Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tuyên Ngôn của Đức Đạt Lai Lạt Ma về trách nhiệm toàn cầu

15/09/201621:03(Xem: 8533)
Tuyên Ngôn của Đức Đạt Lai Lạt Ma về trách nhiệm toàn cầu

 

TUYÊN  NGÔN của Đức  ĐẠT-LAI  LẠT-MA

về TRÁCH NHIỆM TOÀN CẦU

 

Mối quan tâm của tôi trải rộng đến từng thành phần trong gia đình nhân loại, đúng hơn là đến tất cả chúng sinh đang phải gánh chịu khổ đau. Tôi tin rằng sự thiếu hiểu biết là nguyên nhân của tất cả mọi khổ đau. Chỉ vì đuổi bắt hạnh phúc và các sự thích thú ích kỷ mà chúng ta gây ra khổ đau cho kẻ khác. Thế nhưng hạnh phúc đích thật thì chỉ phát sinh từ tình nhân ái chân thật mà thôi. Chúng ta cần phải huy động ý thức trách nhiệm toàn cầu giữa mỗi người trong chúng ta và đối với cả hành tinh này, nơi mà chúng ta cùng chung sống.

                                                                                                                            Đức Đạt-lai Lạt-ma

 

 

Lời giới thiệu của người dịch

 

            Khoảng giữa năm 2016, Đức Đạt-lai Lạt-ma và bà Sofia Stril-Rever, chuyên gia tiếng Phạn, Tây Tạng học, nhà văn và cũng là đệ tử của Ngài đã cho phát hành một quyển sách nêu lên những vấn đề nóng bỏng của thế giới ngày nay: sự tàn phá môi sinh, tình trạng hung bạo và bất công xã hội. Sự ý thức về trách nhiệm của mỗi con người chúng ta đối với xã hội, con người và sự sống nói chung trên hành tinh này trở nên thật hết sức khẩn thiết.

 

            Đặc biệt nhất quyển sách này đã long trọng công bố "Bản Tuyên Ngôn của Đức Đạt-lai Lat-ma về Trách nhiệm toàn cầu", và đây cũng là chủ đích của quyển sách này. Bản tuyên ngôn gồm có hai phần:

 

            Phần I:  Ba ý thức về trách nhiệm toàn cầu

            Phần II: Mười một sự dấn thân vì sự sống.

 

            Phần I sẽ được chuyển ngữ dưới đây.

 

 

Tuyen-ngon-cua-Duc-DLLM

Hình bìa quyển sách

"Hiện Thực mới, thời đại của trách nhiệm toàn cầu"

 

 

 

BA Ý THỨC VỀ TRÁCH NHIỆM TOÀN CẦU

 

 

            Theo yêu cầu của Đức Đạt-lai Lạt-ma và dựa vào tinh thần giáo huấn của Ngài, bản văn này được trước tác bởi Bà Sofia Stril-Rever, sau đó đã được sửa chữa và công bố bởi Đại Đức Samdhong Rinpoché; Giáo sư Robert Thurman chủ tịch Tibet House (Trung Tâm Văn Hóa Tây Tạng tại Hoa Kỳ), giáo sư thực thụ phụ trách phân khoa Tây Tạng Học "Je Tsongkhapa" tại đại học Columbia tại Nữu Ước; Giáo sư Eric Itzkin giám đốc tổ chức "Immovable Heritage" tại Johannesburg (Nam Phi) và cũng là người viết tiểu sử của Mahatma Gandhi.

             

            Bản tuyên ngôn này đã được Đức Đạt-lai Lạt-ma duyệt lại tại Oxford ngày 15 tháng 9 năm 2015 trước khi phổ biến.

 

 

 Ý THỨC THỨ NHẤT

 

AN BÌNH TRONG NỘI TÂM

VÀ CHIA SẺ MỘT HIỆN THỰC CHUNG TRONG SỰ SỐNG

 

 

            Sinh ra trên Địa Cầu này, tôi là đứa con của sự sống giữa lòng vũ trụ.

