chuyển hóa mọi tập nghiệp của nhiều kiếp sống trong tàng thức của chúng ta. Do vậy, niệm Phật là một phương pháp gột rửa thân tâm dễ thực tập nhất. Tuy nhiênchúng ta cần phải biết niệm Phật theo đúng ý nghĩa chân chánh của nó, nghĩa là không phải chỉ đơn thuần đọc hay tụng lên một danh hiệu Phật hoặc Bồ tátChúng ta thường hay mắc phải thiếu sót này.

Ở mức độ sâu sắc, niệm Phật là an trú tâm trong trạng thái bất động, tỉnh sáng. Chúng ta đừng nghĩ những vị thiền sư không bao giờ niệm Phậttrái lại có khi các ngài còn niệm Phật giỏi hơn chúng tanhiều. Bạch Ẩn Huệ Hạc là một thiền sư nổi tiếng của Nhật, ngài niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ táthàng ngày. Một trong những thư pháp nổi tiếng của ngài viết để dạy đồ đệ có câu: "Thường niệm Quán Thế Âm Bồ tát".

Niệm danh hiệu Phật hay danh hiệu Bồ tát Quán Thế Âm... với công năng thanh lọc gần nhất là làm cho những hạt mầm tiêu cực như ghét thương, giận hờn, sầu lo... dần dần tiêu lặn theo từng âm thanhxướng niệm đang gieo vào trong ta. Thâm sâu hơn, một khi chúng ta an trú ngay nơi sát na hiệm tại, mời tâm Phật luôn có mặt thì không những chúng ta có thể thanh lọc những hạt mầm sầu khổbất anmà đồng thời những hạt mầm sinh tử nối dài qua nhiều kiếp cũng cùng lúc tiêu sạch. Bấy giờ lòng ta thênh thang, rỗng lặng và tâm từ bi bắt đầu khởi phát.

Niệm Phậttụng kinhtrì chúlễ báitọa thiền... không có pháp nào đối nghịch với pháp nào. Chúng ta vì tu chưa giỏi nên sanh tâm phân biệt pháp môn này hay hơn pháp môn kia. Chúng ta hãy có cái nhìn dung thông nhất quán, và phải nhìn xa hơn để thấy nội dung cốt tủy của kinh điển Đại thừaNguyên thủyMật TôngNgữ lục... đều là xiển dương chánh pháp của đức Thế Tôn.

Nếu đọc vào văn học Phật giáo Nguyên thủy cũng như văn học A Hàmchúng ta sẽ gặp một câu thật hay mà khi đọc lên ta thấy lòng mát dịu và thật khó quên: "Đức Thế Tôn thường vào mỗi buổi sáng lúc mặt trời vừa mọc, ngài nhập từ bi quán, rải tâm từ thấm nhuần địa địa". Năng lượng từ bi nơi tâm đức Phật có thể làm dịu mát hành tinh như sương mai thấm đẫm, bao trùm đại địa, muôn loài từ con ngườiđến cỏ cây, muông thú. Chúng ta hãy thực tập như đức Thế Tôn: bằng trái tim đầy tình thương của mình, ta nhìn con ta, người thân của ta, những người đối nghịch không thích ta... Ta hãy tập biểu hiện từ bi qua đôi mắt khiến cho năng lượng yêu thương tự nhiên lan tỏa, như sương mai phủ lên làm thấm mát họ. Chúng ta hãy thực tập để thấy công năng kỳ diệu của lòng từ bi, và chắc chắn từ bên ngoài lẫn bên trong, sự chuyển hóa sẽ được biểu hiện rõ ràng trong từng bước thực tập. Khi lòng ta chứa đầy chất liệu tình thương, dù kẻ thù có đứng trước mặt giận dữ, hùng hổ la hét, ta vẫn có thể bình thản, từ hòa và tự nhiên họ cũng chùn bước vì cảm được năng lượng mát lành của ta.

Nói như thế không có nghĩa là chất liệu từ bi có mặt thì ta sẽ trở thành người yếu đuối. Nên nhớ từ bitheo tinh thần Phật dạy luôn song hành cùng với trí tuệ và hùng lực. Ai đó có thể nghĩ rằng khi sân hậnnổi lên cũng là một biểu hiện của sức mạnh (hùng lực); nhưng sức mạnh của sân hận là sức mạnh phát tiết từ vô minh và sức mạnh đó có thể quay lại hủy phá chính thân tâm mình. Khi thân tâm ta thanh lọc được nhiều nghiệp thức phiền não thì năng lực từ bi sẽ dễ dàng phát sinh và Bồ tát Quán Thế Âm sẽ thường hiển hiện trong trái tim mình.

