Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Câu Chuyện Bác sĩ Rajiv Parti và Địa Ngục

08/05/201722:33(Xem: 10752)
Câu Chuyện Bác sĩ Rajiv Parti và Địa Ngục
 
Câu Chuyện Bác sĩ Rajiv Parti và Địa Ngục
Bác sĩ Rajiv Parti
Một bác sĩ Ấn Độ tại California nói rằng ông đã chứng kiến địa ngục, đồng thời nghe tiếng kêu gào của những vong linh bị đọa đày ngay trong cuộc giải phẫu chính mình.
Là một người khoa học, bác sĩ Rajiv Parti, một trưởng khoa hôn mê tại bệnh viện Bakerfield Heart California trải nghiệm thần thức xuất khỏi thân thể trong cuộc phẫu thuật của chính mình. Sau đó, ông bỏ nghề bác sĩ, bán hết tài sản kể cả căn nhà sang trọng và hàng loạt xe hơi giá trị để sống một cuộc sống thanh đạm và đạo hạnh.
Ông kể lại rằng khi ông cảm nhận thần thức xuất ra, ông cảm giác sợ hãi và không biết điều gì sẽ xảy ra, không biết mình có tỉnh lại hay sẽ trở thành hồn ma vất vưởng trong vô định. Ông nhớ mình bay lên trần nhà trong lúc các y bác sĩ đang thực thiện khoa phẫu thuật và tự hỏi là mình còn sống hay đã chết rồi. Ông cảm tưởng mình như một phi hành gia đang cởi bỏ bộ y phục, một bộ quần áo mà coi như không cần thiết ngay từ đầu.
Nỗi sợ hãi dâng cao, ông quan sát đi quan sát lại toàn cảnh cho đến khi tất cả mờ n hạt như bóng hoàng hôn chợt sụp lặn. Mọi thứ trở nên đen tối. Ông thở phào và tưởng mình tỉnh lại nhưng sau đó nỗi kinh hãi. Ông nghe nhiều tiếng kêu gào đau đớn thảm thiết và ông bị cuốn sâu vào lòng chảo lữa và mũi đầy khói cùng mùi khét cháy của da thịt.  Ông biết là mình đang vào vào cửa địa ngục, cố bỏ chạy nhưng mỗi bước lùi lại là có một lực vô hình đẩy ông về phía trước. Rồi ông bị kéo lê đến một chảo lửa giữa tiếng kêu gào đau đớn.   Ông nghe một giọng khiển trách trong thần giao cách cảm rằng ông đã sống một cuộc sống đầy vật chất và ích kỷ. Biết điều đó là đúng, ông cảm thấy hổ thẹn vì trong quá khứ ông đã tỏ ra vô cảm với bệnh nhân mình. Giọng nói nhắc ông lại việc ông đã đuổi một người đàn bà đang trong đau khổ khóc lóc về căn bệnh ung thư giai đoạn cuối của chồng mình tại phòng khám. Khi khói cuồn cuội mịt mù, những vong linh bị đốt kêu thét quanh mình, lúc đó ông nghĩ đến của cải ông đang có và sự vô giá trị của nó. Ông tự hỏi tại sao phải cần những thứ đó, sao phải cần một căn nhà rộng mênh mông mà cả gia đình phải liên lạc nhau bằng điện thoại cầm tay (Iphones)
Trong cuốn sách mới, bác sĩ Rajiv Parti mô tả mình bị chẩn đoán với căn bệnh ung thư tiền liệt tuyến vào năm 2008 và phải chịu nhiều cuộc phẫu thuật sau đó để cắt bỏ khối u. Hai tuần sau cuộc phẫu thuật chỉnh vết sẹo không thành công năm 2010, ông trở bệnh và nhận ra các triệu chứng trong mình là bị sốc nhiễm khuẩn và sẽ chết nếu không điều trị ngay lập tức. Sau khi được tức tốc đưa lên bàn phẫu thuật, ông nhớ rằng mình được bác sĩ gây mê, điều mà ông thường thực hiện cho cả hàng ngàn bệnh nhân.
