Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Làm Mới Thân Tâm

28/07/201707:31(Xem: 4419)
Làm Mới Thân Tâm

Duc The Ton 11

LÀM MỚI THÂN TÂM

 

HT Thích Thái Hòa giảng

tại chùa Từ Đàm, Birmingham, UK

vào chiều ngày rằm tháng 6 năm Đinh Dậu

(7-7-2017)

 

Thưa Thượng tọa Trụ trì, Thượng tọa Tâm Hiền cùng tất cả Phật tử quý mến. Hôm nay là ngày 7 tháng 7 năm 2017, tại chùa Từ Đàm thành phố Birmingham, vương quốc Anh. Tôi có duyên được gặp hai Thượng tọa và các nam nữ Phật tử hiện diện trong ngôi chùa ấm cúng, đạo vị này. Nhân đây, tôi xin chia sẻ pháp thoại đến quý vị với đề tài Làm Mới Thân Tâm.

Thưa quý vị, tôi rất vui khi thấy Thượng tọa Phước Huệ, Thượng tọa Tâm Hiền –  chư tăng chùa Từ Đàm –  và Phật tử cùng chung nhau tu học, hộ trì Tam bảo và hoằng pháp nơi xứ người. Khi nhìn vào ngôi chùa, tôi thấy được công lao, sự chịu khó chịu nhọc của chư Thượng tọa cũng như sự nhiệt tâm nhiệt tình hộ đạo của các Phật tử nơi đây cho nên chúng ta có ngôi chùa Việt Nam trên xứ sở sương mù này. Nếu bên cạnh chúng ta, hàng xuất gia hay tại gia mà không lập hạnh, không lập nguyện thì ngay một viên gạch, một viên ngói cũng không có, đừng nói gì những viên gạch liên kết với nhau thành bức tường của ngôi già lam. Từng viên ngói gạch liên kết với nhau trở thành mái chùa che chở hồn dân tộc, nếp sống muôn đời của Tổ tông.

Nhìn vào từng viên đá, từng viên gạch, từng viên ngói, từng chi tiết trong ngôi chùa này, chúng tôi nhận ra những điều rất sâu sắc. Tất cả chúng ta được ngồi đây là ngồi từ tâm nguyện bồ đề, từ hạnh nguyện bồ đề. Từ chí nguyện làm cho Phật pháp trường tồn để báo đáp ân đức của Tam bảo, ân đức của thầy tổ, ân đức của cha mẹ, tổ tiên ông bà nội ngoại, giang sơn tổ quốc của chúng ta và ơn đức của mọi người, của muôn loài đối với đời sống của chúng ta.

Cho nên hôm nay chúng tôi tặng quý vị một thời pháp thoại “Làm mới thân tâm”.

Thưa quý vị “Làm mới thân tâm” là cách dịch mang tính hiện đại nơi ý nghĩa của việc sám hối. Sám hối tức là làm mới thân tâm của mình, làm cho thân tâm mình mới từ cái cũ, hoàn thiện cái mới từ cái cũ. Sám hối là những con người cầu thiện. Sám hối là những người ý thức được những sai lầm của mình mà khởi tâm sám hối. Từ đó chừa bỏ những lỗi lầm trong quá khứ, làm mới lại thân và tâm của mình trong hiện tại và tiếp tục nuôi dưỡng cho nó thành quả tốt đẹp cao quý trong tương lai.

Làm mới như vậy không phải người thường mà làm được. Có hai hạng người mà trong kinh, đức Phật cũng như các bậc Thánh Hiền hiện tại nói đến: Hạng thứ nhất sợ tội lỗi không làm. Hạng thứ hai là sau khi phạm tội rồi, biết ăn năn, chừa bỏ, phát lồ cầu xin sám hối để chuyển hóa những lầm lỗi trong quá khứ và tiến những bước vững chãi đến hạnh phúc, an lạc trong tương lai. Chỉ có hai hạng người đó là đủ khả năng làm mới thân tâm mình mỗi ngày.

Thưa quý vị, trong mười hạnh nguyện của Bồ tát Phổ Hiền có hạnh nguyện thứ tư là luôn luôn sám hối. Cho nên hễ ai biết sám hối, người đó có hai chất liệu tàm và qúy, tức là hỗ thẹn với chính mình mỗi khi mình phạm vào những lầm lỗi và hỗ thẹn với những người chung quanh mỗi khi mình phạm vào những lầm lỗi. Lầm lỗi từ những hành động thuộc thân của mình, lầm lỗi trên lời nói thuộc về khẩu và lầm lỗi ngay những ý nghĩ của mình. Tác ý liên hệ đến phiền não và vô minh, cho nên chúng ta phải làm mới thân tâm chúng ta mỗi ngày để phiền não trong tâm rơi rụng. Chúng ta phải làm mới lời nói của chúng ta mỗi ngày để cho những sai lầm nơi lời nói của chúng ta rơi rụng. Chúng ta phải làm mới tâm ý chúng ta mỗi ngày để cho phiền não rơi rụng khỏi tâm thức chúng ta. Đó là ba việc chúng ta phải làm mới mỗi ngày.


HT Thai Hoa_Chua Tu Dam-2 (2)HT Thai Hoa_Chua Tu Dam-2 (1)


Ngài Phổ Hiền ý thức được điều đó. Nếu chúng ta tu tập mà không sám hối nghiệp chướng của chúng ta từ hiện tại đến quá khứ thì những nghiệp chướng đó làm trở ngại con đường tu tập của chúng ta, cho nên chúng ta phải sám hối cho tất cả những chướng ngại thuộc về nghiệp, những chướng ngại thuộc về quả báo, những chướng ngại thuộc về phiền não. Khi những chướng ngại thuộc về oán đối của chúng ta và chúng sinh được tiêu trừ sạch thì chúng ta mới thực hiện được pháp quy y Phật, pháp quy y Pháp, pháp quy y Tăng một cách trọn vẹn. Mới có khả năng giữ gìn được giới pháp và thọ trì từ ngũ giới, thập thiện giới, Bồ tát giới, hay Tỳ kheo, Tỳ kheo ni giới một cách trọn vẹn.