Có một nhà thơ Nhật Bản rất nổi tiếng, một hôm lang thang từ miền Nam ngược lên miền Bắc, ông đi qua một xóm nhỏ giữa lúc đêm trăng. Dưới ánh trăng, những người nông dân trong làng đang tụ tập vui đùa, ca hát, làm thơ... Thấy ông lạc bước qua đây, họ mời ông ghé lại và bảo: "Chúng tôi đang uống trà, làm thơ. Ông có hứng thú ghé lại và sáng tác một bài thơ cho tiệc vui hôm nay không?" Ông trả lời: "Được, được chứ". Thế là ông cất tiếng đọc: "Vầng trăng non dại...", và chỉ mới nghe tới đó thì những người nông dân đã vội òa lên: "Không được đâu! Trăng hôm nay tròn, trăng rằm mà... không đúng!" Ông không nói gì, tiếp tục đọc:

Vầng trăng non dại
Theo ta từ dạo ấy
Ai có ngờ đêm nay...

    (Basho)
Bài thơ ngắn với kết thúc giữa chừng lững lơ... làm mọi người ngỡ ngàng, nhưng một thoáng sau họ cười vang, vỗ tay khen ngợi. Những câu thơ ngắn với những dấu chấm lửng lơ mời gọi, những âm tiết gieo vào lòng người nghe một nỗi bất ngờ không thể tả được. Ai có ngờ đêm nay... đêm nay trăng đã tròn. Vầng trăng theo ta từ độ ấy, từ lúc còn là mảnh trăng hình lưỡi liềm mỏng như lá liễu, theo chân ta trăng lớn dần cùng ngày tháng lang thang phiêu bạt, bất chợt đêm nay ánh sáng toa chiếu mênh mông, và nhìn lên, ta giật mình thấy nay trăng đã tròn.

Vầng trăng lúc nào cũng bắt đầu bằng một vành mỏng cong cong như lưỡi liềm treo nghiêng, rồi dần tròn đầy theo ngày tháng. Tâm chúng ta cũng như thế. Nếu mỗi ngày thực tập thanh lọc bằng cách gieo vào tâm từng chút thiện nghiệp, đến một ngày nó sẽ tròn đầy, viên mãnChúng ta thanh lọc là lấy đinhững giận hờn, âu sầuphiền não, ghét thương... để đến một lúc nào đó tâm ta cũng bất chợt bừng sáng, rạng ngời tuệ giác. Cho nên câu kệ tán: "Hồ tâm chúng sanh lặng. Trăng hiện bóng trong ngần" chỉ là nói lên cái kết quả tất yếu, hiển nhiên của việc thành tựu công phu thiền quán và tu tập.

Đọc vào kinh Phổ Môn, ta thấy năng lực của Bồ tát Quán Thế Âm có thể cắt đứt xiềng xích, tháo bỏ gông cùm, làm cho gươm kiếm gãy nát, địa ngục trở thành ao báu đầy hoa sen thơm ngát... Khi nghe những điều này xin đừng nghĩ rằng ngài có nhiều phép mầu huyền bí, hay ngài dụng thần thông biến hóaChúng ta nên biết rằng, tất cả đều do năng lượng từ bi rộng lớn, bao la của Quán Thế Âm Bồ tátmà mọi khổ đau, trói buộc đều được phá tan, bởi vì tâm đại bi của ngài có công năng diệu kỳ thể hiệnkhắp cùng vũ trụ. Thế nên khi chúng ta niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát một cách thâm thiết, thì đó cũng là thể hiện sự mong mỏi chuyển hóa, thăng tiến trên con đường cải đổi tâm tánh của chính mình và cũng là noi theo công hạnh của ngài đem yêu thương, đem niềm vui và lòng bao dung đến cho mọi người trong cuộc đời khổ lụy này. Nếu mỗi ngày chúng ta đều có thể tu tập chuyển hóa chính mình và thường khởi tâm từ bi gởi đến cho mọi loài là chúng ta đang niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát. Niệm danh hiệu Phật, Bồ tát trong ý nghĩa thâm sâu và diệu dụng nhất là thực hành thanh lọc, chuyển hóa và phát đại bi tâm.