 

(chữ "tôi" ở đây và trong toàn bản tuyên ngôn này không chỉ có nghĩa là Đức Đạt-lai Lạt-ma mà là mỗi người trong chúng ta. Trong bản gốc tiếng Pháp chữ "tôi" được chỉ định thật rõ rệt là ở cả hai thể giống đực và cái - ghi chú thêm của người dịch).

 

            Trong số vốn liếng di truyền của tôi có cả thông điệp của vũ trụ này. Tôi được kết nối với tất cả chúng sinh khác và cùng chia sẻ một hiện thực chung của sự sống.

 

            Năng lực giúp con tim tôi đập cũng dự phần vào sự xoay vần của Địa Cầu và cả thiên hà. Nhịp thở là sự chuyển động làm cội nguồn cho sự sống, mỗi hơi thở của tôi đều hòa nhập với hơi thở của tất cả chúng sinh và cả hơi thở mênh mông của toàn thể vũ trụ.

 

            Trí tuệ nguyên sinh của các dân tộc từ nghìn xưa đã quán thấy được bí quyết mang lại hòa bình cho con người và thế giới. Thế nhưng từ khi xảy ra cuộc Cách mạng kỹ nghệ, con người đã đánh mất đi cái bí quyết ấy. Con tim trở nên sắt đá, con người gây chiến chống lại con người, và chống lại cả sự sống. Độc tố trong tâm thức con người đã đầu độc người mẹ Địa Cầu, làm cho các dòng sông bị nhiễm độc, đại duơng bị axít hóa , không khí bị ô nhiễm. Trong các vùng đô thị và khắp năm miền lục địa, hơi nóng trong không khí tăng cao khiến trở nên khó thở, để rồi trong tương lai sẽ khó tránh khỏi các thảm họa mang lại những khổ đau mênh mông.

 

            Thế nhưng con người trong thời đại tân tiến ngày nay vẫn còn tiếp tục tìm kiếm một lối thoát êm ả, an bình, không gây tổn thương cho nội tâm. Ngành Vật lý học hiện đại, cũng tương tự như các triết thuyết trong thời đại then chốt (1) nêu lên các nguyên lý căn bản về sự tương liên và tương tác, không những thuộc lãnh vực  vật chất mà cả tâm linh và xúc cảm. Tôi hiểu rằng mỗi hành động, ngôn từ và tư duy của tôi đều lưu lại những vết hằn trên dòng tri thức và sẽ trường tồn qua không gian và thời gian. Những hành động thù nghịch của tôi sẽ làm dâng cao những ngọn sóng hận thù và tàn phá, dậy lên trong đại dương khổ đau của thế giới này. Những hành động thương yêu và nhân từ của tôi sẽ hóa thành những gợn sóng hân hoan lan rộng đến các ranh giới tận cùng của vũ trụ.

 

            Tôi ý thức được rằng sự an vui của tất cả chúng sinh tùy thuộc vào sự quân bình của các hệ thống môi sinh, các hệ thống này lại tùy thuộc vào sự an bình bên trong con tim của con người và tinh thần tôn trọng công lý của các xã hội con người, trong các xã hội đó không một ai bị gạt ra bên lề, bị thương tổn vì đói khổ, nghèo nàn, xác xơ. Với một tâm thức bình lặng, không thiên vị, không bám víu, không hận thù, tôi xin góp sức duy trì và tái lập sự hài hòa cho sự sống.

 

            Sống với sự an bình và một nội tâm khỏe mạnh, từng hành động của tôi đều nhằm mang lại sự tốt lành cho tất cả chúng sinh, dù là con người hay không phải là con người, và cũng là cả một sự cổ vũ kêu gọi mọi người hãy sống trong niềm hân hoan của tình thương yêu toàn cầu, tương tự như một sự sống bên trong sự sống.

 

 

Ý THỨC THỨ HAI

 

NHÂN TÍNH TRONG NỘI TÂM CỦA CHÚNG TA

 

 

            Sinh ra trên Địa Cầu này, tôi là đứa con của sự sống, giữa lòng nhân loại và cũng là gia đình của tôi.