Chúng ta thành tựu ba pháp quy y Phật, quy y Pháp, quy Tăng hay không là do sự sám hối của chúng ta mỗi ngày. Vì nghiệp chướng của chúng ta làm cho chúng ta bị chướng ngại. Làm chướng ngại chúng ta đi tới Phật, làm chướng ngại chúng ta đi tới Pháp, làm chướng ngại chúng ta đi tới Tăng, làm chướng ngại chúng ta đi tới những thiện pháp an lạc. Do đó chúng ta phải sám hối để nghiệp chướng chúng ta được tiêu trừ, báo chướng của chúng ta được tiêu trừ, phiền não chướng trong tâm chúng ta và oán chướng trong đời sống chúng ta giảm xuống, hay oán đối của lục đạo chúng sanh với chúng ta giảm xuống. Nhờ vậy, chúng ta có cơ hội đi tới tự tâm thanh tịnh của chúng ta là tự quy y Phật, tự quy y Pháp, tự quy y Tăng để tâm chúng ta luôn ở trong trạng thái an định của giới pháp.

Thưa quý vị, vậy thì giữa đời này có bao nhiêu hạng người làm mới thân tâm?

Có bốn hạng: Hạng thứ nhất. Có người làm mới thân mà không làm mới tâm, cho nên thân sám hối mà tâm không sám hối. Thân lạy Phật mà tâm vắng mặt trong khi lạy Phật. Cho nên thân làm mới mà tâm không làm mới.

Trường hợp thứ hai, có vị tâm làm mới mà thân không làm mới. Có nghĩa là tâm thì lạy Phật và sám hối mà thân không cùng thực hiện theo tâm của mình. Cho nên tâm làm mới mà thân không làm mới.

Trường hợp thứ ba, thân làm mới và tâm cũng làm mới. Thân thì lạy Phật chí thành chí thiết và tâm cũng tha thiết và nhất như với thân của mình. Đồng hành với thân của mình để lạy Phật. Thân làm gì thì tâm có mặt trong từng động tác đó của thân. Ngay lúc đó thân tâm nhất như.

Trường hợp thứ tư, thân không làm mới và tâm cũng không làm mới. Nghĩa là thân đầy bụi bặm dơ bẩn, tâm đầy phiền não. Do đó đối với người thân không làm mới tâm cũng không làm mới, người đó rất dại, họ đi từ bóng đêm này đến bóng đêm khác trong cuộc sống, họ từ khổ đau này tới khổ đau khác trong cuộc sống. Còn người làm mới cả thân và tâm có nghĩa là thân tâm nhất như cung kính lễ. Hạng người đó từ nơi ánh sáng hữu hạn vươn tới ánh sáng vô cùng. Họ từ nơi phước báo cõi người vượt lên phước báo cõi trời. Từ nơi phước báo cõi trời tiến lên phước báo của hàng Thanh văn. Từ phước báo của hàng Thanh văn tiến lên phước báo của hàng Duyên giác. Từ phước báo của Duyên giác họ tiến tới phước báo của Bồ tát. Từ phước báo của Bồ tát họ tiến tới phước báo của chư Phật. Đó là người sám hối cả thân và tâm. Không những đem thân lạy Phật mà còn đem tâm lạy Phật. Không những đem thân sám hối mà còn đem tâm sám hối. Và thân tâm luôn luôn có mặt trong nhau, nương nhau sám hối. Sám hối như vậy không có tội nào không tiêu, không lỗi nào không trừ, không có nghiệp nào không chuyển hóa.

Đem thân sám hối làm mới nhưng tâm chưa sám hối chưa làm mới, phước báo đến với mình chỉ được 50%. Đem tâm sám hối, làm mới nhưng thân không sám hối không làm mới, phước báo cũng chỉ được 50%. Còn thân và tâm đều sám hối, đều làm mới thì phước báo đến 100%. Tức là từ sự thăng hoa này đi tới sự thăng hoa khác, từ ánh sáng hữu hạn đi tới ánh sáng vô hạn. Từ ánh sáng hữu lượng đi tới ánh sáng vô lượng. Từ phước báo hữu lậu đi tới phước báo vô lậu. Vậy, trong đạo tràng này, quý vị ưa sám hối loại nào? Chắc chắn ai cũng muốn mình làm mới cả thân và tâm, phải không? Nói thì dễ mà làm thì rất khó.

Trong kinh Địa Tạng nói, chúng sanh trong cõi Diêm Phù Đề này không đâu không rơi vào tội lỗi. Vì mình sống trong phiền não, nghiệp chướng nên mở miệng là sai. Vì sao mở miệng là sai? Vì mình chưa thấy được đạo nên mở miệng là nói theo người đời, nói theo kiểu phàm phu. Người ta nói mình một câu, mình nói lại một câu. Người ta nói mình một câu nặng thì mình nói lại một câu nặng hơn. Đó là theo thói người đời. Đời này làm nhau đau thì đời sau lại gặp nhau làm cho nhau khổ đau. Nếu không thấy đạo thì mình quen cách sống như thế. Sống với cách sống như thế thì một ngày trôi qua là một ngày đi vào bóng đêm của cuộc sống, của tội lỗi của khổ đau. Quý vị nhớ không?

Còn mình thấy được đạo, mình tu đạo, thì mỗi ngày đi qua mình sám hối, mình tụng kinh, mình niệm Phật, mình lạy Phật, mình trì chú, mình ngồi thiền, mình làm những công việc lợi ích hữu sự. Đối với cha mẹ sống hiếu đạo, đối với bạn bè sống chân thành, đối với vợ chồng sống chung tình. Sống như vậy mỗi ngày tội lỗi vơi dần, vơi dần trong đời sống của mình và phước đức của mình tăng thêm.

