Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Những phút chạnh lòng trước ngày giỗ MẸ

07/03/201722:08(Xem: 10979)
Những phút chạnh lòng trước ngày giỗ MẸ

 Những phút chạnh lòng trước ngày giỗ MẸ

 Nhân ngày giỗ lần thứ 7 ( 13.02 Kỷ Sửu - 13.02 Đinh Dậu)    
DKT-gio-me

 (ảnh thân mẫu tôi )

         Chỉ là ngày giỗ bình thường như bao ngày giỗ khác của mọi người. Nhưng tôi, với những bạn bè bên cạnh tôi hiện nay, đó là những giây phút chạnh lòng bên mớ hành tranh và cũng là của cải trên suốt quảng đường đời hơn nữa đời người sống và cống hiến cho đạo pháp. Dù chỉ là tờ giấy, cây viết nhưng đó là gia sản to lớn chắt chiu có được mỗi khi chợt giựt mình ngồi suy tư nhìn lại.

 

        Sinh ra và lớn lên trong một gia đình không có gì làm điều kiện chắp cánh mỗi ước mơ, đặc biệt không có nguồn phước báu lớn lao là đã sẵn  một bóng mát Phật pháp bao trùm, có chăng chỉ là một bà ngoại già, tần tảo, chỉ biết đi chùa và đọc kinh. Nhưng từ cửa ngỏ eo hẹp đó đưa đôi chân của tôi đã bước qua và trưởng thành theo năm tháng với những ước mơ tạo lập nền móng phước báu cho gia đình, cho bản thân trong mội trường sinh hoạt các đoàn thể thanh niên PG trong Tổng Vụ Thanh Niên. Quá đơn côi và quá tự tin như thế. Gia đình và ngay cả xã hội chung quanh tôi lúc ấy chưa có mặn mòi đến Phật pháp, một từ " chùa" thôi cũng đã là xa lạ lắm. Những khi tôi xách áo tràng đi chùa, sau lưng có không ít tiếng cười chế nhạo. Lớn hơn chút đỉnh tôi mặc vào mình những màu áo đoàn thể thanh niên PG sặc sở, tiếng cười nhạc có bớt đi nhưng vẫn còn đó một thế giới lạc lõng chung quanh mình. Vậy đó mà ông bà cha mẹ tôi chưa bao gio ngăn cản hay đả kích việc tôi đi chùa, thậm chí không đòi hỏi phài học cho cao hay đi việc làm kiếm tiền về phụ giúp gia đình đang ngày càng khốn khó, những đòi hỏi rất hợp lý của phần động gia đình chung quanh nơi tôi ở. Dường như đó là tiêu chí bắt buộc và là lý tưởng của họ dành cho con cái vì sự giàu có và học vị cao đối với họ mới là thước đo phẩm chất và địa vị. Ba má tôi không có như vậy. Thậm chí sau năm 75, khi chủ trương đi "vùng kinh tế mới" đang  có sức mạnh áp đảo xã hội, nhất là đối với những gia đình đông con và nghèo khó như gia đình tôi, thì bà và ba má tôi đã nghỉ tới phương án "thoát nghèo" theo kiểu vội vả, cập rập đó. Khi đó tôi tuy 21 tuổi những đã là một đoàn trưởng của một tập thể thanh thiếu niên PG thuộc Học Sinh Phật Tử Vụ, đoàn tôi mang tên Mục Kiền Liên. Vùng kinh tế mới Bàu Bàng (thuộc huyện Tân Uyên, Sông Bè, Bình Dương bây giờ) là điểm mà phần đông bà con chòm xóm gia đình tôi được chỉ định phải đến. KHông biết đường sá xa xôi cỡ nào và xe cộ ra sao nhưng khi ba má đặt vần đề với tôi, tuy không nói ra rằng dù đã giài phóng nhưng con vẫn còn trách nhiệm với đoàn HSPT, một số anh em vì nhiều lý do khác nhau đã quay lưng hay ra đi về nơi xa lắm, ba má tôi nói rằng - một câu nói mà suốt đời tôi không quên được : " Cứ đi đi, cuối tuần về sinh hoạt một lần để giữ đoàn" !. Lưu ý, Ba Má tôi lúc này chưa biết đến chùa là gì. Vấn đề như vậy coi như đã quyết định. Thế nhưng không rõ chư Long Thần Hộ Pháp tác động như thế nào mà "mơ ước " đi xây dựng vùng kinh tế mới của gia đình tôi bổng trở nên im lặng khi có mấy vị "hộ pháp" là "cán bộ Việt Cộng" đến tận gia đình cho tôi và chị tôi vào làm cơ quan nhà nước. Từ đó tiếp tục sống dù khoai lang, khoai mì hay bo bo cầm cự cho qua ngày đoạn tháng. Cho đến khi vài năm sau đó những bà con đi kinh tế mới lần lượt trở về nền nhà cũ, ba má tôi mới hú hồn hú vía nói hai chữ " may mà..."! ( Ba Má tôi tới lúc này cũng chưa biết Long Thần Hộ Pháp là cái ông chi chi đâu ).

