Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vợ chồng chị Lan anh John mến mộ đạo Phật, thực tập tinh tấn

06/11/201621:04(Xem: 6923)
Vợ chồng chị Lan anh John mến mộ đạo Phật, thực tập tinh tấn


Lan John 5

Vợ chồng chị Lan anh John mến mộ đạo Phật, thực tập tinh tấn


Lần nọ của nawm xưa, chúng tôi tham gia 1 khóa tu tại Packchong, Thái Lan. Theo quy định của bất cứ khóa tu nào, nam ở riêng và nữ ở riêng, bất kể là vợ chồng hay mẹ con. Tôi ở cùng 1 người đàn ông phương tây trong 1 căn phòng cho khoảng hơn chục Phật tử. Người đàn ông này khá ít nói, rất nhẹ nhàng, tham gia nghiêm túc các thời khóa. Tôi rất có cảm tình với anh bởi anh hiền hậu, dễ mến, có giọng nói nhỏ và dễ gần. Tôi hay nói chuyện với anh bằng tiếng Anh. Khi giới thiệu tên, thấy chữ Hùng khó phát âm và khó nhớ, thế là thay vì gọi là Hùng tôi có tên là Henry. Còn anh tên là John.

Sau đó tôi biết rằng anh có vợ gốc Việt Nam. Vợ anh tên là Lan. À ra vậy. Thì ra anh John theo vợ đi khóa tu. Tôi thầm khâm phục chị vợ tên Lan nào đó đã khéo léo lôi kéo thêm được chồng mình, một người phương tây đi theo đạo Phật.

Một chuyện làm tôi khá khó chịu rằng chị Lan – vợ anh John hay đến khu vực nam giới của chúng tôi. Tôi khó chịu bởi đang tu tập, phân khu riêng mà tại sao chị lại làm như vậy. Nhưng dần dần tôi tập trung vào chánh niệm, vào tu tập nên chuyện khó chịu về chị Lan cũng bớt dần.

Thì ra chị Lan mang quần áo cho anh John tắm, lấy quần áo bẩn về giặt. Lúc thì chị Lan mang cho anh John miếng bánh, khi thì cái kẹo. Quan sát tôi thấy anh chị rất tình cảm với nhau. Khi đi thiền hành anh chị hay đi cùng nhau. Chị Lan thường bắt anh đội mũ khi trời sáng sớm hay đêm khuya lạnh. Chị nói với anh rất nhẹ nhàng và tràn đầy yêu thương. Do anh chị nói chuyện với nhau bằng tiếng Anh nên tôi hiểu hết. Chị lan chăm anh John hết mình. Ôi một người phụ nữ Việt Nam tuyệt vời!

Lan John 10

Tình cảm của tôi với anh chị lớn dần. Tôi quý anh lắm vì anh rất nhẹ nhàng và trầm tính. Tôi cảm giác anh John không  bao giờ nóng tính, khác hẳn với tôi – tu mãi mà vẫn nóng. Tôi rất quý chị Lan và càng ngày tôi càng nhận ra tình yêu chồng của chị lớn vô cùng. Không biết tự bao giờ, trong não tôi hiện ra suy nghĩ “đây là người vợ yêu chồng nhất mà tôi từng gặp”.

Khóa tu kết thúc, chúng tôi về Hà Nội còn anh chị đi làm từ thiện ở vùng núi cao của Thái Lan. Anh chị đi 1 tháng.

Chúng tôi đón anh chị ở Hà Nội. Được nghe anh chị kể cảnh ngủ ở vùng sâu vùng xa Thái Lan với trẻ em nghèo, với vùng đất lạc hậu với bao khó khăn và nguy hiểm làm tôi càng cảm phục. Anh John ăn ngủ trong điều kiện rất thiếu thổn và  mất vệ sinh nữa. Thiếu ngay cả những thứ cơ bản nhất. Có khi anh ngủ cả trên cây. Nghe kể lại tôi không tưởng tượng được làm sao một người đàn ông văn minh phương Tây lại có thể chịu được những điều kiện như vậy. Tôi yêu quý và khâm phục lắm.

