Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ngũ Uẩn

29/01/201720:16(Xem: 8988)
Ngũ Uẩn
Ngũ Uẩn
 
GS  Nguyễn Vĩnh Thượng
ngu-uan

 

Lời tác giả: Việc biên soạn chắc chắn không tránh khỏi những chỗ sai sót, chúng tôi ước mong các bậc cao minh lượng thứ và sẽ phủ chính cho những sai lầm. Những sự sửa sai và bổ khuyết của quý vị độc giả để bài viết này được đầy đủ và hoàn hảo hơn trong lần viết lại; đó quả là niềm vinh hạnh cho chúng tôi.
NVT

 

Trong bài viết này sẽ được trình bày như sau:

I.-Định nghĩa: Ngũ Uẩn.
II.- Nội dung của thuyết Ngũ Uẩn.
III.- Nhận xét: Lời Phật dạy trong thuyết Ngũ Uẩn.
IV.-Kết luận.

 

I.-Định nghĩa: Ngũ Uẩn.

       Đức Phật Thích-ca đã nhiều lần giảng về Ngũ Uẩn, từ Kinh chuyển pháp luân đến các bài thuyết pháp sau này.
       Ngũ Uẩn (五 蘊, Sa. Pañca-skandha, Pi. Pañca-khandha, Av. Five Aggregates/ Five psycho-physical condition groups), cũng gọi là Ngũ ấm (五陰). Trong tiếng Sanskrit thì panca = số 5, skandha = nhóm; người Trung Hoa dịch chữ skandha là uẩn, có nghĩa là tích tụ, nơi các điều, các sự kiện được chứa đựng.
Ngũ Uẩn là 5 nhóm kết hợp lại để tạo thành con người: - phần vật chất có hình dáng gọi là 1. Sắc Uẩn; - phần tâm lý không có hình dáng, gồm có 4 uẩn là 2.thọ uẩn, 3.tưởng  uẩn, 4.hành uẩn, 5.thức uẩn.

 

II.-Nội dung của thuyết Ngũ Uẩn.

Ngũ Uẩn gồm có 5 nhóm:

1.-Sắc Uẩn (色; Sa., Pa. rūpa, Av. aggregate of form) là nhóm yếu tố tạo nên phần vật chất và sinh lý của con người: - về vật chất thì gồm có tứ đại chủng/ 4 nguyên tố lớn (Sa., Pa.. mahābhūta,Av. four great elements): đất, nước, gió, lửa. Do sự kết hợp của 4 nguyên tố này nên con người được tạo thành, đó là phần sinh lý gồm có 5 giác quan (5 physical organs), người Trung Hoa gọi là ngũ căn : mắt, tai, mũi, lưỡi, thân (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân; eye, ear, nose, tongue, body), và các đối tượng vật chất tương ứng của ngũ giác quan, người Trung Hoa gọi là trần (physical objets), có 5 trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc ( vật nhìn thấy được, âm thanh, hương thơm, mùi vị và cảm giác; sight, sound, smell/odor, taste, and tangible objects). Như vậy, trần gồm có:
                  1. Sắc trần (sight) là hình dáng, màu sắc mà mắt thấy được.
                  2.Thanh trần (sound) là tiếng mà tai nghe được.
                  3.Hương trần (smell/ odor) là hương vị do mũi ngửi.
                  4.Vị trần (taste) là mùi vị do lưỡi nếm.
                  5.Xúc trần (tangible things) là cảm giác do thân xác biết được như cứng, mềm, nóng, lạnh.

2.-Thọ uẩn (受, Sa., Pa. vedanā, Av. aggregate of feeling/sensation) là nhóm cảm giác sinh ra do sự tiếp xúc giữa 5 giác quan và 5 đối tượng tương ứng. Cảm giác có 3 loại: hoặc là dễ chịu, hoặc là khó chịu, hoặc là trung tính. Cảm giác thì khác nhau từ người này đến người khác: chúng ta thường không có cảm giác giống nhau về cùng một đối tượng. Ngay cả cảm giác của chính một người cũng có thể thay đổi theo thời gian và không gian.

