Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

“ Cúng Cô Hồn “ Nhìn Từ Cửa Sổ Xã Hội

07/08/201620:29(Xem: 11054)
“ Cúng Cô Hồn “ Nhìn Từ Cửa Sổ Xã Hội
“ CÚNG CÔ HỒN “
 NHÌN TỪ CỬA SỔ XÃ HỘI
Tháng sáu buôn nhãn bán trâm
 Tháng bảy ngày rằm  xá tội vong nhân.
 ( ca dao)
cung-co-hon-1-man-cung-don-gian

             Trước đây, nhớ mùa Vu lan 2548, khi nhận lời viết bài cho một tạp chí Phật giáo, vị  thầy tổng biên tập có yêu cầu tôi là làm sao đừng nói những điều  người khác đã thường hay nói hoặc những việc  quá cũ để tránh bị trùng lắp, được nhắc đi nhắc lại nhiểu lần , đã trở thành điệp khúc muôn thưở. Nó giống như căn bệnh cố hữu của không ít vị  thầy là hay giảng những gì mình thích mà người khác đã  biết, dù bản thân không  phài là một giảng sư! Tôi chỉ ậm ừ cho qua vì biết  chắc chắn rằng tôi sẽ vẫn phải làm như thế !Không phải không có đề tài để viết, nhưng tự trong thâm tâm vẫn cứ thấy những vấn đề mình  sẽ nêu ra đây đúng là rất cũ, nhưng cuộc sống bên ngoài cửa sổ xã hội kia, khi bước ra nhìn chung quanh vẫn cuồn cuộn những điều tuy rất cũ ấy với cái nhìn có quán xét tư lương, thì nó  lại rất mới, mới liên tục như  trong mỗi tế bào thân thể chúng ta từng sát na thay đổi biết bao lần. Vì vậy bài viết này vẫn không đi ngoài  cơn lốc ấy, có nghĩa vẫn sẽ là một  chuyện rất...cũ !

                     Có một thời gian dài, các phương tiện truyền thông tuyên truyền lên án việc “cúng cô hồn” với rất nhiều  lý do  mang nặng  căn bệnh thiên kiến. Người ta dựa vào hình thức cúng trong  dân gian gọi là “cúng giựt dàn”, “cúng cô hồn” hay “cúng rằm tháng bảy” v...v..rồi thảy tiền cho trẻ con lượm, hoặc  tranh nhau giựt đồ cúng. Thế mới là “cúng cô hồn”! Đó là lý do  để  kích bác;   nào là  khinh miệt trẻ em (ý nói  nghèo đói phài giành giựt mà ăn), và  những thức ăn như khoai, bắp,  cóc, đậu, mía, bánh bò ... bị rơi vãi trong quá trình  “giựt” ấy thì cho rằng lãng phí và khi không xem trọng  của cài xã hội của  người làm ra nó! v..v... và v..v...

                   Chúng ta không trách họ sao chẵng tìm hiểu tường tận ý nghĩa “cái sự cúng kỳ lạ” ấy, và tại sao cá nhân, nhà nhà, tất nhiên cũng không thiếu các cơ quan xí nghiệp, nhà máy (ban đầu  phần đông ở lãnh vực tư nhân) cũng đầu phài cúng như vậy, nấu có điều kiện. nhưng chúng ta tiếc cho họ là tại sao ngay lúc chứng kiến những cảnh tượng “trái tai gai mắt” ấy mà không dừng lại, vào thẳng nhà  người cúng, ngăn càn lại và hỏi tại sai phải cúng như vậy? Còn nữa, đã nhả nhà, người người cúng cô hồn, mà mỗi chợ, mỗi xóm ấp thậm chí mỗi bác tài xế lái xe cũng đều làm như thế mỗi khi đến rằm tháng bảy hàng năm? Không ai bắt buộc ai phải cúng, người có tiền thì có mâm cúng đầy đủ, người  eo hẹp thì một vài cái bánh, chén cháo loãng  trước sân nhà cũng ấm lòng  nghĩa tình  mùa mưa ngâu tháng bảy. Như vậy, “cái sự cúng kỳ lạ” ấy nghiễm nhiên đã trở thành  tập quán cộng đồng nằm trong  một góc văn hóa sống của người Việt từ ngàn xưa. Có người lấy làm khó chịu trước  việc này mà trách móc tại sao cúng  cô hồn sao không cúng ở chùa, đình làng mà lại cúng ở chợ, ở cơ quan, xí nghiệp vá cả  các nhà dân, từng khu xóm ấp!
cung-co-hon-2-man-cung-tuong-doi

                     Nhớ xưa kia, có một lễ hội mang tên “Đổ Giàn” của làng võ An Thái, huyện An Nhơn tỉnh Bình Định, ngày nay đã được các cấp chính quyền sở tại cho phục dựng và tổ chức lại  hằng năm nhân ngày rằm tháng bảy âm lịch. Chính câu ca dao xưa đã thôi thúc trách nhiệm tỉnh Bình Định cho phục hồi lễ hội độc đáo này :

                   Đồn rằng An Thái, Chùa Bà

                  Làm chay, hát bội đông đà quá đông

                  Đàn bà cho chí đàn ông

                 Xem xong “ba ngọ”(*) lại trông đỗ giàn.