Tháng vừa rồi tôi đi công tác Đức. Chương trình do hội sách lớn nhất thế giới Frankfurt Book Fair và bộ Ngoại giao Đức mời. Chuyến đi chính thức là 10 ngày do phía bạn đài thọ hoàn toàn. Tôi chỉ có 3 buổi diễn thuyết còn lại là kết nối ngành xuất bản và truyền bá sách. Chương trình của chúng tôi là International Programm với sự tham gia của 24 giám đốc và lãnh đạo của 24 công ty sách đến từ 24 quốc gia trên toàn cầu.

Ngày gần sát cuối cùng, tôi nhận được nhắn tin và điện thoại của chị Lan. Hóa ra anh chị định cư ở Đức. Anh chị rất muốn mời tôi đến nhà và sinh hoạt với tăng thân. Hóa ra chỗ anh chị sinh sống chỉ cách Frankfurt, nơi khách sạn của tôi chừng hơn 1 tiếng lái xe. Vì tôi không thông thạo đường xá và thời gian hạn hẹp nên anh chị nhờ 1 người bạn lên tận hội sách đón. Chúng tôi kết thúc ngày làm việc cuối cùng và lên xe đi ngay, mang theo cả đồ đạc hành lý.

Tôi ở chơi với anh chị Lan John trọn 1 ngày. Một ngày rất quý giá với người phương xa như tôi. Hình như đây là lần đầu tiên tôi được đến 1 ngôi nhà của người Việt ở châu Âu.

Đến nơi tôi thật sự ngỡ ngàng. Tôi như được đến 1 ngôi chùa. Nhà anh chị có rất nhiều tượng Phật, nhiều kinh. Phòng thờ Phật rất đẹp và trang nghiêm. Chúng tôi đã cùng nhau ngồi thiền, tụng kinh, niệm Phật ở thiền đường. Phải mến mộ đạo Phật lắm mới có tượng Phật đẹp thế chứ. Phải tu tập miên mật và đều đặn lắm mới âm cúng thế chứ. Nhiều năng lượng vô cùng.


Lan John 1
Lan John 8


Ngày hôm sau tôi mới có cơ hội ra thăm vườn. Tôi ngỡ ngàng thấy một bức tượng Phật bằng đá rất đẹp và sâu sắc. Hỏi ra mới biết đây là sự quan tâm của Hòa thượng Minh Đức Triều Tâm Ảnh. Chị Lan kể rằng lần về Việt Nam anh chị đã đến thăm Hòa thượng. Khi chị  bày tỏ tấm lòng rất muốn có tượng Phật bằng đá từ Việt Nam để thờ phụng và chiêm bái mỗi ngày, Hòa thượng đã nhận đứng ra lo liệu. Chị cứ nhắc đi nhắc lại rằng anh chị được Hòa thượng thương lắm. Rằng anh chị tu tập và gặp rất nhiều may mắn.

Trong ngôi nhà của anh chị thật sự có rất nhiều tượng Phật. Nhiều lắm. Tôi lấy máy điện thoại ra chụp vài bức. Ngôi nhà của anh chị thật là đẹp và tràn ngập năng lượng. Thích nhất là phòng nào cũng có tượng Phật ở đủ các tư thế. Chỉ cần ngồi ngắm tượng Phật thôi tôi đã thấy bình an lắm rồi. Phải mến mộ đạo Phật lắm mới có nhiều tượng Phật thế chứ, nhất là phải vận tải từ rất xa về.