3.Tưởng uẩn ( 想, Sa. saṃjñā, Pa. saññā, Av.aggregate of perception), là nhóm nhận thức được cả hai đối tượng vật chất và tinh thần. Khi tiếp xúc với đối tượng, tưởng uẩn nhận thức được đặc tính của đối tượng, giúp ta ghi nhớ đối tượng. Ví dụ thấy lửa ta nhận biết là nóng; nói tới cây dừa, ta biết hình dáng của cây dừa, ta biết màu xanh của lá dừa.

4.Hành uẩn ( 行, Sa. saṃskāra, Pa. saṅkhāra, Av. aggregate of mental information) là nhóm gồm tất cả các yếu tố tâm thần (mental factors) trừ thọ uẩn (feeling) và tưởng uẩn (perception). Hành uẩn là sự phản hồi có điều kiện với những đối tượng của kinh nghiệm, của những gì đã trải nghiệm qua. Những sự phản hồi này có những hậu quả luân lý như có thể tốt (thiện), có thể xấu (ác) hoặc không tốt không xấu (vô ký). Hành uẩn sẽ không có một sự thay đổi về một hành động nào cả trừ khi chúng ta có một sự chủ ý (intention), một sự chọn lựa (choice) và một hành động (action).

5.Thức uẩn ( 識, Sa. vijñāna, Pa. viññāṇa, Av. aggregate of consciousness):

Ý thức là khả năng nhận biết trực tiếp các hiện tượng nội giới và ngoại giới. Ý thức là mọi trường hợp mà các yếu tố tâm linh (mental factors) xuất hiện. Không có ý thức thì không có những yếu tố tâm linh vì tất cả các yếu tố tâm linh hay các sự kiện tâm lý thì liên kết với nhau (inter-related), tùy thuộc với nhau (inter-dependent), và cùng tương liên hiện hữu (co-existent). Đối tượng của thức Uẩn là tư tưởng và ý tưởng (thoughts and ideas), Đức Phật gọi Ý thức là thức thứ 6.
Thức Uẩn có 6 loại như sau:
         1.Nhãn thức (eye consciousness) là cái biết của mắt.
           2.Nhĩ thức (ear consciousness) là cái biết của lỗ tai.
           3.Tỷ thức (nose consciousness) là cái biết của mũi.
           4.Thiệt thức (tongue consciousness) là cái biết của lưỡi.
           5.Thân thức (body consciousness) là cái biết của thân thể.
           5.Ý thức (mind consciousness) là cái biết của Ý/ tâm (mind consciousness) về tư tưởng và ý tưởng.

Như vậy, ý thức/ tâm thức (mind consciousness) đóng một vai trò quan trọng trong tất cả các sinh hoạt tâm linh. 5 thức trước không có sự liên hệ với nhau, nhưng ý thức / tâm thức - thức thứ 6 - như là một phối trí viên, làm hoàn thành các ý nghĩ và diễn tả tư tưởng của con người.

Chúng ta nhận thấy các yếu tố sinh lý và tâm lý của những trải nghiệm cùng nhau liên kết để tạo nên kinh nghiệm cá nhân của mỗi người. Giữa các sự kiện sinh lý và sự kiện tâm lý có ảnh hưởng hổ tương, ví dụ:
-Khi nhức đầu, chúng ta khó có thể suy nghĩ một cách rõ ràng.
-Khi sức khỏe bình thường thì suy nghĩ dễ dàng.
-Khi thân thể suy nhược, thì tinh thần dễ sinh buồn chán.
-Như vậy tình trạng sức khỏe ảnh hưởng đến sự quyết định của ý chí, ý thức. Trí huệ minh mẫn trong một tinh thần tráng kiện.