 

            Những mối dây buộc chặt kết nối tôi với với 7 tỉ anh chị em tôi và tất cả các chúng sinh khác dù không phải là con người, tất cả cùng nhau chia sẻ một cuộc phiêu lưu giữa sự sống này. Tôi ý thức được rằng những ai đến gần với chúng ta là những người hàm chứa một sức mạnh to lớn hơn nhiều so với những kẻ tách ra xa chúng ta, và rất thường thì họ là những người chia rẽ chúng ta.

 

            Dầu da tôi màu gì, tôi mang quốc tịch nào, theo tôn giáo nào, giàu hay nghèo, niềm tin cá nhân của tôi là gì, thì từ bản chất tôi cũng là một con người như tất cả mọi người, cùng chia sẻ một niềm ước vọng giống nhau là tìm được hạnh phúc, biết thương yêu và được thương yêu. Dựa vào nhân tính bên trong nội tâm tôi, tôi hiểu rằng giữa thời buổi ngày nay tôi không thể nào sống tách ra khỏi thế giới. Các biến cố dù xảy ra ở một nơi nào thật xa xôi cũng đều ảnh hưởng đến tôi và toàn thể hành tinh này. Mỗi khó khăn xảy ra ở một địa phương xa xôi nào cũng tạo ra những tác động toàn cầu, lan ra bên ngoài biên giới quốc gia.  

 

            Tôi ý thức được rằng trong một bối cảnh mà tác động của sự tương liên bị suy giảm vì chủ trương toàn cầu hóa và công nghệ hóa, sự phát triển của xã hội con người và việc bảo vệ môi sinh phải được xây dựng trước hết trên tình tương trợ. Duy nhất chỉ có lòng vị tha mới giúp tôi ý thức được trách nhiệm toàn cầu của tôi và thúc dục tôi hành động vì lợi ích của tất cả chúng sinh.

 

            Sự an bình trong nội tâm, tình thương yêu và lòng từ bi không những nêu lên một lý tưởng cao đẹp, mà còn là một giải pháp thực tế trong bối cảnh của một hiện thực mới, nhằm bảo vệ quyền lợi chung chống lại sự mất gốc của xã hội và sự băng hoại của tinh thần tương trợ.

 

            Trước sự khẩn thiết tạo ra một sự hợp tác chung, tôi hiểu rằng căn bản vững chắc nhất có thể mang lại sự phát triển lâu bền cho toàn thế giới phải được dựa vào sự tu tập của cá nhân tôi, và cũng là để chia sẻ với tất cả mọi người, nhằm mang lại sự an bình nội tâm, tình thương yêu và lòng tử bi.

 

            Đấy là cách làm trổi dậy trong tôi niềm hy vọng và lòng tin vào cộng đồng xã hội trước số phận chung của nhân loại.

 

 

Ý THỨC THỨ BA

 

SATYAGRAHA, HAY SỨC MẠNH CỦA SỰ THẬT

 

 

            Sinh ra trên Địa Cầu này, tôi là đứa con của sự sống, trong lòng sự an bình rộng lớn của thiên nhiên.

 

            Thế nhưng các quyển sử và cả thời sự hằng ngày thường thuật lại sự tiếp diễn không ngừng của chiến tranh, xung đột, thảm họa, cùng các tin ngắn về những sự hung bạo. Thật hết sức dễ để đưa đến kết luận là điều xấu luôn mạnh hơn điều tốt. Thế nhưng sau khi làm cho những sự xao động tâm thần lắng xuống và nhìn vào một chốn thật sâu trong tôi, thì tôi cũng trở thành chính sự an bình. Tôi cũng chạm được vào sự thật trong tôi, sự thật của thương yêu và hiểu biết. Tôi ý thức được sự cần thiết phải trau dồi thêm không những sự hợp lý của lý trí mà cả các khả năng đáng kể khác trong tâm thức tôi, chẳng hạn như tình thương yêu, lòng từ bi, tính hào hiệp và sự tha thứ. 