 

            Trong hoàn cảnh và điều kiện kém phước duyên ấy của gia đình mình, cho đến tận hôm nay, khi bắt gặp hình ảnh hai cha con đạo hữu Minh Pháp và con trai là Ngọc Lâm cùng nhau thành kính tụng kinh trước bàn thờ Phật gia đình mà lòng tôi xúc động lạ. Đó là hình ảnh rất đẹp và là lý tưởng của con nhà Phật nói chung và của gia đình tôi nói riêng. Ao ước ấy vẫn biết bao giờ tàn phai ! (ảnh 2,3).

 DKT-anh Son 2DKT-anh Son 1

            Rồi đòan HSPT của anh em chúng tôi cũng phài giải thể theo xu hướng chung. Anh em mỗi người một ngã tự tìm đất sống và ngày càng xa dần nẽo đường đã chọn. Tôi thì cố gắng trong hoàn cảnh riêng của mình vừa hoạt động nghệ thuật, vừa cộng tác với đài phát thanh truyền hình hầu có một số vốn kinh nghiệm tích luỷ để mai sau quay về phụng sự Phật pháp.

 

            Khi chính thức đứng hẳn phía đạo pháp trên mặt trận văn hóa nghệ thuật, thì phía bên nhà nước muốn tầy chay và đầy dần tôi ra khòi cuộc chơi vì lúc đó chưa có chính sách cởi mở hay nhận thức đúng về Phật giáo. Tôi chấp nhận tất cả vì đó chính là ước nguyện của mình trước chư Long Thần Hộ Pháp - những vị đã níu tay tôi bao lần qua. Những tưởng ở nơi mà mình đã buông bỏ tất cả để quay về này sẽ trân trọng bào vệ mình nhưng một lần nữa tôi bị đánh rơi ra ngoài một cách trắng trợn , không thua gì một cuộc thương-ghét trần tục thô thiển thường gặp ở bến xe, chợ búa. Đau ở đây vì không phải bị gạt bỏ mà là vì hình ảnh thanh cao mà tôi và gia đình rất trân trọng, lại mang hư danh "văn hóa PG" và nhiều-rất nhiều kẻ cơ hội có "mề đay " hảnh diện gắn trên ngực " cán bộ văn hóa PG" !

 

             Ngày ba tôi nằm xuống vì lao lực quá nhiều cho đàn con,  đó là giai đoạn bo bo là lương thực chính yếu, gạo thóc là cao lương, ba tôi không để lại gì ngoài hai bộ quần áo cũ te tua liệm chung vào chiếc "hòm quốc doanh" vuông vức lạ lẫm, hai tháng nhu yếu phẫm của tôi và chị được mua trước để lo cho tang lễ hẩm hiu của ba tôi.