Vài ví dụ để soi sáng sự liên kết của sắc uẩn (sinh lý) và 4 uẩn thuộc tâm lý như sau:
        Ví dụ 1. Sáng nay chúng ta đi bộ băng qua một cánh rừng. Trong lúc đi bộ, đôi mắt của bạn (nhãn căn) tiếp xúc với một vật là đối tượng của mắt (sắc trần). Bạn chú ý vào vật đó, và thức uẩn của bạn tức thì nhận thức được vật ấy. Tưởng uẩn của bạn nhận ra vật ấy là một con rắn. Ngay khi đó, bạn liền có phản ứng với vật này (con rắn) bằng thọ uẩn của bạn: bạn cảm thấy sợ sệt. Cuối cùng bạn phản ứng chống lại vật ấy bằng hành uẩn của bạn: hoặc là với ý định chạy trốn con rắn, hoặc là lượm một cụt đá gần đó để liệng vào con rắn cho nó đi chỗ khác.

        Ví dụ 2.Âm thanh của tiếng nói của tôi (thanh trần) và 2 lỗ tai bạn (nhĩ căn) là 2 yếu tố của sắc uẩn. Thức uẩn của bạn nhận thức được giọng nói của tôi. Tưởng uẩn của bạn nhận biết được những lời nói mà tôi đang nói. Thọ uẩn của bạn thì phản hồi lại lời tôi nói với cảm giác có thể hài lòng hoặc có thể không hài lòng, hoặc không hài lòng cũng không không hài lòng. Rồi hành uẩn của bạn phản hồi lại bằng một phản ứng có điều kiện: hoặc lắng tai nghe tôi nói, hoặc la lớn biểu tôi im ngay.

Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta có thể phân tích các trải nghiệm cá nhân của chúng ta qua bình diện của ngũ uẩn mà Đức Phật đã dạy.

 

III.- Nhận xét: Lời Phật dạy trong thuyết Ngũ Uẩn.

Đức Phật đã dạy cho chúng ta những điều gì qua việc học hỏi những đặc tính của ngũ uẩn?
1.Những yếu tố tạo nên sắc uẩn thì vô thường, luôn luôn biến đổi không ngừng. Thể xác chúng ta thì biến đổi: già, yếu, bịnh...
2.Những cảm giác của ta do thọ uẩn tạo ra thì cũng thay đổi không ngừng. Hôm nay chúng ta hài lòng với một hoàn cảnh đặc biệt này, nhưng ngày mai chúng ta có thể không còn hài lòng nữa.
3.Những nhận thức về một đối tượng trong một hoàn cảnh do tưởng uẩn đem đến thì cũng thay đổi vì hoàn cảnh luôn luôn đổi thay.
4. Tương tự như trên hành uẩn cũng thay đổi: hành động của chúng ta thì luôn thay đổi đối với một đối tượng cũng luôn thay đổi.
5. Cũng vậy, thức uẩn cũng thay đổi liên tục: Ý thức về một đối tượng cũng thay đổi theo thời gian và không gian.

Nói tóm lại, ngũ uẩn thì thay đổi liên tục, thì vô thường, do đó ngũ uẩn không có tự tánh tức là không có bản ngã, cho nên thường nói "ngũ uẩn giai không".
Do sự phân tích ở trên giúp ta đạt đến một tuệ giác: ý thức này không có bản ngã, không có gì giữ nguyên một tình trạng, một trạng thái mãi mãi. Nhờ vậy chúng ta sẽ có một thái độ vượt qua được những quấy động của tình cảm về hy vọng và sợ hải. Chúng ta hy vọng được hạnh phúc, và lo sợ sự đau khổ. Chúng ta hy vọng thành công, và chúng ta lo sợ thất bại. Chúng ta hy vọng được khá giả, và chúng ta lo sợ bị đói khổ. Chúng ta sống giữa nỗi hy vọng và nỗi lo sợ. Nếu chúng ta hiểu rằng hạnh phúc và khổ sở của cá nhân thì biến đổi không ngừng thì chúng ta sẽ vượt bỏ được ý tưởng về cái ngã - về cái sự trường tồn- tức là chúng ta sẽ vượt qua được lòng hy vọng và nỗi lo sợ. Như vậy chúng ta không còn phải ngụp lặng trong sự hy vọng và nỗi lo sợ, chúng ta sẽ đạt được sự thanh thản, bình an, đạt được an nhiên tự tại trước những thay đổi của cuộc đời.