Bác sĩ Parti cầu ơn trên cơ hội chuộc lỗi lầm trong tuyệt vọng lúc bị kéo đến xử tội. Dường như lời cầu nguyện của ông có hiệu nghiệm và một người đàn ông mà ông nhận ra từ xa là cha mình cầm tay ông dẫn ra khỏi vùng hoả thiêu. Lần đầu tiên ông cảm nhận cha mình, người mà khi còn sống được cho là khắt khe và độc tài, ôm ông vào lòng và nói rằng chỉ có tình thương là điều quan trọng trong vũ trụ này. Sau khi gặp cha mình, ông vẫn chưa tin cho đến khi gặp hai thiên sứ Michael và Rapheal.  Họ bế ông đến một vùng ánh sáng nơi mà ông được một chúng sanh A Tu La đón nhận và cho ông biết rằng ông sinh ra để làm một người an ủi tinh thần cho những kẻ khác.
Trước đó, ông không để ý việc bệnh nhân kể lại về việc xuất hồn và quan sát cuộc phẫu thuật của chính họ mặc dù họ không nhớ rõ là vào lúc nào nhưng nó xảy ra vào lúc mà đáng lẽ họ hoàn toàn hôn mê. Nhưng bây giờ, trong khi các bác sĩ cố gắng đoạt lại mạng sống cho ông, bác sĩ Parti cảm nhận mình đang lơ lửng trên trần nhà và nhìn xuống bàn mỗ quan sát những phẫu thuật mà ông thường làm. Ông nghe được những câu đùa giỡn xàm tấu của vị bác sĩ gây mê và thấy được cảnh mẹ và em gái mình đang bàn về phải nấu món gì cho buổi cơm chiều ở Ấn Độ.
Sau khi tỉnh lại trong bệnh viện, bác sĩ Parti kể cho đồng nghiệp về trải nghiệm của mình, điều mà ông đoán là họ không quan tâm lắm. Ông đã viết một cuốn sách về sự hiện thân mới được gọi là “Dying to Wake Up: A Doctor’s Voyage into the Afterlife and the Wisdom He Brought Back” [1].
blank
Hình bìa sách của bác sĩ Rajiv Parti
Trước cuộc trải nghiệm tâm linh, bác sĩ Parti là người vô thần và không tin vào thế giới bên kia sau khi chết. Bây giờ, ông là một người an ủi tinh thần và đoạn từ cuộc sống vật chất đầy ích kỷ trước đây. Ông nói rằng mệnh lệnh của bề trên vẫn như in trong đầu mình và ông dùng Chánh pháp để giúp những kẻ khổ đau khác. Đây là bảy chân lý mà bác sĩ Parti tin sau trải nghiệm tâm linh và ông lấy sự hiểu biết đó làm sứ mệnh giúp truyền đạt đến người khác:
  1.  Thần thức tồn tại riêng biệt với thân thể
  2. Thế giới vô hình là có thật
  3.  Nghiệp quả trong tiền kiếp ảnh hưởng đến kiếp hiện tại
  4.  Tất cả chúng sinh liên lệ với nhau vì có cùng nguồn năng lượng nhưng cấu tạo bởi nhiều hình thức vật chất khác nhau
  5.  Có Chư thiên giúp đỡ và dẫn dắt chúng ta
  6. Có nhiều cảnh giới tỉnh thức khác nhau
  7. Từ bi và trí tuệ là nguồn của vũ trụ, trong đó từ bi là điều tất yếu để sinh ra muôn loài.
Sức mạnh tâm linh, sự tỉnh thức đã khiến bác sĩ Parti, một vị bác sĩ thành đạt từ bỏ hào quang vật chất ông đang có để chọn một cuộc sống thanh đạm và đạo hạnh. [2]  Trải nghiệm tâm linh vô giá đó khiến ông tỉnh thức và chọn một hướng rẽ mới trong cuộc đời.  Khái niệm  cõi vô hình hay địa ngục không còn là điều mơ hồ đối với tôi vì tôi từng có nhân duyên nói chuyện với người quen bên kia thế giới sau khi anh trở về “mượn xác” người thân của tôi. Thú thật trước đây mặc dù tôi tin vào những nguyên lý sâu sa của đạo Phật nhưng vì tôi trưởng thành bên Mỹ và có chút ảnh hưởng bởi lối suy nghĩ nặng tính khoc học nên đôi khi tôi nghĩ sự trừng phạt ở địa ngục mà kinh điển ghi nhận là cố ý răn đe người cõi trần để bớt gây tội lỗi cho đến khi tiếp xúc với người quen ở bên kia thế giới cách đây vài tháng.
blank
Hình minh họa nhiều sự trừng phạt ở địa ngục
Những điều anh cho biết giống như những điều tôi từng đọc qua trong các kinh điển Phật giáo.  Điều đầu tiên sau khi “nhập xác” là than khát nước. Anh mô tả cảnh bị nhốt trong “lồng sắt” và bị đốt nóng.   Đốt nóng nhưng mỗi ngày được cho nghe kinh. Lâu lâu, “cai ngục” thả ra cho “đi chơi”.  “Đi chơi” là đi thăm những vong linh mới xuống (chết).  Những người mới xuống (chết) phải chờ đến lượt “hỏi cung”.  Hỏi là  hỏi coi vong linh có nhớ những điều mình làm mà kể lại nhưng thật ra cõi âm có “sổ sách” ghi lại phước và tội của tất cả những kẻ còn sống trên cõi trần. Chúng ta có thể không thật với chính mình, với người thân, nhưng chắc chắn là không thể qua “sổ bạ” cõi âm.
blank
Hình minh họa về cảnh hỏi tội ở địa ngục
Mặc dù những vong linh chịu những nghiệp quả mà họ đã gây ra khi còn sống nhưng vẫn được hướng dẫn và khuyên răn để trở nên thấm nhuần, tỉnh ngộ và được cho đi tái sinh.  Thời gian bao lâu tuỳ theo nghiệp quả và sự tỉnh ngộ  của mỗi người. Sự hướng dẫn vong linh đặt nặng nền tảng đạo lý và Phật giáo.  Người quen của tôi vẫn chưa siêu thoát sau hơn mười năm cũng vì phải chịu sự trừng phạt (đốt nóng trong lồng sắt), và một phần cũng vì anh còn quyến luyến cõi trần.
Mốt số  Kinh điển Phật giáo Nam tông và Bắc tông đều ghi nhận có địa ngục như kinh Trung bộ (Majjhima Nikàya), Tăng chi bộ (Anguttara Nikàya), Tiểu bộ (Khuddaka Nikàya) trong Phật giáo Tiểu Thừa, và kinh A Hàm, kinh Địa Tạng Bổn Nguyện trong Phật giáo Đại Thừa.  Trong Kinh A Hàm, “Đức Phật cho biết Ngài nhìn thấy luân hồi sinh tử của chúng sinh rõ ràng cũng như người đứng nhìn giọt mưa rơi xuống chỗ thấp chỗ cao, như bong bóng của nước mưa sinh ra rồi biến mất, như người đứng nhìn người qua lại, tất cả đều rõ ràng, không sai sót, không hư dối.” [3]  Bao ngàn năm trước, Ngài đã bảo các Tỳ Kheo: “Ta dùng Thiên nhãn thanh tịnh nhìn thấy chúng sanh sinh ra chết đi, chết đi sanh ra, sắc đẹp sắc xấu, thiện hoặc ác, chỗ lành hoặc chỗ dữ tùy theo nghiệp mà chúng sinh đã tạo ra. Ta thấy những sự kiện ấy đúng như thật, không hư dối. Nếu có chúng sanh nào làm ác, nói ác, nghĩ ác, phỉ báng Thánh hiền, tà kiến, thì do nhân duyên ấy, khi chết chắc chắn đi vàochỗ dữ, sinh nơi địa ngục. Nếu chúng sinh nào làm lành từ thân miệng ý, ca ngợi bậc Thánh hiền, không có tà kiến, do nhân duyên này, khi chết người ấy sẽ đi vào chỗ tốt, sanh nơi cõi trời.” [4]
Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện cũng có đề cập rõ về những cảnh giới ở cõi âm, nghiệp báo chiêu cảm và tội phước trong cảnh địa nguc. Đức Phật cho chúng ta biết là có địa ngục và sự trừng phạt. Trong kinh Địa Tạng, Ngài Địa Tạng Bồ Tát nói với Ngài Phổ Hiền Bồ Tát rằng: “Thưa Nhơn Giả! Đó đều là do chúng sanh trong cõi Diêm-Phù-Đề làm những điều ác mà tùy nghiệp chiêu cảm ra những địa ngục như thế. Nghiệp lực rất lớn, có thể sánh với núi Tu-Di, có thể sâu dường biển cả, có thể ngăn đạo thánh. Vì thế chúng sanh chớ khinh điều quấy nhỏ mà cho là không tội, sau khi chết đều có quả báo dầu đến mảy mún đều phải chịu lấy.” [5]
Trong tôi dấy lên niềm xúc cảm sau nhiều cuộc tiếp xúc với người quen.  Trải  nghiệm tâm linh là một sự hy hữu.  Như người tìm được mảng puzzle cuối cùng, lòng tôi hoan hỷ vì có nhân duyên hiểu được điều mà có thể cả đời không có cơ hội trải nghiệm.  Đức Phật đã nhìn thấy chúng sanh trầm luần trong sinh tử với trùng trùng nghiệp quả nên Ngài đã dạy rõ trong kinh.  Có lẽ tôi sẽ luôn mơ hồ như bao nhiêu người khác về một thế giới mà khoa học không thể chứng minh nếu không có trải nghiệm bản thân. Địa ngục là một sự thật của nhân quả-nghiệp báo, một cảnh giới, một cõi sống cụ thể, không phải là ẩn dụ hay biểu tượng.  Chết không phải là hết. Thân thể vật chất của chúng ta như những chiếc áo, khi chúng ta chết đi là cởi bỏ những bộ y phục mang trên người và sẽ khoác lên mình bộ y phục khác sau khi tái sanh. Cho dù bạn có tin hay không, quy luật nhân quả không thay đổi. Đơn giản chỉ là việc mỗi chúng ta nhận thức được điều đó sớm hay muộn, trước hay sau mà thôi. Những ai từng trải nghiệm tâm linh về thế giới vô hình, về địa ngục hẳn cảm niệm sâu xa về sự sống và cái chết.
Lê Diễm Chi Huệ
05.07.2017
—————————————
Chú thích
[1]    Sách và Trang Nhà  Bác sĩ. Rajiv Parti [ xem trang điện tử http://drrajivparti.com/ ]
[2]   Câu Chuyện Bác sĩ Rajiv Parti  [xem trang điện tử https://www.thesun.co.uk/news/ 1657724/doctor-rajiv-parti- glimpses-the-afterlife-during        atonishing-near- death-experience/]
[3,4] Toàn Không [xem trang điện tử https://thuvienhoasen.org/ a17875/coi-dia-nguc]
[5]    Nguyên Thảo [ xem trang điện tử  http://www.daophatngaynay. com/vn/pg-nganh/khoa-   hoc/8339-The-gioi-coi-am.html  ]
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/01/2021(Xem: 5603)
Một khuôn mặt trong một tấm gương xuất hiện là một khuôn mặt, nhưng thế nào đi nữa hình ảnh đấy không là một khuôn mặt thật sự; đấy là từ những quan điểm trống rỗng về sự hiện hữu của một khuôn mặt. Giống như thế, một nhà huyển thuật có thể gợi lên những ảo ảnh dường như là những thứ thật sự. như một người ở trong một cái thùng bị xiên bởi một cây gươm, nhưng tất cả hoàn toàn không được tạo ra thật sự như những thứ được thấy. Tương tự thế, các hiện tượng như thân thể hiện diện được tạo ra từ chính phía của đối tượng nhưng trống rỗng trong việc được thiết lập cách ấy và luôn luôn như thế.