 

            Tôi ý thức được rằng sức mạnh của điều xấu không mang một nền tảng vững chắc nào, do đó có thể khống chế được nó. Hận thù chỉ là ảo giác, một hình thức tác động của vô minh. Một khi đã trở về được với bản thể đích thật của tôi thì tôi cũng sẽ khám phá ra được tấm lòng rộng lượng vô biên của sự sống trong tôi và cả quyền năng của sự sống đó. Hiện thực sâu xa và vững chắc của lòng từ tâm nêu lên cho tôi thấy rằng satyagraha, sức mạnh của sự thật, một khi được hiển lộ bằng tình thương yêu sẽ trở thành một thứ gì đó thật can trường.  

 

            Vào thời đại Internet và toàn cầu hóa này, mỗi khi cảm thấy bị lèo lái hay bị công cụ hóa bởi nền văn hóa kinh-tế-kỹ-thuật thì tôi ý thức được rằng tôi phải biến mình trở thành hiện thân của sự sáng suốt về một thứ trách nhiệm toàn cầu xây dựng trên sức mạnh của sự thật và tình thương yêu, mà Mahatma Gandhi gọi là satyagraha.  

 

            Satyagraha thường được dịch là "sức mạnh của sự thật" hay "sức mạnh tâm linh", chính là vũ khí mà tôi mang ra sử dụng trong cuộc chiến phi-bạo-lực chống lại mọi sự bất công. Bởi vì một khi sự thật bùng lên xuyên qua con người tôi thì tôi cũng sẽ trở thành một con người vô địch.

 

            Satyagraha đòi hỏi tôi phải chấp nhận khổ đau và hy sinh, nhưng không được phép sử dụng bạo lực, trong cuộc chiến đấu của tôi chống lại tất cả mọi hình thức khai thác và xâm phạm đến chúng sinh, dù là con người hay không phải con người.

 

            Sống với satyagraha trong từng ngày, dù chỉ là một trong số những người khác nhưng cũng cùng chung với họ, tôi sẽ trở thành một người kiến tạo hòa bình, công lý và sự thật. Là công dân của thế giới, tôi xin sẵn sàng chấp nhận những ràng buộc mới của một công dân trước trách nhiệm toàn cầu.     

 

            Không ép buộc cũng không lên án một ai và trong tinh thần kính trọng sự đa dạng, tôi xin làm gương nhắc nhở kẻ khác về quyết tâm nhận lãnh trách nhiệm toàn cầu của mình. Đấy chính là cách giúp cho các thế hệ mai sau có thể trông thấy được vào một ngày nào đó những điều mà tôi hằng ước mơ sẽ xảy đến với thế giới này, dù rằng ngày ấy có thể là tôi sẽ không còn đó để mà trông thấy.

 

            Trong giới hạn của khả năng tôi, với tinh thần hòa bình và tình thương yêu, tôi (2) xin hết lòng kiên trì kiến tạo một hiện thực mới cho Địa Cầu trong tình huynh đệ. 

 

                                                                                    Bures-sur-Yvette, 12.09.2016

                                                                                       Hoang Phong chuyển ngữ

                                                                                   

Ghi chú:

 

1- Câu này hàm ý nêu lên ý niệm triết học về một "thời đại then chốt"/âge axial/axial period, do một triết gia người Đức là Karl Jaspers (1883-1969) đưa ra. Đó là một thời đại rất lạ lùng kéo dài từ các thế kỷ thứ VIII đến thứ II trước Tây Lịch với sự xuất hiện của các bậc vĩ nhân như Khổng Tử, Đức Phật, các kinh Upanisad (Ấn Độ), Zarathoustra (hiền triết Ba Tư, Iran ngày nay), Homer, Plato... (các triết gia Hy lạp), đã mang lại những giá trị thật nhân bản cho con người và nhân loại.