 

            Má tôi còn sống tiếp đến những tháng ngày, đã biết đi chùa, đọc kinh sành sỏi và ăn chay định kỳ đôi ba ngày một tháng. Sống để chứng kiến những vị xuất gia tôi thường hay ca ngợi, xem họ ứng xử làm văn hóa PG như thế nào mà con mình phải tận tụy cả đời thế kia , đến nỗi buông tay ra chỉ là màu trắng, nhưng ngán ngẩm và bẻ bàng nhất là những "cán bộ văn hóa PG" hay những cái gọi là "nhạc sỉ PG" họ đã để lại trong mắt má tôi cái nhìn mất hết thiện cảm. Bà chỉ thốt lên theo khà năng nhận thức hạn hữu của mình rằng " ... Là vậy đó hả ?" .

 

          Tôi không có phước duyên to lớn như một vài vị xuất gia quen biết và thân cận, mỗi lần được các vị ấy mời "lên rẫy" chơi hay " lên "nông trại" riêng chơi; mỗi lần như thế tôi nhìn thấy cơ ngơi các vị này tạo lập  một góc riêng rất khang trang dành cho hai đấng sanh thành gọi là "để báo hiếu" mà lòng thầm ngưỡng mộ. Tôi nào có chi đâu ngòai tờ giấy và cây viết, nhưng mỗi khi hoàn thành được một công trình gì, dù không to tát, tôi đều hồi hướng tất cả công đức về cho bà, ba má tôi, đáp đền phần nào sự hy sinh to lớn ấy của họ đã sinh tôi ra, nuôi nấng và thả tự do cho tôi bay trong vòm trời đạo pháp mênh mông, vô biên. Chì tiếc rằng mình chưa đủ phước bàu để bay vượt qua những "cảnh giới" trần tục này để thấy khác hơn, đẹp hơn cho lòng nhẹ nhàng, cho hương linh những người thân yêu của tôi có thể thanh thàn mà rằng " Nó đã sống và cống hiến không sai".

 

             Đó là lý do mỗi khi đám giỗ ba má tôi, anh em trong nhà nhất định phài mời thỉnh chư tăng và Phật tử quen biết đến nhà hộ niệm, bất kể Nam hay Bắc Tông hoặc khất sỉ. Có khi nhờ bạn bè mời thỉnh vì tôi có rất ít mối giao thiệp với chư tăng xuất gia. Làm tất cả những gì có thể làm để bù đắp lại những thiếu thốn lẽ ra bà và ba má mình phải được nhận thọ. Cảm ơn  quý chư tăng và các đạo hữu đã vì mối thân tình này mà lâu nay đến tận nhà hộ niệm, góp lời kinh cầu siêu cho hương linh những người thân yêu nhất của tôi.

 

             Không chỉ riêng Bà và Ba Má tôi, những công đức mà khi sinh thời họ tạo lập trong vô tình hay hữu ý cho mình hay cho những người thân của mình, đó là thứ năng lượng quý giá giúp vượt thoát những nghiệp dĩ  trong mai sau và xa xôi nữa. Như một con tàu vũ trụ được phóng lên không gian với đầy đủ trong mình những thứ năng lượng cần thiết để tự bay đi, bay xa và bay mãi , cho đến khi nào hết nhiên liệu, hết phúc báu, sẽ tự rơi giữa khoảng không gian vô biên một cách tự do và thanh thản.