Ở nơi xứ sở Sương mù này không chỉ có người Việt chúng ta mới vất vả, người bản xứ ở đây cũng vất vả. Vất vả, vì nền văn minh vật chất hiện đại mà con người chạy theo máy móc. Vì chạy đua theo máy móc mà con người không phải là máy móc. Con người vẫn là con người. Vì vậy, con người trở nên bận rộn, vì thành quả con người mang lại chẳng bao nhiêu so với máy móc.

Người bản xứ còn vất vả như thế huống chi là người Việt Nam chúng ta trên xứ sở này. Cho nên người bản xứ làm việc 1%, người Việt chúng ta phải làm hơn rất nhiều lần so với người bản xứ mới thích ứng, mới duy trì được.

Mỗi nửa tháng các vị có dịp đến chùa Từ Đàm để lạy sám hối, học pháp, thăm thầy, để hộ trì chư tăng. Quý vị thấy mình có phước đức không, có may mắn không? May mắn lắm chứ. Dễ gì ngồi đây. Nhưng nơi thành phố Bermingham này có bao nhiêu người Việt và có bao nhiêu người ngồi nơi đạo tràng này sám hối?

Sáu ngàn người Việt mà chỉ có ba mươi người ngồi ở đây. Quý vị thấy mình có may mắn không? Như vậy thì ba mươi người gánh thế cho sáu ngàn người, lạy thế cho sáu ngàn người, tu thế cho sáu ngàn người đồng hương của mình. Chưa nói tới tu thế, lạy thế cho bao nhiêu sắc dân trên xứ sở Sương mù này. Vì sao? Vì một người tu mà hai người kế bên không tu là đã khó rồi. Gia đình mà cha mẹ tu, con không tu, gia đình đó có mệt không? Vợ biết tu mà chồng không biết tu, cặp vợ chồng đó có mệt không? Chồng biết tu, vợ không biết tu, cặp vợ chồng đó có mệt không? Hạnh phúc gia đình bị đe dọa. Cha mẹ biết tu, con cái không biết tu, hạnh phúc gia đình có bị đe dọa không? Bạn bè với nhau, người này biết tu, người kia không biết tu, tình bạn cũng bị đe dọa.

Cái may mắn của quý vị là ba mươi người trên sáu ngàn người Việt, đó là mình nói trên tình đồng hương. Chớ ba mươi người so với lượng người trong thành phố Bermingham thì quá ít ỏi. Cho nên quý vị đến đây lạy Phật không chỉ lạy cho riêng mình, mà còn phải lạy cho sáu ngàn người Việt đang có mặt ở đây dù họ không theo đạo Phật, họ không biết gì về nhân quả nghiệp báo, nhưng mình thay họ mà lạy, thay họ mà tu, thay họ sám hối.

Mình tu mà người chung quanh không tu mình cũng phiền lắm chứ. Họ gây phiền não cho mình, mình tức, nói bậy với họ, rồi sám hối. Sám hối xong rồi gặp nghịch cảnh lại tức giận nữa, chạy về sám hối. Rồi gặp nhau lại tức giận nữa, nói bậy nữa, tới chùa sám hối nữa. Cho nên thân mới rồi cũ lại. Tâm vừa sám hối xong thành mới, gặp chuyện bất như ý nổi phiền não lên thì cũ lại. Cho nên ba mươi người tới đây sám hối cho mình là đương nhiên rồi và thay mặt cho những người không có mặt ở đây mình cũng phải sám hối luôn cho họ, khởi tâm từ bi thương họ, luôn mở tâm thương yêu bình đẳng.

Sám hối mà thành tựu cả thân mới và tâm mới rất khó, nhưng không phải khó rồi không làm. Phải làm chứ. Tu khó mà không tu thì sao? Chẳng lẽ mình đi trong bóng đêm hoài sao? Có ai muốn sống trong bóng đêm hoài không? Ai cũng muốn từ bóng đêm bước ra ánh sáng. Cho nên mình không những sám hối cho mình mà còn sám hối cho những người thân yêu của mình, rồi sám hối cho dân tộc mình đang thọ ơn, để cho tâm thức của mình luôn luôn ở trong sự thanh tịnh, ở trong sự biết ơn, ở trong tình thương, trong trí tuệ, để từ đó đối với nghịch cảnh tâm mình không khởi lên sự oán thù, không khởi lên phiền não. Miệng mình không nói theo cách của phiền não, thân mình không hành động theo cách của phiền não. Cho nên mỗi ngày chúng ta phải sám hối để làm mới thân tâm của chúng ta. Và muốn sám hối như vậy có kết quả thì chúng ta phải làm gì?

Chúng ta học theo hạnh của đức Phật Tỳ Bà Thi.

Hạnh của đức Phật Tỳ Bà Thi là hạnh nhẫn nhục. Phải kham nhẫn với những nhu cầu trong tâm mình, phải kham nhẫn với những nhu cầu của thân mình. Phải kham nhẫn với những pháp đã thọ và hành trì. Và kham nhẫn với hoàn cảnh mình đang sống. Kham nhẫn để sám hối mỗi ngày. Có khi sám hối bằng cách thiết bàn thờ Phật để lạy. Có khi mình sám hối trước bàn thờ Tam bảo của mình. Có khi sám hối trước chư Tăng. Có khi sám hối trước một vị Tăng. Có khi tự sám hối với thân tâm của mình. Có rất nhiều phương pháp sám hối để làm mới thân tâm của chúng ta. Điều kiện thuận lợi cách nào thì chúng ta thể hiện cách sám hối của chúng ta ở cách đó. Có như vậy tội lỗi chúng ta tạo ra tiêu liền. Còn đợi đến nửa tháng mới sám hối một lần thì tội chồng chất lên. Có người đôi khi cả tháng mới tới chùa sám hối. Có người ba tháng. Có người một năm. Có người ba bốn năm mới tới chùa. Cho nên mình phải sám hối mỗi ngày. Mình phải luôn luôn ở trong tỉnh giác, ở trong chánh niệm hễ sai đi tiêu chuẩn mà mình đã quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng và giữ giới rồi thì phải kéo tâm mình trở lại và sám hối với tâm mình ngay. Do đó phải kham nhẫn. Kham nhẫn nhìn vào nơi thân mình, kham nhẫn nhìn vào nơi tâm mình, kham nhẫn với hoàn cảnh chung quanh, kham nhẫn với pháp môn hành trì của mình.