 

2- "Cái tôi" thuờng là một thứ gì đó phải đè bẹp và loại bỏ, thế như "cái tôi" trong trường hợp trên đây thật đẹp và cao cả biết dường nào.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/12/2020(Xem: 4168)
Hoàng đế Phật tử ltan Khan, vị Đại hộ pháp, triều đại của Ngài đã đánh dấu thời đại Phật giáo Mông Cổ Cực thịnh, Ngài là hậu duệ của Thành Cát Tư Hãn và là lãnh tụ của bộ tộc Tümed của Mông Cổ. Vào giữa thế kỷ 16, năm 1578 Ngài bệ kiến Sonam Gyatso, Đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 3 và ban cho Ngài tước hiệu “Đại Dương”, “ám chỉ Hoàng đế Phật tử ltan Khan, vị Đại hộ pháp Trí tuệ Siêu phàm như Biển” Tước hiệu Đạt Lai Lạt Ma cũng được ban cho hai vị Giáo chủ tiền nhiệm của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 3, và tước hiệu này trở thành thông dụng cho tất cả những người kế nhiệm Đức Đạt Lai Lạt Ma Sonam Gyatso về sau này.
21/12/2020(Xem: 7416)
Thơ là chữ viết, nhưng thơ cũng là giữa những dòng chữ. Thơ là lời nói ra, nhưng thơ cũng là giữa những lời nói ra, hiển lộ cả trước và sau lời nói ra. Thơ là ngôn ngữ và thơ cũng là vô ngôn, là tịch lặng. Và là bên kia của chữ viết, bên kia của lời nói. Khi đọc xong một bài thơ hay, khi không còn chữ nào trên trang giấy để đọc nữa, chúng ta sẽ thấy thơ là một cái gì như sương khói, mơ hồ, lung linh, bay lơ lửng quanh trang giấy. Cũng như thế, Kinh Phật là thơ, là lời nói, là tịch lặng, là bên kia ngôn ngữ. Khi bài Tâm Kinh đọc xong, khắp thân tâm và toàn bộ ba cõi sáu đường đều mát rượi, ngấm được cái đẹp của tịch lặng ẩn hiện bên kia những chữ vừa đọc xong. Cội nguồn thơ, cũng là cội nguồn Kinh Phật, đó là nơi của vô cùng tịch lặng, một vẻ đẹp như sương khói phả lên những gì chúng ta nhìn, nghe, cảm xúc và hay biết.
20/12/2020(Xem: 6000)
Trong một thời khắc lịch sử, cả nước đã chứng kiến sự hội tụ của quá khứ, hiện tại và tương lai khi ba thế hệ của triều đại Wangchuck, Vương quốc Phật giáo Buhtan đến viếng thăm khu đất của Pungthang Dewachhenpoi Phodrang vào ngày hôm 16 vừa qua. Lễ Kỷ niệm 113 năm Quốc khánh Vương quốc Bhutan, được tổ chức bên trong Punakha Dzong “Cung điện Hạnh Phúc”, từng là nơi ngự của Lama Zhabdrung Ngawang Namgyel đáng tôn kính hơn 400 năm trước, người đã có công thống nhất Bhutan và làm nền tảng để đất nước này phát triển an bình, thịnh vượng cho đến ngày nay.
20/12/2020(Xem: 5409)
Matxcơva, ngày 15 tháng 12: Hội nghị Bàn tròn trực tuyến với chủ đề “Đối thoại các Tôn giáo trong Thế giới hiện đại, Dialogue of Religions in Modern World“ do Học viện Ngoại giao thuộc Bộ Ngoại giao Liên bang Nga, Viện Nghiên cứu Học thuật về Cơ đốc giáo phương Đông (INaSEC) đồng tổ chức tại Khoa Tôn giáo và Thần học (FRT) thuộc Đại học Vrije Amsterdam và Đại học Chính thống Cơ đốc giáo, Nga nhân danh Thánh John Divine.