                   Tự hào về vùng đất võ An Nhơn của mình ( Trai An Nhơn, gái An Vinh ) hoặc Roi Thuận Truyền, Quyền An Thái ) nên có bên cạnh một lễ hội “Đỗ Giàn” như vậy càng mang thêm ý nghĩa giàu truyền thống nhân văn, trong đó ngàoi  tiêu chí tưởng nhớ côn ơn  các bậc tiền hiền, giáo dục  tinh thần uống nước nhớ nguồn cho mai sai, còn có  thêm ý nghĩa thắt chặt thêm những mối tương duyên, gắn kết nghĩa tình  keo sơn như nhất  với nhau.

                  Tất nhiên  có được  như vậy là  nhờ vào  tinh thần hai ngàn năm Phật giáo VN đã từng bước thắm được vào lối sống, cách sồng xã hội, nhưng bài viết này xin không nói nhiều đến ý nghĩa rằm tháng bảy hay tục lệ “cúng cô hồn” có liên quan  hay ảnh hưởng tinh thần nhà Phật như thế nào, mà chỉ muốn nhấn mạnh  việc ”cúng cô hồn” đã trở thành tập tục -lễ hội dân gian, mang  tính xã hội rất cao. và như thế đã trở thành tài sản “|phi vật thể” quý giá của dân tộc từ rất lâu đời. Chính yếu tố  cộng đồng này này mà “cúng cô hồn” phải cúng ở những nơi công cộng, bên vệ đường, bến sông, đầu chợ.v...v.. và nếu ở tư gia thì nhất thiết phải là ở trước sân. Hướng đến thế giới của người  đã mất, để tưởng nhớ vá chia sớt ấm lạnh cho họ đó là  tinh thần Đại Hùng Lực, Đại Từ Bi to lớn.  Trong thế giới người đà mất ấy vì  nghiệp dĩ vươn mang, khó siêu thoát nên còn vất vưỡng  đó đây chờ  ngày giờ thọ nghiệp nên mới gọi là “cô hồn” hoặc “oan hồn uổng tử” hay “ cô hồn các đản”. Oai linh chư Phật, Bồ Tát  hay những  Long Thần Hộ Pháp khiến những   cô hồn này rất  sợ không dám  đến gần  con người; do đó  Bồ Tát Quán Thế Âm  dùng  hiện thân Đại Sĩ của mình  thành Tiêu Diện để thống lỉnh họ  trên bước đường vất vưỡng nhân ngày “xá tội vong nhân” hằng năm, tiếp nhận từ  tấm lòng Từ Bi nơi con người một giọt nước giài oan, một vật thí ăn cho đỡ lòng tháng ngày vất vưởng.

                        Đến đây, có một điều không thể không  nhắc đến là việc “cúng cô hồn “ như vậy họ có ăn được hay không ! Trước hết có lẽ chúng ta  nên  nhấn mạnh đến tinh thần của  thế giới Hoa Nghiêm  là hãy nhìn và hiểu trong  nhận thức chớ không nên bị mê mờ trong  nhận định theo chiều hưpớng thực dụng đơn điệu. Bởi vì chỉ có cụm từ “ cúng có ăn được không” đã ghì chặt tư duy, quanh quẩn miệng chén của quan niệm thực dụng tội nghiệp, khó có cơ hội thoát ra, ghì chặt  vỏ bọc vô minh khó có cơ hội  thóat ra.  Nhớ lại từ hơn hai trăm năm  trước, khi đất nước ta  nghiêng ngửa bởi ách  nô vong , văn hóa  và bản sắc dân tộc đôi phen đứng bên bờ  hủy họai bởi làn sóng thực dụng, duy ý chí của phương diện vật lý  xâm lấn. Con người muốn bay khỏi mặt đất phải gắn vào lưng đôi cánh của  loài điểu thú. Vì bị đè nặng như vậy cho nên  khó có thể hiểu được  nhân vật Tôn Ngộ Không của cụ Ngô Thừa Ân ( 1500(?)- 1581) với 72 phép thần thông đi mây về gió  như thế nào chứ chưa nói đến nhiều  chuyện ẩn dụ khác! Ông Bụt trong cổ tích, cô tiên trong kho tàng  văn học  cổ  Việt Nam, hay những  con người  có sức mạnh thần thánh, bay về trời v...v...có ai bay lên khỏi mặt đất mà phải gắn đôi cánh chim bao giờ ?
cung-co-hon-3