Lạy Phật không phải dễ đâu. Lạy Phật khó lắm. Niệm Phật lại càng khó hơn, không dễ đâu. Tôi có một nữ phật tử thích đi chùa lạy Phật, chồng cô thì thích đánh bài tứ sắc. Cô muốn chồng cùng đi chùa với mình nhưng ông không nghe chỉ muốn đánh bài ăn tiền thôi. Bà rất thương chồng, muốn đưa chồng từ nơi bóng đêm ra ánh sáng. Bà đến sòng bài đưa tiền cho người chủ, dặn hễ ông thua thì bắt ông niệm mười danh hiệu Phật A Di Đà, ông không mất tiền, còn ông ăn thì chồng tiền đủ cho ông. Một thời gian sau, bà đã cảm hóa được ông chồng, ông cũng tới chùa quy y, lạy Phật, sám hối.

Quý vị thấy người đàn bà như vậy dễ thương không? Bà làm được như vậy là do kham nhẫn. Cái kham nhẫn trí tuệ. Không dùng cách này thì dùng cách khác, nghĩa là thuận theo sở thích của chồng mà chuyển hóa. Và có một phương pháp thay thế cao hơn, hiệu quả hơn để giúp chồng chuyển hóa. Nhờ vậy mới chuyển hóa được chồng, khiến chồng cũng đi chùa, cũng sám hối, cũng hộ trì Tam bảo.

Còn mình tới chùa sám hối thấy mình thanh tịnh, về nhà thấy chồng say xỉn, nói những lời không dễ thương, mình quát lại. Ông đang không dễ thương mà nghe những lời không dễ thương thì ông lại càng không dễ thương hơn nữa. Ông bực bội nói lại những lời không dễ thương với mình, mình trả lại những lời không dễ thương với ông. Cuối cùng mình cũng như ông, ông cũng như mình. Bao nhiêu công lao sám hối của mình đổ xuống sông xuống biển hết. Quý vị thấy có phải vậy không?

Cho nên sám hối rồi phải kham nhẫn để nuôi dưỡng pháp sám hối đó trong đời sống hằng ngày của mình. Mà pháp hành của Phật Tỳ Bà Thi là pháp hành kham nhẫn. Kham nhẫn để tu, kham nhẫn để hóa độ chúng sinh, kham nhẫn để lạy Phật, kham nhẫn để ngồi thiền. Có đâu ngồi vài ba hôm thấy đau lưng quá rồi bỏ. Không có cái gì cao quý mà không chịu khó mà thành, có phải không? Cái gì càng cao quý thì đòi hỏi sự chịu khó chịu nhọc, sự kiên cường mới thành tựu được. Cho nên chúng ta sám hối là để làm mới thân tâm chúng ta. Phép lạ của sự thành tựu pháp sám hối là kham nhẫn.

Bởi vì sám hối là một cách ngồi thiền, một cách lạy Phật, một cách niệm Phật, một cách tịnh tâm. Cho nên sám hối là một trong những phương pháp làm mới thân tâm của chúng ta. Khi chúng ta đứng trước Tam bảo xướng lên những danh hiệu của chư Phật để sám hối. Tự lực của chúng ta tương ưng với tha lực của các ngài. Các ngài từ bản nguyện đến với chúng ta thì chúng ta cũng từ tự nguyện đi tới với các ngài.

Hai năng lực đó sẽ gặp nhau sẽ hỗ trợ cho nhau không hề thiếu vắng. Phải có sự mới của thân tâm mới thích hợp với bản nguyện của chư Phật, thích hợp với bản nguyện của các vị Bồ tát. Còn chúng ta không nhớ tới nguyện thì bản nguyện có đó cũng như không. Quý vị nhớ nghe!

Bản nguyện của chư Phật và Bồ tát lúc nào cũng sẵn sàng hỗ trợ chúng ta, giúp chúng ta, nhưng chúng ta không có tinh thần tự nguyện thì bản nguyện cũng không giúp được gì. Điều này quý vị phải lưu ý. Chỉ có bản nguyện mà không có tự nguyện thì pháp sám hối của chúng ta cũng không thành. Mà chỉ có tự nguyện, không có bản nguyện thì phàm phu và chư Phật cũng khó gặp. Phàm phu dầu có tự lực cũng khó lắm, nên phải cần cầu tha lực. Cần có bản nguyện của các ngài hỗ trợ cho mình. Muốn có tự nguyện phải có kham nhẫn. Không kham nhẫn thì khó lắm, phải không? Cái tiêu biểu cho chúng ta làm mới thân tâm mỗi ngày là kham nhẫn. Nhờ kham nhẫn mà chúng ta tu tập thành công.

Lạy Phật khó lắm, nhưng nhờ kham nhẫn mỗi ngày, đến khi lạy thuần thục chúng ta có hỷ và lạc trong khi lạy mỗi ngày. Và ngày nào chúng ta không lạy Phật, không sám hối, chúng ta thấy thiếu một cái gì đó rất cao quý trong đời sống chúng ta, thiếu đi ý nghĩa của cuộc sống trong đời sống chúng ta.

Lạy đức Phật Tỳ Bà Thi để học đức kham nhẫn của ngài, biến hạnh kham nhẫn của ngài thành hạnh kham nhẫn của mình trong đời sống hằng ngày của mình để sám hối những tội chướng, nghiệp chướng, báo chướng, phiền não chướng của chúng ta được tiêu trừ. Như vậy chúng ta mới tiến bước một cách thảnh thơi, trọn vẹn trên con đường chúng ta chọn lựa đến với Phật pháp và tu tập.