Tôi thật sự như về nhà người thân. Chỉ là Phật tử với nhau mà anh chị chăm sóc chúng tôi quá chu đáo. Rất nhiều thức ăn ngon và quý được anh chị chuẩn bị. Chị đi chợ mua những loại nho ngon nhất, các loại rau thơm Việt Nam nhất. Quả thật là sau 10 ngày ở Đức toàn ăn bánh mỳ với bơ và ph mai, bữa cơm Việt Nam này làm tôi xúc động vô cùng.

Tôi được ưu tiên cho chiếc giường rất đẹp và ấm cúng. Tôi được anh chị đốt lò sưởi gỗ cho thưởng thức. Tôi được mời trà, sô cô la và bánh kẹo cùng tấm lòng thiện lành thân mật. Tôi và anh John nói chuyện với nhau rất nhiều. Anh kể về cuộc đời với tuổi thơ vất vả, về công việc anh đi làm trước khi nghỉ hưu, về tình yêu đối với Việt Nam và đức Phật. Giọng anh nhỏ, ấm, thân thiện làm tôi càng thêm quý anh.

Anh chị rất yêu nhau. Khi chị nấu cơm thì anh ra giúp chuẩn bị rau. Khi sắp cơm, anh giúp lấy bát. Tôi dùng máy ảnh chộp được cảnh 2 anh chị cùng nhau mang củi từ ngoài vườn vào và đốt lò sưởi chiêu đãi tôi. Ngồi nghe lửa tí tách nổ và ngắm ánh lửa hồng từ lò tỏa ra thấy ấm áp lạ thường. Mấy hôm nay nhiệt độ quãng 7 độ.

Nhà anh chị có 1 bàn trà. Anh John nhường cho tôi chiếc ghế anh vẫn ngồi. Anh bảo, khi về Việt Nam. Henry nhớ chiếc ghế anh John vẫn ngồi nhé. Hóa ra từ chỗ ngồi này ngắm thẳng ra bức tượng Phật bằng đá từ Việt Nam của Hòa thượng Minh Đức Triều Tâm Ảnh. Cảnh đẹp vô cùng. Tôi ngồi uống trà nóng và ngắm Phật rất hiền như đang yêu thương chúng tôi.

Anh chị có 1 chiếc ấm trà bắc trên 1 chiếc giá in ốc nhỏ và để ngọn nến bên dưới. Để trà luôn nóng.  Tôi thấy đẹp, ấm cúng và dễ thương nữa. Thế là anh chị mang ra mấy bộ đề nghị tôi chọn bộ ưng ý nhất để mang về Việt Nam. Tôi phải từ chối mãi mới được vì biết hành lý quá cân. Sách chúng tôi mua, được tặng và sách mẫu mang về khá nhiều. Biết tôi mê sách, anh chị lục trong tủ sách của mình ra một cuốn. Chị nói rằng cuốn này rất cổ, rất quý, rất hay, không tái bản nữa. Cuốn sách viết về Hít Le. Tôi thật thà không dám nhận, bởi ở Việt Nam sách được kiểm duyệt rất chặt. Tôi mà nhận về, sách thì chưa đọc, nhỡ có nội dung gì mà nhà nước cấm thì gay to. Anh chị hiểu và ngậm ngùi cất lại vào tủ.

Ở châu Âu chùa không nhiều. Muốn đến chùa phải đi cả vài trăm km, có khi còn xa hơn.  Vậy nên tu tại gia là rất quan trọng. Vậy nên đạo tràng hay tăng thân là vô cùng quan trọng. May thay, gia đình anh chị có 2 thành viên là 2 Phật tử. Tôi thấy ấm lòng và hạnh phúc vô cùng. 2 anh chị sách tấn nhau tu tập, cùng trợ duyên nhau tu tập thì còn gì bằng. Ôi đạo tràng 2 người. Ôi tăng thân với 2 đạo hữu.

Trước khi tôi rời nhà anh chị về Frankfurt để bay về Việt Nam, chị ra cửa hàng mua hạt dẻ. Đoàn công ty sách Thái Hà của chúng tôi có 4 thành viên nên chị mua 4 kg và thêm những thanh sô cô la rất ngon nữa. Thật cảm động. Chị bảo, món này ở Việt Nam có tiền cũng không mua được.