 

 

                                   Giác Đạo - Dương Kinh Thành

            

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/01/2021(Xem: 7056)
Kính thưa quý Phật tử, đồng hương xa gần kính mến, Trái đất xoay tròn, một năm nữa lại đến. Gió xuân, mai đào, bánh chưng, bánh tét... đang đem niềm vui mùa xuân đến cho hành tinh chúng ta. Quý Ni sư kính lời vấn an sức khỏe đến quý Phật tử, tri ân tình thương của quý vị trong thời gian qua, nhất là trong mùa đại dịch Covid Corona, quý vị luôn đồng hành ủng hộ để Chùa Hương Sen được yên ổn sinh hoạt và an tâm tu tập, tụng niệm.
12/01/2021(Xem: 4842)
Vương quốc Phật giáo Bhutan với diện tích và dân số khiêm tốn trên Himalaya đã báo cáo có ca COVID-19 đầu tiên tử vong, khoảng 10 tháng sau khi ca đầu tiên phát hiện Viruscorona, và cố gắng kiểm soát dịch bệnh bằng cách phong tỏa phần lớn đất nước phụ thuộc vào du lịch. Trong một thông báo đưa ra vào cuối ngày thứ Năm, ngày 7 vừa qua, Bộ Y tế Bhutan cho biết một người đàn ông 34 tuổi đã tử vong tại một bệnh viện ở thủ đô Thimphu do Covid-19, tiền sử có bệnh nền như gan mãn tính và suy thận, có kết quả xét nghiệm dương tính.
09/01/2021(Xem: 7445)
“Tha Nhân Là Địa Ngục” (L’enfre, cest les autres/Hell is other people) là câu nói thời danh của triết gia Pháp Jean Paul Sartre. Trong vở kịch nhan đề Huis Clos (Cửa Đóng) tiếng Anh dịch là “Không lối thoát” (No Exit) và tiếng Việt có nơi dịch là “Phía Sau Cửa Đóng” trong đó mô tả ba nhân vật lúc còn sống đã làm nhiều điều xấu. Khi chết bị nhốt vào địa ngục nhưng không phải là “địa ngục” với những cuộc tra tấn ghê rợn về thể xác mô tả trong các tôn giáo, mà bị nhốt vĩnh viễn trong một căn phòng kín. Tại đây ba nhân vật bất đồng, cãi vã nhau- không phải vì cơm áo mà vì quan điểm, sở thích, cách suy nghĩ, tư tưởng, lối sống. Cuối cùng một người không sao chịu đựng được đã thốt lên “Tha nhân là địa ngục”. Câu nói này trở nên nổi tiếng và tồn tại cho tới ngày nay.
07/01/2021(Xem: 6620)
Vào năm 2004, Thư Viện Anh Quốc đã mở cửa đón khách vào thưởng một “pháp bảo” của Phật giáo Trung Hoa mang tên “Kinh Kim Cang”, đó là một trong những cổ vật chính được trưng bày tại cuộc triển lãm “Con Đường Tơ Lụa. Bên cạnh cuốn “Kinh Kim Cang” còn có những cổ vật khác được giữ gìn hoàn hảo hơn 1000 năm qua như : một súc lụa, một tấm thảm trải trước lò sưởi tại ngôi nhà bỏ hoang đã 1.100 năm, một cuộn len 1300 năm tuổi … Phần lớn cổ vật trưng bày tại triển lãm được lấy từ bộ sưu tập của Sir Marc Aurel Stein.
07/01/2021(Xem: 6207)
Một khuôn mặt trong một tấm gương xuất hiện là một khuôn mặt, nhưng thế nào đi nữa hình ảnh đấy không là một khuôn mặt thật sự; đấy là từ những quan điểm trống rỗng về sự hiện hữu của một khuôn mặt. Giống như thế, một nhà huyển thuật có thể gợi lên những ảo ảnh dường như là những thứ thật sự. như một người ở trong một cái thùng bị xiên bởi một cây gươm, nhưng tất cả hoàn toàn không được tạo ra thật sự như những thứ được thấy. Tương tự thế, các hiện tượng như thân thể hiện diện được tạo ra từ chính phía của đối tượng nhưng trống rỗng trong việc được thiết lập cách ấy và luôn luôn như thế.