Đức Phật thứ hai chúng ta thường lạy là đức Phật Thi Khí. Ngài có hạnh Tuệ giác. Ngài dạy chúng ta giữ giới để tránh những xấu ác trong đời. Ngài Thi Khí nhờ nhập vào thiền định, dứt tất cả phiền não trong thiền định. Nhờ đó ngài biết được đi vào định từ nơi giới thì định đó có khả năng nhiếp phục được phiền não trong đời sống chúng ta. Khi phiền não được nhiếp phục thì tuệ giác được sáng ra, chúng ta thấy được con đường sinh tử là con đường bị sinh, bị già, bị bệnh, bị chết, là con đường hiểm nghèo. Con đường đó bị dẫn dắt bởi ái nghiệp của chúng ta, cho nên ngài dạy chúng ta hễ sám hối thì tâm phải luôn luôn ở trong thiền định. Từ thiền định mà nhiếp phục được ái nghiệp. Do nhiếp phục được ái nghiệp mà chúng ta tránh được đường hiểm sinh tử. Như vậy muốn sám hối phải giữ giới. Giữ giới thanh tịnh thì sám hối rất có kết quả.

Đừng nghĩ rằng, trong đời sống hiện tại tôi có tội gì đâu mà sám hối. Ai bảo “tôi không có tội” đưa tay lên xem. Còn vô minh là có tội rồi. Còn ăn là có tội rồi. Còn uống là có tội rồi. Còn thở là có tội rồi. Còn mặc quần áo là có tội rồi. Còn có cái nhà che nắng đỡ mưa là có tội rồi. Cơm của ai mình ăn ngon vậy? Mình ăn mà không biết ơn là tội rồi. Ăn mà không xứng đáng với công lao của thực phẩm mình đang ăn là tội rồi. Cho nên còn ăn là còn tội lỗi dù là ăn chay, đừng nói chi đến ăn mặn. Mình có ăn rau sống được không? Phải nấu chín. Rau cũng có sự sống. Khi rau chín rồi có còn sống được không? Cho nên đừng nghĩ ăn chay không có tội. Cho nên mình ăn chay cũng phải ăn trong sự biết ơn, ăn trong sự sám hối.

Khi ăn phải nói “xin tất cả loài thực vật nào tôi ăn vào, xin tất cả thực phẩm nào tôi ăn vào, quý vị ủng hộ tôi tu tập, tôi sám hối quý vị cũng cùng tôi sám hối. Tôi hết tội quý vị cũng hết tội theo tôi. Tôi lạy Phật, quý vị cũng lạy Phật theo tôi”. Có khi nào mình ăn mà nghĩ như vậy không? Không, thì sao không có tội được?

Mình ăn rau ăn quả thì tội theo kiểu ăn rau ăn quả. Ăn thịt cá thì có tội theo ăn thịt cá. Cho nên ăn phải biết ơn những thức ăn đó giúp mình tu, còn mình thì phải sám hối. Do sự tu của mình mà tội được chuyển hóa. Cho nên chuyện sám hối của mình rất hay, sự biết ơn của mình rất hay.

Tuệ giác của đức Phật Thi Khí rất rộng. Tuệ giác của ngài từ nơi thiền định. Thiền định của ngài từ việc học và hành giới sinh ra.

Chất liệu thứ nhất là kham nhẫn của đức Phật Tỳ Bà Thi, chất liệu thứ hai là tuệ giác của đức Phật Thi Khí, chất liệu thứ ba là của đức Phật Tỳ Xá Phù.

Đức Phật Tỳ Xá Phù dạy tâm mình đừng bao giờ ganh tỵ người khác khi thấy người khác hơn mình mà phải giữ tâm mình thanh tịnh, đừng khởi lên ham muốn. Khi mình sám hối mà tâm mình còn khởi lên sự ganh tỵ, tật đố, ghen ghét người khác thì rõ ràng mình chỉ sám hối ở thân mà tâm chưa làm mới được. Cho nên mình phải làm mới cả thân và tâm.

Thân lạy Phật, tâm thanh tịnh, không khởi lên tất cả chủng tử ganh tỵ người khác, tật đố người khác, vui thích khi thấy người khác thua mình, ghét người khác khi thấy người khác hơn mình. Thấy người khác tu thua mình, mình khinh họ, thấy người khác tu hơn mình, mình ganh tỵ với họ. Như vậy rõ ràng mình chỉ sám hối thân, còn tâm cũng không có gì mới, phải không?

Sám hối rồi, nhìn lại tâm mình, nếu thấy ai tu thua mình cũng không khởi tâm khinh thường họ, nếu thấy ai tu hơn mình, mình tùy hỷ sung sướng, không khởi tâm ganh tỵ. Thấy ai hạnh phúc hơn mình, mình khởi tâm hoan hỷ; thấy ai khổ đau, mình không đem tâm coi thường người ta. Sám hối như vậy là sám hối cả thân và tâm. Sám hối như vậy là làm mới thân tâm.

Đến đức Phật Câu Lưu Tôn.

Đức Phật Câu Lưu Tôn dạy muốn tiêu trừ những nghiệp chướng của mình thì phải luôn luôn quán chiếu vào mình xem tu đúng hay tu không đúng. Đừng nhìn xem người khác tu đúng hay tu không đúng. Và luôn luôn nhìn mình xem tu chính chắn hay tu không chính chắn, đừng nhìn người khác. Bởi vì người khác có duyên riêng của họ, có hoàn cảnh riêng của họ. Mình có phải là họ đâu, có trong hoàn cảnh của họ đâu mà nói họ đúng hay không đúng.

Mình còn chưa biết mình một cách chính xác là đúng hay không đúng nữa thì làm gì có thể nhìn người khác mà nói đúng hay không đúng. Cho nên ngài Câu Lưu Tôn dạy mình luôn luôn quán chiếu lại mình xem đúng hay không đúng, chính hay không chính, đã sám hối tội lỗi hay chưa sám hối tội lỗi, chứ đừng nhìn lỗi người khác.