Anh chị khoác áo ấm ra đường. Trời mưa và khá lạnh. Trong lúc đợi xe nổ máy và anh bạn lái xe chở tôi đang nhập dữ liệu để bản đồ chỉ đường cho xe chạy về khách sạn, tôi ngắm anh chị đứng cạnh nhau rất tình cảm và tràn đầy yêu thương. Tôi hạnh phúc vô cùng về cặp vợ chồng tuyệt vời này. Tôi thầm nghĩ, nếu không tu tập tinh tấn, nếu không mến mộ đạo Phật làm sao cặp vợ chồng anh chị Lan John có thể hạnh phúc và có tâm đến vậy.

Về đến Hà Nội đã nhận được email của anh chị. Vừa mở máy ra lại thấy nhắn tin của anh John. Những dòng chữ rất thật, tình cảm và đầy chất thiền. Tôi ngồi thiền ít phút và ngồi gõ lại những dòng ngắn này. Những dòng này may chăng chỉ miêu tả được vài phần trăm về cặp vợ chồng Phật tử quý hiếm này. Chợt nghĩ, với điều kiện khó khăn và xa xôi vậy mà anh chị Lan John vẫn tu tập tốt, vậy mà ngay tại Việt Nam, chùa nhiều, thầy lắm, chẳng nhẽ mình không tu tập tử tế được ư. Tôi ngồi ngắm bức tượng Phật nhỏ màu đen mang từ Borobudur Indonesia về và thầm mong những ai đọc được những dòng này gắng lòng cùng nhau tu tập.


Frankfurt & Hà Nội đầu tháng 11/2016

Thiện Đức Nguyễn Mạnh Hùng



          


  