IV.-Kết luận

Nói tóm lại, Đức Phật đã giảng sự kết hợp của các nhóm trong ngũ uẩn thì có tính cách tạm thời, tùy thuộc lẫn nhau, luôn luôn biến đổi. Chúng ta phải nhận thức rằng ngũ uẩn là vô thường, là không phải là "chính- chúng ta", là vô ngã. Khi ngộ được như thế thì chúng ta sẽ đi đến chỗ giác ngộ (bodhi, enlightement).

Toronto, 25 January 2017.
Nguyễn Vĩnh Thượng
Cựu  Giáo sư Triết học (1969-1975) tại các trường Petrus Ký, Hồ Ngọc Cẩn, Nguyễn An Ninh, Cần Đước và trường Sư Phạm Saigon.  

 

**Tài liệu tham khảo chính yếu:


-Bhikkhu Bodhi, edited & introduced, In the Buddha’s Words: An Anthology of Discourses from the Pali Canon, Foreword by The Dalai Lama, Boston: Wisdom Publications, 2005.
-Gombrich, Richard, Theravada Buddhism, London: Routledge, First published 1988, Reprinted 1991, 1994, 1995.
-Kalupahana, David J., Buddhist Philosophy: A Historical Analysis, Honolulu: University of Hawai Press, 1976.
-Kimura Taiken, Nguyên Thủy Phật giáo Tư Tưởng Luận; nguyên văn chữ Nhật, Hán dịch: Âu Dương Hãn Tồn, Việt dịch: Thích Quảng Độ, Saigon: ĐHVH, 1969. Chùa Khánh Anh ở Paris in lại, Phật học Viện Quốc tế ở California phát hành.
-Murti, T.R.V., The Central Philosophy of Buddhism, London: Unwin Paperbacks, First publishised in 1955, Reprinted in 1987.
-Narada, Mahathera, The Buddha and his Teachings, Kandy (Sri Lanka): Buddhist Publication Society, First enlarged edition: 1964, Second revised and enlarged edition: 1973.
-Nguyễn Vĩnh Thượng, Tâm Lý Học (sách giáo khoa lớp 12 ACD), Saigon: Hiện Đại phát hành, 1972.
-Tâm Diệu, Quan niệm giải thoát trong Phật giáo và Bà-la-môn giáo (bài biên khảo), Hoa Kỳ: Website Thư Viện Hoa Sen, 2011.
-Thích Chơn Thiện, Phật học Khái luận, California: Thanh Văn, 1992.
-Thích Quảng Liên, Sử cương Triết học Ấn độ, Saigon: tác giả x.b., bài cours cho sinh viên chứng chỉ Triết học Ấn độ, ĐHVK Saigon, 1965.
-Thích Thanh Kiểm, Lược sử Phật giáo Ấn độ, Saigon: Lê Thanh thư xã, 1963.
-Thích Thiện Hoa, Phật học Phổ thông từ khóa I đến khóa XII (gồm 12 quyển), đã xuất bản ở Saigon từ 1955 – 1964. Tái bản: Phật Học Viện Quốc tế, Sepulveda, CA, USA, 1982.
-Williams, Paul, Mahayana Buddhism, London: Routledge, First published 1989, Reprinted 1991, 1993.