Cách tu như vậy rất thực tế và rất dễ thực hành. Mình luôn luôn thấy được mình qua tâm của mình. Thấy mình ngày hôm nay có tiến bộ hơn ngày hôm qua không? Chiều nay tu tập có tiến bộ hơn buổi sáng không? Đi chùa ngày hôm nay có tiến bộ hơn ngày hôm qua không? Luôn luôn nhìn mình. Khi mình nhìn mình như vậy, thấy được mình như vậy, luôn luôn thấy cái dở của mình như vậy thì mình có cơ hội tiến bộ, có cơ hội học hỏi. Còn nhìn sự xấu dở của người khác thì tâm mình sẽ bị lùi bước đi. Cho nên, đức Phật Câu Lưu Tôn dạy mình luôn luôn nhìn tâm mình để thấy mình sám hối được ngang đâu, làm mới được ngang đâu, phần còn lại mình phải nỗ lực, phải tinh cần, phải nuôi dưỡng.

Đến đức Phật Câu Na Hàm Mâu Ni, ngài dạy cho mình nỗ lực tinh cần học hỏi chánh pháp, buông bỏ tâm ái chấp. Tất cả sầu muộn là do niệm ái đem lại. Niệm ái đem lại cho mình nhiều sai lầm về hành động, nhiều sai lầm về miệng nói, nhiều sai lầm về suy nghĩ. Buông bỏ niệm ái thì tâm mình thanh tịnh. Có khi người ta giúp mình vì tình người, vì tình bạn chứ không có ý riêng tư gì với mình, nhưng mình cứ tưởng người kia giúp mình là có ý riêng với mình, rồi mình ôm hình ảnh người đó vào trong lòng. Lâu ngày trở thành ra ái nghiệp và ái niệm khởi sinh.

Ngài Câu Na Hàm dạy chúng ta sám hối và buông bỏ những ái niệm nơi tâm chúng ta, cái tưởng về ái nơi tâm chúng ta. Hãy buông bỏ chấp ngã nơi tâm chúng ta thì sự sám hối của chúng ta mới đem lại cho chúng ta hạnh phúc và an lạc.

Ngài Ca Diếp dạy chúng ta đừng làm các việc ác, hãy làm các việc lành, giữ tâm ý trong sạch.

Đừng làm các việc ác, nên làm các việc lành, đó là giới chúng ta thọ trì. Giữ tâm ý trong sạch đó là thiền định. Mình sám hối, nghiệp chướng không còn, tâm không phiền não thì mới đi vào thiền định được. Nếu mình không sám hối, nghiệp vẫn còn, phiền não vẫn còn, làm sao mà đi vào thiền định được. Ái niệm vẫn còn, làm sao đi vào thiền định? Ngồi thiền mà nhớ người yêu của mình bây giờ ở đâu thì làm sao thiền định được. Cho nên muốn thiền định thành công phải sám hối cho nghiệp ái của mình tiêu đi. Khi ái nghiệp tiêu thì mình đi vào thiền định dễ dàng. Để khám phá ra cái tâm. Rồi từ nơi tâm thanh tịnh, tuệ giác sáng ra, khám phá ra được thọ mạng của mình, nhân duyên của mình từ một đời, hai đời, ba đời, cho đến nhiều đời.

Đến đức Phật Thích Ca Mâu Ni dạy chúng ta làm gì?

Ngài dạy chúng ta khéo phòng hộ lời nói. Lời nói của mình mà do cơn giận thúc đẩy thì sau đó ân hận, phải không? Để cho cái tham thúc đẩy mình nói thì sau đó sẽ ân hận. Cho nên đức Phật Thích Ca Mâu Ni dạy chúng ta phải khéo phòng hộ lời nói. Trước khi nói mình phải suy nghĩ, phải gạn lọc nên nói cái gì và không nên nói cái gì? Nói với ai và không nên nói với ai? Nói ở đâu và không nên nói ở đâu? Nói lúc nào và không nên nói lúc nào. Phải phòng hộ lời nói, và lời nói đó phải từ tâm thanh tịnh.

Thân không làm các điều ác. Miệng không nói dối, không nói hai lưỡi, không nói thêm, không nói lời hoa mỹ. Ý không nghĩ ích kỷ về mình, không nghĩ lợi về mình, không nghĩ xấu cho người. Thân thì không sát, không đạo, không tà hạnh, không dâm dục. Ba nghiệp này thanh tịnh thì chính là con đường mà chư Phật đã đi.

Bảy đức Phật mà quý vị thường lạy để sám hối mỗi ngày đã giúp chúng ta pháp hành, giúp chúng ta thực tập để nuôi dưỡng pháp sám hối của chúng ta mỗi ngày, khiến cho mỗi ngày thân và tâm chúng ta được mới và có mới như vậy chúng ta mới tu. Và càng tu càng mới, càng mới càng tu, càng tu càng mới.

Vua Trần Nhân Tông khi xuất gia, làm vị Điều Ngự Giác Hoàng, đăng pháp tòa khai thị cho đại chúng. Có người hỏi Phật, Pháp, Tăng là gì?

Ngài giải thích: Phật, Pháp, Tăng như trước đó ngài giải thích.

Vị kia nói đó là chuyện cũ.

Ngài Trần Nhân Tông đáp: “Nhất hồi niêm xuất nhất hồi tân”, một lần nêu lên là một lần mới.

Khi mình mới quy y Phật, Pháp, Tăng. Hai mươi năm sau, mình nói con quy Phật, con quy y Pháp, con quy y Tăng. Lời nói vẫn y như hai mươi năm trước, nhưng tâm bây giờ mới. Mới là vì chủng tử Phật, Pháp, Tăng được huân tập thuần chủng trong tâm tâm thức của mình. Khi chủng tử Phật, Pháp, Tăng được thuần trong tâm thức của mình thì mình có cái nhìn mới về chính mình, về người chung quanh mình, về thế giới mà mình đang tiếp xúc.