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/05/2021(Xem: 4935)
Không nói được tiếng Tây Tạng và chưa bao giờ dịch tác phẩm nào nhưng Evans-Wentz được biết đến như một dịch giả xuất sắc các văn bản tiếng Tây Tạng quan trọng, đặc biệt là cuốn Tử Thư Tây Tạng ấn bản năm 1927. Đây là cuốn sách đầu tiên về Phật giáo Tây Tạng mà người Tây Phương đặc biệt quan tâm. Ông Roger Corless, giáo sư Tôn Giáo Học tại đại học Duke cho biết: “Ông Evans-Wentz không tự cho mình là dịch giả của tác phẩm này nhưng ông đã vô tình tiết lộ đôi điều chính ông là dịch giả.”
15/05/2021(Xem: 5083)
Ngay sau tác phẩm Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, người đọc lại được đón đọc Vua Là Phật - Phật Là Vua của nhà văn Thích Như Điển. Đây là cuốn sách thứ hai về đề tài lịch sử ở thời (kỳ) đầu nhà Trần mà tôi đã được đọc. Có thể nói, đây là giai đoạn xây dựng đất nước, và chống giặc ngoại xâm oanh liệt nhất của lịch sử dân tộc. Cũng như Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, tác phẩm Vua Là Phật - Phật Là Vua, nhà văn Thích Như Điển vẫn cho đây là cuốn tiểu thuyết phóng tác lịch sử. Nhưng với tôi, không hẳn như vậy. Bởi, tuy có một số chi tiết, hình ảnh tưởng tượng, song dường như rất ít ngôn ngữ, tính đối thoại của tiểu thuyết, làm cho lời văn chậm. Do đó, tôi nghiêng về phần nghiên cứu, biên khảo, cùng sự liên tưởng một cách khoa học để soi rọi những vấn đề lịch sử bấy lâu còn chìm trong bóng tối của nhà văn thì đúng hơn. Ở đây ngoài thủ pháp trong nghệ thuật văn chương, rõ ràng ta còn thấy giá trị lịch sử và hiện thực thông qua sự nhận định, phân tích rất công phu của
15/05/2021(Xem: 4433)
Ấm ma là hiện tượng hóa ngôn ngữ. Trong kinh Lăng Nghiêm nói đến 50 ấm ma là nói đến biến tướng của nghiệp thức, của các kiết sử thông qua lục căn từng giao tiếp với lục trần trên nền tảng “ sắc-thọ-tưởng-hành-thức”.
15/05/2021(Xem: 4104)
Đọc xong tác phẩm nầy trong một tuần lễ với 362 trang khổ A5, do Ananda Viet Foundation xuất bản năm 2017, Bodhi Media tái xuất bản tại Hoa Kỳ trong năm 2020 và tôi bắt đầu viết về Tác phẩm và Tác giả để gửi đến quý độc giả khắp nơi, nếu ai chưa có duyên đọc đến. Nhận xét chung của tôi là quá hay, quá tuyệt vời ở nhiều phương diện. Phần giới thiệu của Đạo hữu Nguyên Giác gần như là điểm sách về nhiều bài và nhiều chương quan trọng trong sách rồi, nên tôi không lặp lại nữa. Phần lời bạt của Đạo hữu Trần Kiêm Đoàn cũng đã viết rất rõ về sự hình thành của Gia Đình Phật Tử Việt Nam ở trong nước, từ khi thành lập cho đến năm 1975 và Ông Đoàn cũng đã tán dương tuổi trẻ Việt Nam cũng như tinh thần học Phật, tu Phật và vận dụng Phậ
10/05/2021(Xem: 4694)
Chỉ có bốn chữ mà hàm chứa một triết lý thâm sâu ! Chỉ có bốn chữ mà sao chúng sanh vẫn không thực hành được để thoát khỏi sự khổ đau ? Nhưng cũng chỉ bốn chữ này có thể giúp chúng sinh phá được bức màn vô minh, đến được bến bờ giác ngộ, thoát vòng sinh tử !
08/05/2021(Xem: 4156)
Chủ đề bài này là nói về tỉnh thức với tâm không biết. Như thế, nghĩa là những gì rất mực mênh mông, vì cái biết luôn luôn là có hạn, và cái không biết luôn luôn là cái gì của vô cùng tận. Cũng là một cách chúng ta tới với thế giới này như một hài nhi, rất mực ngây thơ với mọi thứ trên đời. Và vì, bài này được viết trong một tỉnh thức với tâm không biết, tác giả không đại diện cho bất kỳ một thẩm quyền nào. Độc giả được mời gọi tự nhìn về thế giới trong và ngoài với một tâm không biết, nơi dứt bặt tất cả những tư lường của vô lượng những ngày hôm qua, nơi vắng lặng tất cả những mưu tính cho vô lượng những ngày mai, và là nơi chảy xiết không gì để nắm giữ của vô lượng khoảnh khắc hôm nay. Khi tỉnh thức với tâm không biết, cả ba thời quá, hiện, vị lai sẽ được hiển lộ ra rỗng rang tịch lặng như thế. Đó cũng là chỗ bà già bán bánh dẫn Kinh Kim Cang ra hỏi ngài Đức Sơn về tâm của ba thời.