Thực hành thanh lọc, chuyển hóa và phát tâm dại bi là con đường dài của những bước chân khôngngừng nghỉ, chứ không phải một sớm mai thức dậy thì từ bicứu khổ đã có mặt như trong câu hát" yêu em lòng chợt từ bi bất ngờ" (Trịnh Công Sơn). Ta phải làm cho tâm lắng trong, rộng mở, đầy tình thương, để hình ảnh của Bồ tát Quán Thế Âm có thể hóa hiện trong đó. Và một khi "hồ tâm chúng sanhlặng" thì "trăng hiện bóng trong ngần", đó là điều hiển nhiên tất yếu. Nhớ tưởng, trì niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm có nghĩa là huân tập trong ta những phẩm chất quý giá để ta có thể trở thành như Bồ tát Quán Thế Âm, chứ không có nghĩa chỉ trì niệm bên ngoài bằng miệng hay hướng đến một vị QuanÂm nào khác.

Từng ngày một nếu chúng ta không để cho sự thực tập bị gián đoạn, thì việc mời năng lượng từ bi của Bồ tát Quán Thế Âm có mặt trong ta là không có gì khó khăn, và lúc nào chúng ta cần, ngài liền có mặt vì ngài là hiện thân của tình thương đã có mặt trong ta và trong khắp mọi người. Khi ấy ta là năng lượngtỉnh thức và chuyển hóa, là vầng trăng Phật soi sáng vĩnh hằng trong hồ tâm của chúng ta, là năng lượng từ biyêu thương của Bồ tát Quán Thế Âm luôn tràn đầy thân tâm này. Bồ tát Quán Thế Âm đã hiện và tâm ta đồng với tâm chư Phật.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/08/2018(Xem: 5668)
Tôi bất ngờ gặp bác ở khóa thiền của thầy trò chúng tôi tại Khánh Hòa. Bác vẫn vậy, vẫn đi với 1 chân. Bác vẫn thế, tích cực tham gia các khóa thiền. Đây là lần thứ 3 tôi thấy bác là một thiền sinh chăm chỉ và cần mẫn hành thiền. Tôi kính trọng bác vô cùng và lấy đây là tấm gương lớn muốn kể cho những ai thực sự muốn học và thiền hàng ngày.
19/08/2018(Xem: 7776)
Tu thiền (Bhavanã Jhãna) Phật giáo là tiến trình tu tập, hành trì miên mật một pháp môn nào đó để kinh nghiệm trực tiếp trên Thân và Tâm về những giáo lý nhà Phật mà hành giả đã học từ kinh điển hay qua sự hướng dẫn của những bậc chân nhân.
19/08/2018(Xem: 5636)
Chúng ta cần cả những điều kiện nội tại và ngoại tại cho sự thành công hoàn toàn,và ta đã có sẳn những thứ này. Thí dụ, như những con người ta có một thân thể và tâm thức vốn hổ trợ cho sự thấu hiểu giáo huấn. Vì vậy, chúng ta đã tiếp nhận điều kiện nội tại quan trọng nhất. Về ngoại tại, chúng ta cần sự trao truyền các sự thực tập và sự tự do để thực tập. Nếu, sở hữu những hoàn cảnh này mà ta sử dụng, thì bảo đảm sẽ thành công. Tuy nhiên, nếu ta không sử dụng, thì đó là sự lãng phí kinh khiếp. Ta phải đánh giá những điều kiện này vì khi chúng không hiện hữu, thì ta không có một cơ hội nào. Chúng ta phải đánh giá khả năng hiện tại của ta.
17/08/2018(Xem: 5097)
Trong khoảng 10 năm gần đây, tốc độ phát triển nhanh chóng của công nghệ, nhất là lĩnh vực công nghệ thông tin, đã thay đổi cuộc diện đời sống của nhân loại. Việt Nam là một trong số các quốc gia có tốc độ phát triển công nghệ thông tin nhanh nhất thế giới. Theo số liệu báo cáo từ tổ chức We Are Social, tính đến tháng 01 năm 2018, dân số Việt Nam có 96.02 triệu người, với tổng số người dùng Internet là 64 triệu người. Số lượng người dùng Internet ở Việt Nam đứng thứ 12 trên thế giới, tỷ lệ người dùng internet cao nhất Châu Á, số lượng người dùng Facebook đứng thứ 7 trên thế giới.