Ngày hôm nay mình có nói con quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Ngày mai mình cũng nói con quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, nhưng do mình sám hối giỏi, tu tập giỏi, nên câu nói con quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng mới tinh, so với ngày hôm qua. Mới vì tâm mình mới. Tâm mình đã đổi mới, vì tâm mình không còn nghiệp chướng, không còn báo chướng, không còn tội chướng, không còn oán chướng. Cho nên bây giờ mới. Tâm mới như vậy, bây giờ nói con quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng thì không những tội lỗi của mình tiêu trừ mà mình hướng tâm cầu nguyện cho ai thì người đó cũng nương vào tâm mới của mình, nương vào đức hạnh của mình mà họ cũng được chư Phật chứng minh. Quý vị hiểu chưa?

Bồ tát hộ niệm, nhưng chúng ta cũng phải sám hối. Mỗi giờ, mỗi phút, mỗi giây ở trong sự tỉnh giác, ở trong chánh niệm thì công đức sám hối mới đem lại cho mình. Vậy quý vị ưa sám hối từng giây, sám hối từng giờ, sám hối mỗi ngày, hay một tháng mới sám hối? Tùy theo điều kiện và hoàn cảnh của quý vị mà chọn cho mình con đường, rồi tha hồ nhận châu báu theo điều kiện của mình. Nhưng tôi nghĩ, ngày nào quý vị cũng sám hối là hay nhất. Trước khi ăn cơm, ngồi chắp tay lại: con quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Con xin sám hối tất cả nghiệp chướng của con đã tạo ra do sai lầm từ ăn uống. Xin Tam bảo chứng minh cho con. Xin tất cả những thành phần thực phẩm này khi vào thân tôi thì người có công phu lao tác, các loài sinh vật đã chết trong thực phẩm này đều theo tôi mà tu tập mà chuyển hóa. Và tôi chuyển hóa được bao nhiêu, quý vị cũng chuyển hóa được bấy nhiêu. Nuôi dưỡng như vậy mỗi ngày, được không?

Bận rộn gì đến nỗi mình không có thì giờ để ăn? Bận rộn gì đến nỗi mình không có thì giờ để uống? Cứ mỗi lần ăn thì nói “con quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Con xin sám hối tất cả tội lỗi do việc ăn đem lại…” Có làm như vậy được không? Vậy chúng ta ăn bằng quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng; ăn bằng sự sám hối tất cả tội lỗi, nghiệp chướng như vậy, được bao nhiêu công đức con xin hồi hướng cho tất cả chúng sinh đều trọn thành Phật đạo, được không? Thực tập mấy phút trước khi ăn thôi, mà ăn như vậy mới chuyển hóa được nghiệp lực của mình, chuyển hóa được nghiệp báo của mình. Nó biến nghiệp lực trở thành nguyện lực. Nó biến khổ đau trở thành niết bàn, an lạc. Nó chuyển hóa ác hạnh trở thành thiện hạnh trong đời sống của chúng ta.

Cho nên, không phải mỗi tháng đi tới chùa hai lần, mà hễ khi nào sắp xếp được việc nhà là đến chùa để gần gũi chư tăng học hỏi. Không phải khi đau ốm hay nhà có người mất mới đến chùa nhờ thầy cầu an, cầu siêu. Khi đó thầy cũng cầu, nhưng hiệu quả cầu an cầu siêu như vậy không cao, so với sự tu tập mỗi ngày và hộ trì chư tăng mỗi ngày.

Trước khi chấm dứt thời pháp thoại, tôi rất biết ơn Thượng tọa Phước Huệ, Thượng tọa Tâm Hiền là hai Thượng tọa đã kham nhẫn đại diện Tam bảo, kế thừa mạng mạch của chư tôn đức, dựng lên ngôi chùa Từ Đàm tại xứ sở Sương mù này để làm nơi tu học cho quần chúng Phật tử. Đó là điều mà chúng tôi vô cùng cảm kích. Xin cảm ơn quý Thượng toạ và đồng thời cũng tạo duyên cho tinh thần tu học của các Phật tử đang có mặt ở đây và những Phật tử chưa đủ duyên có mặt ở đây, nhưng cũng thường lui tới hộ trì Tam bảo. Xin quý vị tinh tấn hơn nữa, dõng mãnh hơn nữa, thương yêu nhau, quý mến nhau, luôn luôn hỗ trợ cho quý Thượng tọa để cùng nhau tu học. Thầy trò có trong nhau, có mặt bên nhau nơi xứ người. Làm được như vậy, mình mới tạo được phước đức lớn, mới báo đáp được ơn của cha mẹ mình, ơn của Tổ tiên, ơn của giang sơn tổ quốc, ơn ở trong gia đình huyết thống, và ơn của Tổ sư, thầy tổ trong gia đình tâm linh. Sinh ra ở đâu, dù chưa được vào đất Tịnh độ của chư Phật, nhưng trong đời sống, chúng ta cũng có những ưu việt để tu học và phát triển hơn. Mong tất cả quý vị nhớ cho điều này. Và cầu nguyện Tam bảo gia hộ cho Thượng tọa Phước Huệ, Thượng tọa Tâm Hiền, cùng quý vị Phật tử sinh hoạt tại ngôi chùa này có nhiều an lạc, có nhiều hạnh phúc, có nhiều chuyển đổi tâm linh.

Nam mô Thường Tinh Tấn Bồ tát ma-ha tát./.

 

 

 

Sáng hôm sau (08/07/2017), trước khi ra về, Hòa thượng cảm tác một bài thơ để tặng Thượng Tọa Phước Huệ và Thượng tọa Tâm Hiền. Bài thơ tên Vô Ưu:

Mỗi quê hương một cõi mầu

Mỗi quê hương mỗi nhịp cầu ta đi.

Yêu đời, tặng một vầng thi

Gọi mời khách lữ cùng đi về nguồn.

Bễ dâu trả lại linh hồn

Cho mưa và nắng hết hờn dỗi nhau.

Đông tây trên một con tàu,

Bắc nam biển mặn khác nhau chi nào.

Thả hồn giữa cõi trăng sao

Cho mưa và gió cuốn vào cuộc chơi.

Để mây bay tận phương trời,

Cho Vương Anh hát những lời vô ưu./.