04/05/2021(Xem: 3600)
Một khi Đức Đạt Lai Lạt Ma rời Tây Tạng, ngài sẽ phải đối diện với nhiệm vụ khó khăn về việc nói với thế giới những gì đã xảy ra ở quê hương ngài và cố gắng để có được sự giúp đở cho người dân của ngài. Ngài cũng phải chạm trán với sự tuyên truyền của truyền thông Tàu Cộng rằng ngài đã bị bắt cóc. Tuy nhiên, nhu cầu thiết yếu nhất là để bảo đảm nhà ở và thực phẩm cho những người Tây Tạng đã đi theo ngài lưu vong. Ngài đã hướng đến chính phủ Ấn Độ, và họ đã không làm ngài thất vọng. Trong thực tế, Ấn Độ cuối cùng đã tiếp nhận hơn một trăm nghìn người tị nạn, cung cấp chỗ ở, và nuôi dưỡng họ, cho họ làm việc, và thiết lập những ngôi trường đặc biệt cho trẻ em Tây Tạng. Những tu viện Phật giáo Tây Tạng cũng được xây dựng ở Ấn Độ và Nepal.
30/04/2021(Xem: 6881)
Thưa Tôi. Hôm nay là ngày sinh nhật của Tôi, xin được phép thoát ra khỏi cái tôi để nhìn về tôi mà phán xét và đưa ra cảm nghĩ. Hình dạng tôi đã già rồi, tóc đã bạc hết cả đầu. Tôi đã trải qua một thời gian dài sinh sống làm việc và cuối đời nghỉ hưu. Tôi đã bắt đầu thấm thía cái vô thường của thời gian mang lại. Tôi cũng đã thấm thía cái sức khỏe đã đi xuống nhanh hơn đi lên. Tôi cũng đã thấm thía tình đời bạc bẽo cũng như tình cảm (Thọ) là nỗi khổ đau của nhân sinh. Tôi cũng đã hiểu rõ thế nào là ý nghĩa đích thực của cuộc sống, đó là bất khả tương nghị không thể thốt lên thành lời. Chỉ có im lặng là đúng nghĩa nhất. Ngày xưa khi lục tổ Huệ Năng của Thiền tông chạy trốn mang theo y bát thì thượng tọa Minh rượt đuổi theo để giết lấy lại. Đến khi gặp mặt thì lục tổ mang y bát ra để trên tảng đá rồi núp dưới tảng đá bảo thượng tọa Minh hãy lấy y bát đi mà tha chết cho người. Thượng tọa Mình lấy bát lên, nhắc không lên nổi vì nó quá nặng bèn sợ hãi mà quỳ xuống xin lục tổ tha c
30/04/2021(Xem: 6956)
Thiền Uyển Tập Anh chép Đại sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu (933 – 1011) tu ở chùa Phật Đà, Thường Lạc nay là chùa Đại Bi núi Vệ Linh Sóc Sơn, Hà Nội. Ngài thuộc thế hệ thứ 4 Thiền phái Vô Ngôn Thông. Ngài người hương Cát Lợi huyện Thường Lạc, nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội, thuộc dòng dõi Ngô Thuận Đế (Ngô Quyền). Theo Phả hệ họ Ngô Việt Nam, Thiền sư Ngô Chân Lưu tên huý là Xương Tỷ, anh trai Thái tử - Sứ quân Ngô Xương Xý, con Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập, cháu đích tôn của Ngô Vương Quyền. Ngài dáng mạo khôi ngô tuấn tú, tánh tình phóng khoáng chí khí cao xa, có duyên với cửa Thiền từ năm 11 tuổi.
27/04/2021(Xem: 5053)
Tánh Không ra đời một thời gian dài sau khi đức Phật Nhập diệt do Bồ tát Long Thọ xiển dương qua Trung Quán Luận. Mặc dầu khi còn tại thế đức Phật có nói về Tánh Không qua kinh A hàm và Nikaya. Nơi đây Phật có nói về tánh xuất gia của hành giả đi tu. Hạng người tâm xuất gia mà thân không xuất gia thì gọi là cư sĩ. Và hạng người tâm và thân xuất gia thì gọi là tỳ kheo. Tánh Không cũng có hiện hữu trong kinh Tiểu không bộ kinh trung bộ. Phật có dạy: nầy Ananda, Ta nhờ ẩn trú Không nên nay ẩn trú rất nhiều. Kế tiếp Phật có dạy trong kinh A hàm về các pháp giả hợp vô thường như những bọt nước trôi trên sông: sự trống không của bọt nước.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]