 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/08/2014(Xem: 15103)
•Bất luận là người tu tại gia hay xuất gia, cần phải trên kính dười hòa, nhẫn nhục đìều mà người khác khó nhẫn được, làm những việc mà người khác khó làm được, thay người làm những việc cực nhọc hoàn thành cho người là việc tốt. •Khi tỉnh tọa thường nghĩ đến điều lỗi của mình. Lúc nhàn đàm đừng bàn đến điều sai trái của người. •Lúc đi, lúc đứng, lúc nằm, lúc ngồi, lúc ăn, lúc mặc, từ sáng đến tối, từ tối đến sáng chỉ niệm Phật hiệu không để gián đoạn, hoặc niệm nho nhỏ hoặc niệm thầm.
15/08/2014(Xem: 7044)
Chắc là sắp sắp lại được thiền và được có những cảm xúc tuyệt diệu như lần này mà thôi Tôi luôn tự nghĩ mình là người có nhiều duyên lành với Phật pháp. Tôi có một người mẹ chuyên tâm học Phật và mở lối cho tôi đến với con đường tu tập từ khi còn rất nhỏ. Tôi có cơ hội nhiều lần đi chùa lễ Phật, tụng kinh. Tuy nhiên, tôi lại chưa từng có cơ hội được trải nghiệm một khóa tu dù chỉ một ngày và chưa từng có một giây ngồi thiền trước khi đến với Tiến sỹ Nguyễn Mạnh Hùng.
15/08/2014(Xem: 9932)
Sau thời kinh, ở phương đông trời cũng vừa ửng sáng. Sa di Thiện Thiên như thói quen đi mở hết các cánh cửa sổ của chánh điện cho ánh sáng và gió sớm lùa vào. Chẳng bao lâu toàn chánh điện đã chan hòa ánh sáng báo hiệu một ngày như mọi ngày sinh hoạt của tịnh xá Ngọc Hưng. Chánh điện tịnh xá Ngọc Hưng nền tráng xi-măng, có những đường nứt thật rõ. Gần bục thờ được trải 4 chiếc chiếu nylon để tăng chúng lễ lạy hai thời công phu. Nhìn từ cuối chánh điện, tượng Đức Bổn sư Thích Ca và những đồ thờ bằng kim loại sáng bóng như mới được đánh dầu đồng trong dịp Đản Sinh vừa qua.
14/08/2014(Xem: 12321)
Thủ tướng Abe Shinzō (An Bội Tấn Tam-安倍 晋三) đã từ chức vào năm 2007, và chức Chủ tịch Đảng Dân chủ Tự do khi chưa làm được một năm, sau thất bại thảm hại của đảng này khi bầu cử Thượng viện. 12 tháng 9 năm 2007 : Nhiệm kỳ của ông lại bị phá hỏng vì hàng loạt cuộc từ chức của các Bộ trưởng Nội các và vụ tiết lộ về việc để mất số liệu lương hưu. Ông từ chức sau một năm tại nhiệm với lý do sức khỏe. Bảy tháng sau, Thủ tướng Abe Shinzō (An Bội Tấn Tam-安倍 晋三) bị bệnh hay quên lãng và đã thử thách mình bằng cách dùng phương pháp trị liệu "Tọa thiền" ngồi thiền tại Chùa Zenshōan (臨済宗國泰寺)một ngôi chùa thuộc Thiền phái Lâm Tế ở huyện Yanaka, Tokyo.
14/08/2014(Xem: 16077)
Vào một buổi sáng lạnh mùa đông năm 2007, tại một ga metro ở Washington DC, một thanh niên với chiếc đàn vĩ cầm, đứng chơi những bài nhạc nổi tiếng của Bach, Schubert, Massenet… trong vòng 45 phút. Trong khoảng thời gian ấy có khoảng chừng 2 ngàn người đi ngang qua, đa số đang trên đường đến sở làm của họ. Dường như không một ai có vẽ chú ý đến sự có mặt của anh. Sau khoảng 3 phút, một người đàn ông đứng tuổi đi qua và nhận thấy có một nhạc sĩ đang đứng đó chơi vĩ cầm. Ông đi chầm chậm, dừng lại chừng vài giây, và rồi lại vội vã đi tiếp cho kịp giờ của mình.