 

Các PT London kính ghi tả



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/09/2010(Xem: 8062)
Tronghệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động. Cũngnhư có những trang kinh đức Phật chỉ dạy phương pháp báo đáp ân đức sâudày đối với song thân một cách thiết thực nhất. Có nghĩa là đức Phật đãchỉ bày cách báo ân chơn chánh, hợp đạo lý, có lợi ích trong hiện đời và mai sau...
24/09/2010(Xem: 6885)
Nghèo khó và thịnh vượng là hai điều kiện khác nhau trong số những sự thực của cuộc sống. Bạn, tôi và những người còn lại trong thế giới này rơi vào một trong hai điều kiện ấy. Chúng ta có thể giàu hay nghèo về phương diện của cải vật chất hay phương diện tâm linh. Rõ ràng hai cụm từ này, “nghèo khó” và “thịnh vượng”, có những ngữ nghĩa khác nhau. Trước khi bàn đến những quan điểm của Phật giáo về sự nghèo khó và thịnh vượng, chúng ta cần biết chính xác về ý nghĩa của hai thuật ngữ này.
24/09/2010(Xem: 5420)
Người tham muốn ngủ nghỉ nhiều, thì quá nửa đời mình lẩn quẩn trên chiếc giường, bộ ván; ăn xong lại nghỉ chuyện đi nằm chẳng muốn làm gì hết, khi ngủ xong lại muốn ngủ nữa giống như các loài heo vậy đó, mất cả tự chủ và thể diện của mình. Con người vì không biết rõ thực tướng của vạn vật nên si mê chấp thân tâm làm ngã rồi dẫn đến chiếm hữu, lười biếng, ăn không ngồi rồi. Loài heo vì tham ăn ngon, ngủ kỹ nên mới bị đọa lạc như thế, tối ngày chỉ biết ăn rồi ngủ, ngủ dậy rồi ăn, chẳng biết làm gì.
23/09/2010(Xem: 9733)
Nghi lễ sẽ tạo thành không khí lễ nghĩa, làm cho con người có tập quán đạo đức hướng về điều tốt điều phải một cách tự nhiên. Ở chỗ có mồ mả thì có cái không khí bi ai...
22/09/2010(Xem: 11061)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ.Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn làđức Bồ tát Quan Thế Âm, hay Mẹ hiền Quan Âm. Vì vị Bồ tát này có đầy đủ phẩmchất của một người mẹ trong tất cả những người mẹ. Hình như trong mọi trái timcủa những người con Phật thuần thành nhất là giới Phật tử bình dân không ai làkhông không có hình ảnh đáng tôn kính của vị Bồ tát giàu lòng bi mẫn này...
22/09/2010(Xem: 9445)
Cuộchành trình miên viễn của kiếp sống trầm luân sáu nẻo luân hồi đã thôithúc rất nhiều người đi tìm những phương pháp để thoát ly khổ não. Hạnh phúc và khổ đau là hai thực trạng của cuộc sống mà con người luôn đề cập tới. Nhưng để biết được hạnh phúc là gì thì con người phải trực nhận ra được bản chất của khổ đau như thế nào rồi mới bàn tới phương pháp giải quyết khổ đau... Sau khi nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên, đức Phật dùng tri kiến thanh tịnh quan sát khắp cả thế giới. Bằng tuệ nhãn, Ngài thấy chúng sanh có nhiều căn tánh bất đồng...
22/09/2010(Xem: 10143)
Ngàynay,lễ Tự tứ không còn đơn thuần mang dấu ấn lớn dành cho chư Tăngtrong giới thiền môn sau ba tháng An cư kiết hạ hàng năm, mà nó đã thựcsự tác động mạnh vào đời sống đạo đức xã hội trong việc xây dựng nếpsống an lạc, hạnh phúc cho con người. Bởi vì, suy cho cùng thì giá trịcủa lễ Tự tứ là sự thể hiện việc quyết định nỗ lực hoàn thiện nhâncách, thăng chứng tâm linh và khai mở trí tuệ đối với mỗi cá nhân conngười trong cuộc sống vốn biến động không ngừng... Nguyên tắc của Tự tứ là phải thanh tịnh hòa hợp, do đó mọi hành giả trong buổi lễ này đều khởi lòng tự tín với chính mình và các vị đồng phạm hạnh khác.
22/09/2010(Xem: 8626)
Trongtấtcả mọi giá trị có mặt ở đời, thì giá trị giải thoát khổ đau làtối thượng nhất, mọi giá trị khác nếu có mặt thì cũng xoay xung quanhtrục giá trị thật này. Vu lan là ngày lễ khiến mỗi người, dù xuất giahay tại gia đều hướng tâm nguyện cầu, thực thi hạnh nguyện giải thoát.Từ điểm nhìn này, thông điệp giải thoát của lễ Vu lan đem lại có nhữngý nghĩa, giá trị cao quý mà ngày nay mọi người thường hay tâm niệm đến... Giá trị giải thoát đầu tiên cần đề cập đến là từ khi đạo Phật được thể nhập vào đời sống văn hóa nước ta thì lễ Vu lan của đạo Phật trở thành lễ hội truyền thống...
22/09/2010(Xem: 5448)
Bất cứ một việc làm gì, khi nhìn kết quả của sự việc, ta sẽ biết nguyên nhơn của việc ấy và ngược lại, nếu muốn biết kết quả của một việc xảy ra cho được tốt đẹp...
21/09/2010(Xem: 6270)
Gần đây, do có nhiều hình ảnh về Mạn Đà La chụp được trong các cuộc lễ cungnghinh Phật Ngọc cầu nguyện hòa bình thế giới tại các chùa ở hải ngoại và được đăng trên một số trang mạng điện tử toàn cầu, cũng như được phổ biến qua thư điện tử, có vị đã viết bài chỉ trích cho rằng đó là “hiện tượng mê tín không nên truyền bá,” đã làm một số Phật tử hoang mang không biết đâu là thật đâu là giả.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567