04/01/2021(Xem: 5523)
Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa ra nhận xét chính thức đầu tiên về việc nghỉ hưu, từ các trách nhiệm chính trị trong một buổi giảng dạy công khai tại Tsuglagkhang, Dharamshala, ngày 19 tháng 3 năm 2011. Năm 1963, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã ban hành một Hiến pháp Dân chủ (democratic constitution) hoàn toàn dựa trên Giới luật Phật giáo, và bản Hiến chương Nhân quyền của Liên Hợp Quốc để biên soạn, và chuẩn bị cho một mô hình đất nước Tây Tạng tự do ở tương lai:
04/01/2021(Xem: 6924)
Ngày Xuân ngày Tết, nếu ai tìm những giờ phút thanh thản yên tịnh bằng những bước nhẹ nhàng khoan thai vào vãng cảnh các chùa chiền tự viện, dâng hương bái Phật, nếu để ý sẽ thấy ở một vách tường nào đó treo bộ tranh mang tên gọi là “Thập mục ngưu đồ”. Không phải chốn già lam thiền viện nào cũng có trưng treo, vì đó không phải là điều bắt buộc thuộc thanh quy giới luật, nhiều khi chỉ được treo để trang trí, hay được trưng ra ở một nơi hằng ngày đi qua đi lại như để nhắc nhở, vậy nếu khi ta bắt gặp được tức là ta đang hữu duyên, hãy đừng bỏ dịp đứng trước bộ tranh mang những nét sơ sài ấy để ngắm từng bức mà chiêm nghiệm nghiền ngẫm.
04/01/2021(Xem: 4305)
Phật Vàng (Golden Buddha) có tên chính thức trong tiếng Thái là “Phra Phuttha Maha Suwana Patimakon”, nặng 5,5 tấn. Sau nhiều lần di chuyển, pho tượng hiện đang nằm trong đền thờ Wat Traimit, Bangkok, Thái Lan. Hiện tại, mặc dù các học giả vẫn chưa xác định chắc chắn nguồn gốc của pho tượng là bắt nguồn từ thời gian nào. Nhưng dựa theo cấu trúc của phần đầu bức tượng (hình quả trứng), thì có thể đoán rằng, nó ra đời vào dưới triều Sukhothai vào thế kỷ 13 – 14 – một trong những giai đoạn nổi tiếng nhất của nghệ thuật kiến trúc Phật giáo Thái Lan.
03/01/2021(Xem: 9140)
Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu Thiền sư TRÌ BÁT (Kỷ Sửu 1049) Thiền sư TỊNH THIỀN (Tân Sửu 1121) Hoà thượng THÍCH ĐẠT THANH (Quý Sửu 1853) Hoà thượng THÍCH GIÁC NHIÊN (Đinh Sửu 1877) Thiền sư THÍCH CHƠN PHỔ - THUBTEN OSALL LAMA (Kỷ Sửu 1889) Hoà thượng THÍCH BỬU LAI (Tân Sửu 1901) Hoà thượng THÍCH THIÊN ÂN (Ất Sửu 1925) Hoà thượng THÍCH MINH THÀNH (Đinh Sửu 1937)
03/01/2021(Xem: 5464)
“Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Với một nước nông nghiệp như nước ta, hình ảnh con trâu nặng nề lầm lũi, kềnh càng cục mịch luôn gắn bó với những cánh đồng thửa ruộng, thân thiết với bao người nông dân chân lấm tay bùn, và gần gũi với lũ trẻ mục đồng thường nghêu ngao bài hát quen thuộc “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ!”… Không chỉ như thế, trâu cũng đã từng gắn bó với cuộc đời một vài danh nhân lịch sử như Đinh Bộ Lĩnh, Đào Duy Từ… Đối với nền văn học nước nhà, con trâu còn có cái công rất lớn trong việc làm phong phú ngôn ngữ, nhất là trong ca dao- đồng dao-tục ngữ.