12/08/2014(Xem: 9395)
Chồng là Tiến sĩ, Giám đốc một Bệnh viện đa khoa ở miền đất Tổ trung du, vợ là chủ một ảnh viện áo cưới khá nổi tiếng, họ sinh được 2 người con 1 trai 1 gái đẹp như tranh vẽ, thông minh học giỏi. Cuộc sống sung túc, hạnh phúc là niềm mơ ước của biết bao gia đình ấy sẽ chẳng có gì đặc biệt, nếu như không có một ngày người ta sững sờ khi bắt gặp ở trên ngọn núi thiêng của Tam Đảo cảnh tượng 2 vợ chồng vị Tiến sĩ này đang chắp tay cúi lạy và xưng hô là “con” với chính…2 đứa con nhỏ do mình sinh ra…
12/08/2014(Xem: 6454)
Kính bạch thầy, Mười bảy tháng bảy hôm nay là tròn 2 năm thầy ngừng thở. Hai năm thật rồi ư…. Nhanh quá thầy ơi. Đêm qua con đã ngủ 1 giấc rất sâu, hình như được 2 -3 tiếng. Và con tỉnh dậy lúc gần 4 giờ sáng để ngồi thư giãn ít phút trước khi viết thư này gửi thầy, tâm sự cùng thầy…
08/08/2014(Xem: 6799)
Tâm hay trách móc, hay hờn tủi, tâm đó sẽ làm cho chúng ta khổ đau. Không sợ già, không sợ chết, chỉ sợ chúng ta không có trí tuệ, chúng ta không biết tu tập, nên chúng ta không có khả năng để vẽ đời sống của chúng ta, cái dáng dấp đẹp đẽ của chúng ta trong tương lai. Chúng ta phóng sanh loài khác chính là phóng sanh cho chính chúng ta, chúng ta cứu giúp sự sống của người khác chính là cứu giúp sự sống của chính chúng ta. Chúng ta có thể tiếp xúc, cảm nhận được hạnh phúc và an lạc ở bất cứ thời gian và không gian nào. Khi chúng ta ý thức rõ về sự sống, chúng ta biết gạn lọc tất cả những cái gì làm cho sự sống của chúng ta bị cáu bẩn, thì sự thanh trong của cuộc sống tự nó sẽ hiện ra.
07/08/2014(Xem: 15255)
Chưa ai thực thụ hay đã “định cư„ Cõi Cực Lạc của Đức A Di Đà để biết thế nào rồi...hiện hồn về kể cho chúng ta nghe. Thế nhưng bấy lâu, dựa theo kinh sách và óc tưởng tượng của mọi người đều phác họa một cảnh giới cực lạc đầy hoa thơm cỏ lạ, suối róc rách reo, chim muông ca hót, mây lững lờ trôi, gió vi vu thổi, rừng cây sum sê ăn trái, núi bốc hương thơm, sông hồ cá lững lờ lội, và cả châu báu kim cương, mã não, hổ phách…đầy đường đầy nhà muốn lúc nào cũng có…!
06/08/2014(Xem: 17143)
Vu Lan báo hiếu lại về, Khắp nơi phật tử nhất tề dâng hương. Người người già trẻ bốn phương, Lên cầu cho mẹ, mến thương hết lời. Cửa chùa mở rộng đón mời, Hỏi thăm hiền mẫu trên đời còn không, Mẹ còn, chùa lấy hoa hồng, Cài lên vạt áo, cho lòng thêm tươi. Người nào mẹ đã qua đời, Thì cài hoa trắng, gửi lời nhớ thương.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]