19/12/2020(Xem: 6165)
Cơ quan Chính quyền Trung ương Tây Tạng lưu vong (CTA) cho biết, Tôn giả Geshe Tenpa Gyaltsen, vị học giả Phật giáo Tây Tạng đã viên tịch, xả báo thân tại tu viện Gaden Jangtse, miền nam Ấn Độ, theo truyền thông cho hay, Ngài đã “Chết lâm sàng” đến nay gần 1 tháng (26 ngày), nhưng thi thể vẫn không phân hủy. Theo báo cáo của Ban Tôn giáo và Văn hóa thuộc (CTA) cho thấy rằng, Tôn giả Geshe Tenpa Gyaltsen đã đi vào trạng thái nhập thiền định Phật giáo Mật tông hiếm có được gọi là thukdam (Tib: ཐུགས་ དམ་).
19/12/2020(Xem: 5315)
Tòa nhà Quốc hội Vương quốc Phật giáo Bhutan, thủ đô Thimphu, Bhutan. Hôm thứ Năm, ngày 10 tháng 12 vừa qua, cả hai Nghị viện Quốc hội Vương quốc Phật giáo Bhutan đã thông qua dự luật hợp pháp hóa các mối quan hệ đồng tính, biến Vương quốc Himalaya nhỏ bé trở thành quốc gia châu Á mới nhất thực hiện các bước, nhằm nới lỏng các hạn chế đối với các mối quan hệ đồng giới. Trước đó, mục 213 và 214 của bộ Luật Hình sự Vương quốc Phật giáo này quy định xu hướng “Tình dục trái với tự nhiên”, được hiểu rộng rãi là đồng tính luyến ái – không được phép.
19/12/2020(Xem: 5147)
Ngày 10 tháng 12 vừa qua, theo Bình Nhưỡng đưa tin (KCNA) – Trong số những Di sản Văn hóa quý giá đất nước Triều Tiên có “Cao ly Bát Vạn Đại Tạng kinh” (고려 팔만 대장경, 高麗八萬大藏經, 80.000 Wooden Blocks of Complete Collection of Buddhist Scriptures” được khắc mộc bản vào nửa đầu thế kỷ 11, triều đại Vương quốc Koryo (918-1392).
19/12/2020(Xem: 5060)
Lối xưa người đến dạo chơi, Hoá thành chú Tiểu, học lời Thầy Trao. Thênh thang mây trắng hôm nào, Ra vào chốn tịnh, trăng sao gối tình.
13/12/2020(Xem: 6078)
Một học giả nổi tiếng người Anh, làm việc cho trường đại học ở Luân Đôn, nổi tiếng vì ông đã dịch một số sách vở Phật giáo từ tiếng Hoa. Trong số những ấn bản đã in của ông có tác phẩm “Cuộc Đời của Thánh Tăng Huyền Trang, The Life of Hsuan-Tsang”. Cư sĩ Samuel Beal sinh vào ngày 27 tháng 11 năm 1825, nguyên quán tại Greens Norton, một ngôi làng ở Nam Northamptonshire, Vương quốc Anh, vị học giả nổi tiếng Phương Đông học, vị Phật tử người Anh đầu tiên trực tiếp dịch những tác phẩm văn học Phật giáo từ tiếng Hoa sang Anh ngữ, ban đầy những ghi chép kinh điển Phật giáo, do đó góp phần làm sáng tỏ lịch sử Ấn Độ.
11/12/2020(Xem: 6076)
Phật giáo Hàn Quốc phải chịu đựng nỗi đau chưa từng có của “Pháp nạn 27.10” (10·27 법난, 十二七法難), nhưng chư tôn tịnh đức tăng già đã biến đau thương thành sức mạnh. Chẳng bao lâu, nỗi đau ấy đã thăng hoa thành động lực để sớm hồi sinh trong phúc lợi xã hội, và những thành tựu đáng kể bắt đầu đạt được trong các lĩnh vực xã hội dân sự, thông qua tổ chức phi chính phủ (NGO), nhân quyền, giao lưu liên Triều (Nam Bắc Hàn) và phúc lợi xã hội.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]