                     Chính lối nhìn và hiểu bằng cặp mắt thực dụng nong cạn như vậy đã đầy con người  xa rời nguồn gốc, Tổ Tiên, xem thường nơi mình cắt rốn chôn nhao, thậm chí dễ dàng phản bội non sông đất nước, đến mức không còn biết phân biệt phải trái. Câu ca dao xưa ông bà mình lên án thành phần bất hiếu, vô nghì với mẹ cha cũng vì vậy mà  bị hiểu theo  tinh thần thực dụng, nghèo  nhận thức rất đáng thương“Sống thời chẵng chịu cho ăn/ chết thời  cúng tế làm văn tế ruồi”! Để rồi có lẽ chính những lối  “suy tư” lệch lạc này cứ ngày càng bổ sung vào đội ngũ “oan hồn ưổng tử” để ngày rằm tháng bày, “cúng cô hồn” hàng năm mãi còn ?

                       Chúng ta đừng quên ở phương Tây, cũng có lễ hội Halloween ( All Hollows’ Eve) diễn ra  cuối tháng 10 đầu tháng 11 dương lịch hằng năm. Một lễ hội nặng  về Gia Tô giáo. Theo Wikipedia thì đây là  tam nhật mùa các thánh (Allhallowtide) mùa tưởng nhớ các thánh và các tín dồ Gia tô tử đạo. Việc hóa trang  đeo mặt nạ  để trêu chọc và thách đố thần chết. Bên cạnh đó việc hóa trang mặt nạ chủ yếu dành cho cac em bé  thiếu nhi đến gõ cửa từng nhà xin thức ăn, kèn trống, lo ó náo động suốt đêm,  một hình thức mang rất đậm dáng vấp của một loại “cô hồn” ở phương Đông mà chúng ta đang nói đến, người có óc khôi hài  thì chỉ đích danh đó là “cô hồn sống”!

                      Trong thế giới của nhận thức, chuyện  cúng có ăn được hay không,  không thành vấn đề bận tâm, có chăng là kiến tạo được tinh thần Từ bi, lòng tương thân tương ái cao độ, vượt qua biên giới của sự sống chết, làm biên độ giáo dục vững chắc cho chính xã hội đương thời. Nhiều bậc giảng sư ngày trước đã chỉ rõ cho chúng ta thấy Từ bi khác với Bái Ái hay Tình Thương như thế nào. Nói  dễ hiểu là Từ bi được ví như ánh sáng mặt trời rọi chiếu  khắp nơi, không phân biệt  hàn sang, giàu nghèo. Còn Bác ái chỉ là ngọn đèn phin  nằm trong tay  tham muốn đối tượng , mục đích của người sử dụng. Đó là Ái Kiến không hơn không kém. Vì thế  hai  từ Từ Bi hiện nay đã được sử dụng  rộng rải, không còn là của riêng Phật giáo, nhiều nơi khác đã dùng chữ Từ Bi , chọn ánh sáng mặt trời thay vì ánh đèn pin nhỏ mọn và ích kỷ.

                        Ở trong mỗi ngôi chùa  thì không đợi đến rằm tháng báy mới “cúng cô hồn” mà mỗi ngày vào buổi xế chiều đều có các thời cúng thí thực đều đặn. Lớn hơn  thì trong các ngày lễ lớn quan trọng  còn có  lễ Trai Đàn Chẩn tế  quy mô. các nghi thức Phật giáo mỗi vùng miền  có khác nhau nhưng tựu trung vẫn là   dựa vào oai thấn Tiêu Diện Đại Sỉ, triệu thỉnh các vong linh để mong cầu giài thoát cho tất cà. Đến với những  cuội lễ này chúng ta dễ dàng cảm nhận giữa hai cõi Âm-Dương bến bờ nào có bao xa! Cũing có thể, qua đó, đôi khi chính mình lầm lẫn giữa ta và “cô hồn” ai là ai ! Vả cũng ở đó  bạn sẽ hiểu thêm câu thơ trong văn tế thập loại chúing sanh của cụ Tiên điền Nguyễn Du ( 1766 - 1820 ) có đoạn : “Ai đến đây dưới trtên ngồi lại/ Của làm duyên chớ ngại bao nhiêu/ Phép thiêng biến ít thành nhiểu/ Trên nhờ Tôn Giả chia đều chúng sinh..” Rất trùng hợp với ý thơ triết lý của thi hào  Ấn Độ Rabindranath Tagore ( 1861 - 1941 )” Trong sự sống thì nhiều biến thành một/ Trong cái chết thì một biến thành nhiều”.