04/01/2021(Xem: 6125)
Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa ra nhận xét chính thức đầu tiên về việc nghỉ hưu, từ các trách nhiệm chính trị trong một buổi giảng dạy công khai tại Tsuglagkhang, Dharamshala, ngày 19 tháng 3 năm 2011. Năm 1963, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã ban hành một Hiến pháp Dân chủ (democratic constitution) hoàn toàn dựa trên Giới luật Phật giáo, và bản Hiến chương Nhân quyền của Liên Hợp Quốc để biên soạn, và chuẩn bị cho một mô hình đất nước Tây Tạng tự do ở tương lai:
04/01/2021(Xem: 7680)
Ngày Xuân ngày Tết, nếu ai tìm những giờ phút thanh thản yên tịnh bằng những bước nhẹ nhàng khoan thai vào vãng cảnh các chùa chiền tự viện, dâng hương bái Phật, nếu để ý sẽ thấy ở một vách tường nào đó treo bộ tranh mang tên gọi là “Thập mục ngưu đồ”. Không phải chốn già lam thiền viện nào cũng có trưng treo, vì đó không phải là điều bắt buộc thuộc thanh quy giới luật, nhiều khi chỉ được treo để trang trí, hay được trưng ra ở một nơi hằng ngày đi qua đi lại như để nhắc nhở, vậy nếu khi ta bắt gặp được tức là ta đang hữu duyên, hãy đừng bỏ dịp đứng trước bộ tranh mang những nét sơ sài ấy để ngắm từng bức mà chiêm nghiệm nghiền ngẫm.
04/01/2021(Xem: 4741)
Phật Vàng (Golden Buddha) có tên chính thức trong tiếng Thái là “Phra Phuttha Maha Suwana Patimakon”, nặng 5,5 tấn. Sau nhiều lần di chuyển, pho tượng hiện đang nằm trong đền thờ Wat Traimit, Bangkok, Thái Lan. Hiện tại, mặc dù các học giả vẫn chưa xác định chắc chắn nguồn gốc của pho tượng là bắt nguồn từ thời gian nào. Nhưng dựa theo cấu trúc của phần đầu bức tượng (hình quả trứng), thì có thể đoán rằng, nó ra đời vào dưới triều Sukhothai vào thế kỷ 13 – 14 – một trong những giai đoạn nổi tiếng nhất của nghệ thuật kiến trúc Phật giáo Thái Lan.
03/01/2021(Xem: 9754)
Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu Thiền sư TRÌ BÁT (Kỷ Sửu 1049) Thiền sư TỊNH THIỀN (Tân Sửu 1121) Hoà thượng THÍCH ĐẠT THANH (Quý Sửu 1853) Hoà thượng THÍCH GIÁC NHIÊN (Đinh Sửu 1877) Thiền sư THÍCH CHƠN PHỔ - THUBTEN OSALL LAMA (Kỷ Sửu 1889) Hoà thượng THÍCH BỬU LAI (Tân Sửu 1901) Hoà thượng THÍCH THIÊN ÂN (Ất Sửu 1925) Hoà thượng THÍCH MINH THÀNH (Đinh Sửu 1937)
03/01/2021(Xem: 5875)
“Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Với một nước nông nghiệp như nước ta, hình ảnh con trâu nặng nề lầm lũi, kềnh càng cục mịch luôn gắn bó với những cánh đồng thửa ruộng, thân thiết với bao người nông dân chân lấm tay bùn, và gần gũi với lũ trẻ mục đồng thường nghêu ngao bài hát quen thuộc “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ!”… Không chỉ như thế, trâu cũng đã từng gắn bó với cuộc đời một vài danh nhân lịch sử như Đinh Bộ Lĩnh, Đào Duy Từ… Đối với nền văn học nước nhà, con trâu còn có cái công rất lớn trong việc làm phong phú ngôn ngữ, nhất là trong ca dao- đồng dao-tục ngữ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]