01/01/2021(Xem: 5087)
Từ lâu các kinh sách Phật Giáo Việt Nam bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ âm Hán Việt của Trung Quốc. Từ những được chư tôn thiền đức Tăng Ni chuyển qua quốc ngữ tiếng Việt, để Phật tử dễ đọc, nhất là những vị chưa có kiến thức về âm Hán Việt. thế kỷ 20 (năm 2000 trở đi) các kinh sách dần dần đã Người biên soạn xuất gia tại Chùa Liên Hoa, Bình Thạnh, với Tôn Sư Hải Triều Âm, các kinh sách trong Chùa tụng bằng tiếng Việt do Tôn sư chuyển ngữ. Từ năm 2005 trở đi, người biên soạn định cư và hoằng pháp tại Hoa Kỳ. Nhiều Chùa ở Hoa Kỳ vẫn còn tụng kinh bằng âm Hán Việt và nhiều nơi phải tụng bằng tiếng Anh cho người bản địa và thế hệ con cháu thứ hai sanh tại Mỹ có thể tụng hiểu được. Phật tử Việt tụng kinh bằng tiếng Việt mà vẫn chưa hiểu được ý nghĩa ẩn sâu trong lời kinh và càng bối rối hơn khi tụng kinh bằng bằng âm Hán Việt. Đó là lý do thúc đẩy, chùa Hương Sen biên soạn một cuốn “NGHI LỄ HÀNG NGÀY” bằng tiếng Việt và tổng hợp gần 50 bài kinh:
01/01/2021(Xem: 5683)
Trong kho tàng văn học của Việt Nam và Phật Giáo, Trần Thái Tông (1225 - 1258) đã có những đóng góp vô cùng to lớn và giá trị, những sáng tác của Ngài, bất hủ qua dòng thời gian, tỏa sáng lồng lộng trên bầu trời Dân Tộc và Đạo Pháp. Trần Thái Tông được kể như một vị Thiền sư cư sĩ vĩ đại, nhà thiền học uyên thâm, thành tựu sự nghiệp giác ngộ. Một vị vua anh minh dũng lược, chiến thắng quân Nguyên Mông giữ gìn bờ cõi, đem lại cường thịnh ấm no cho dân cho nước, đã để lại tấm lòng cao quý thương yêu đời đạo, lưu lại di sản trí tuệ siêu thoát cho hậu thế noi theo.
29/12/2020(Xem: 6174)
Tịch tĩnh bất động hay định lực có thể đè nén những cảm xúc chướng ngại ẩn tàng, nhưng nó không thể loại trừ hoàn toàn chúng. Tuệ giác nội quán là cần thiết bởi vì như được giải thích trước đây, nó có thể loại trừ hoàn toàn những cảm xúc phiền phức và những rối rắm hậu quả của chúng. Thiền ổn định (chỉ) và thiền phân tích (quán) bây giờ phải làm việc với nhau. Khi chúng thể hiện chức năng cách này, chúng có thể nhổ gốc những cảm xúc phiền phức và loại trừ những giới hạn của thông tuệ vì thế chúng ta có thể hoàn thành mục tiêu tối hậu của việc giúp đở những kẻ khác một cách hiệu quả hơn.
29/12/2020(Xem: 5187)
Thơ thiền Nhật bản là cả một thế giới thi ca độc đáo, tiêu biểu cho tư tưởng và chủ trương tu tập của thiền học Zen, nhất là qua một thể thơ cực ngắn gọi là haiku. Điểm đáng lưu ý và cần nêu lên trước nhất là thơ thiền Nhật bản khác hẳn với thơ Đường của Trung quốc. Một số học giả, kể cả các học giả Tây phương, dường như đôi khi không nhận thấy được sự khác biệt này khi mang ra phân tích và tìm hiểu tinh thần Phật giáo chung cho cả hai thế giới thi ca trên đây.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]