15/08/2018(Xem: 8945)
Thời gian luôn di chuyển về phía trước. Kể từ khi chúng ta được sanh ra đời cho tới bây giờ, mỗi một giây phút trôi qua là chúng ta đến gần hơn chỗ cuối cùng của cuộc đời, đến gần cái chết hơn. Đây là điều bình thường ở trong vũ trụ. Kể từ lúc tôi bước vào tuổi 70 đến nay, sức khỏe tôi bị giảm dần, và tôi thường xuyên nhận được tin tức từ bạn bè: có người bị bịnh này, người bị bịnh kia , có nhiều bạn vô nhà dưỡng lão, và nhận được những tin buồn: bạn bè, người thân lần lượt “ra đi” không như thời còn trẻ tôi thường nhận được những thiệp cưới thường xuyên từ bạn bè.
14/08/2018(Xem: 5986)
Niềm hy vọng là trạng thái tâm an trong tình cảnh bất ổn định bởi những ràng buộc phiền não cuộc đời, là sự bình dị trong tâm hồn có được khi rơi vào tình huống tồi tệ mà ở đó tâm được thắp sáng bởi niềm tin tưởng, niềm hy vọng và sự lạc quan.
11/08/2018(Xem: 7578)
Vào sáng Thứ Năm 2 tháng 8, tại trường Trung Học Grand Terrace thuộc Học Khu Colton Joint (Quận Hạt San Bernadino, Nam California), Tiến Sĩ Giáo Dục Bạch Xuân Phẻ đã có buổi thuyết trình với đề tài “Phát Triển Kỹ Năng Chuyên Môn Của Giáo Viên Nhờ Vào Sự Tỉnh Thức”. Có khoảng 100 giáo viên đến tham dự hai buổi thuyết trình. Và họ đã tỏ ra rất thú vị, quan tâm đến đề tài này.
11/08/2018(Xem: 7564)
THANH TỊNH TÂM Làm Sao Một Vị Tu Sĩ Phật Giáo Với Văn Bằng Tiến Sỹ Trong Tâm Lý Học Kết Hợp Triết Học Đông Phương và Tây Phương Để Tìm Sự Tĩnh Lặng của Nội Tâm Không có gì lạ lắm cho sinh viên hậu đại học (cao học và tiến sỹ) về sự căng thẳng. Trong thực tế, một nghiên cứu năm 2012 của Đại học nổi tiếng Berkeley, California, cho thấy rằng 45% sinh viên hậu đại học báo cáo có một vấn đề khủng hoảng cảm xúc hoặc liên quan đến căng thẳng trong việc học.
11/08/2018(Xem: 13053)
Sau Hiệp định Paris 1973, những người lính Mỹ cuối cùng rút khỏi Việt Nam. Từ đó đến nay đã 45 năm, những “di chứng” chiến tranh vẫn còn trên mảnh đất này, và di chứng ấy còn trong tâm trí những người lính ở bên kia bán cầu. Bên cạnh việc hóa giải nỗi đau hiện hữu của chiến tranh, thì hóa giải những uẩn khúc trong lòng người cũng cho thấy nỗ lực phục thiện mà tất cả mọi người bất kể chiến tuyến đều hướng đến. Một buổi trưa đầu tháng 6 năm 2018, có bốn người cựu binh Mỹ tuổi chừng tám mươi tìm về ngôi chùa làng Bồ Bản (xã Triệu Trạch, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị). Trên xe bước xuống, ông Anderson ôm trước ngực một bức tượng Quán Thế Âm Bồ-tát màu trắng, trang nghiêm đi vào chùa. Đại đức Thích Mãn Toàn, người trụ trì ngôi chùa ra tiếp đoàn. Anderson hỏi Đại đức Thích Mãn Toàn đây có phải chùa Trường Khánh không? Đại đức Thích Mãn Toàn đáp phải, cả vùng chỉ một ngôi chùa này tên Trường Khánh, người dân thường gọi là chùa Bồ Bản. Ông Anderson chưa dám tin lời vị sư trụ trì mà v
09/08/2018(Xem: 7480)
Giải Thoát Khỏi Sự Sợ Chết, His Holiness Dalai Lama, Jefrey Hopkins, Toàn Không
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]