                         Như vậy có thể thấy, việc “cúng cô hồn” mang tính  xã hỗi rất lớn, kết nối được tình thương giữa người và người, giữa hai bờ sống chết. Kiến tạo nê tình đoàn kết nhằm hước đến một cuộc sống hoàn mỹ và hoàn thiện hơn. Vậy chớp nên đem  cái  nhận thức hạn hẹp, biên kiến của mình để đánh giá  ý nghĩa cao đẹp của tập tục “cúng cô hồn” ấy  của người dân Việt chúng ta.

                        Ở một góc hẹp khác của mặt bằng xã hội, có những sự thật trần trụi như muốn vỗ đôm đốp vào mặt chúng ta buộc phải nhìn  và suy gẫm, cho dù có muốn tin là sự thật hay không. Trong cuộc thi viết  mang tên “ Sài gòn- TP.Hồ Chí Minh Kỷ Niệm Không Quên”do báo Tuổi Trẻ tổ chức năm 2005, anh Thiện Nhân, một nhân chứng sống của cát bụi lầm than giữa đất  Sài gòn ngày lang bạt cơ nhỡ, đã có bài viết mang tên cộc lốc“Cúng Cô Hồn” , bài đã đạt giải khuyến khích và đăng trên báo này ngày 02/03/2005. Nôi dung bài viết ấy tác giả kể về tháng ngày  đói  khổ, tìm  sự sống  mà  mùa “cúng cô hồn”  hàng năm giúp anh no đủ  nữa tháng ( “cúng cô hồn” ở tư gia chỉ được bắt đầu từ  sau ngày rằm tháng bảy âm lịch cho đến hết tháng). Hết nhà này tới nhà khác, anh và đám bạn lang thang  no đủ “ nhờ  những vật phẩm ”cúng cô hồn “ ấy   giữa đất Sài thành hoa lệ này.  Sau này khi vượt khó vươn lên, có cuộc sống đủ đầy, hằng năm anh vẫn “cúng cô hồn” ngay trước cửa nhà mình và bố thi lương thực cho người  nghèo như để  nhớ ơn năm xưa chính những  khúc mía, bánh tép, bánh quy, đậu phộng ‘cúng cô hồn” giúp anh no lòng đỡ dạ của những người  Sài gòn năm xưa.
Cung-co-hon-4-man-cung-cua-gian-hang-ven-duong

                    Dòng sau cùng bài dự thi, anh Thiện Nhân viết” Giờ đây, mỗi năm cứ đến mùa Vu Lan, lẫn trong hương khói tôi như thấy cha mẹ mình hiện về. Cảm thương cho những thân phận cơ nhỡ. Người Sài gòn luôn nhớ ‘cúng cô hồn” cho trẻ con được bữa ăn ngon. Tôi cũng bày biện cúng mà nghe mặn đắng trên môi dòng nước mắt hôm nào kiếm ăn giữa xứ người. Sài gòn không không thiếu những tấm lòng, có khi chỉa qua vài cái bánh trên mâm cúng như một thói lệ  xa xưa còn truyền lại../.”

                  Trên mặt bằng xã hội, thử một lần đặt chân bước xuống, chúng ta sẽ chạm phải vô số vấn đề, có vấn đề tuy tầm thường nhưng lắm lúc chúng ta sai lầm trong cách nhìn và hiểu (Kiến Hoặc) mà nếu không được lý giài thì sẽ giữ mãi cái sai lầm đó (TƯ Hoặc) là điều cũng dễ thấy.

                 Vâng ! Vấn đề “Cúng Cô Hồn

 

  Dương Kinh Thành

 

 

------------------------------------------------------------------------------------------------

(*) Ba đêm hát Bội.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/09/2015(Xem: 6829)
Khi ở trong ngôi nhà Nhật, sống với người Nhật trên đất nước Nhật và, được chủ nhà mời đi tắm, khách mới ngỡ ngàng nhận ra: Người Nhật không chỉ có “cung đạo”, “kiếm đạo”, “trà đạo”, “võ sĩ đạo”…, mà còn có “tắm đạo”! Cơm chiều xong khách được chủ nhà trao cho một cái túi vải lớn hơn bàn tay, thêu hoa văn xinh xắn, đầu túi có dây gút, bên trong có cái khăn tay, tuýp kem đánh răng nhỏ, bàn chải và một hộp bằng đầu ngón tay cái đựng chút chất dẻo màu hồng. Chủ nhà còn trao tận tay khách bộ Yukata (giống Kymono nhưng mỏng hơn dành mặc mùa Hè), hướng dẫn cách mặc, rồi giúp khách bới tóc gọn gàng. Nhìn mình tươm tất trong gương, khách thưa: “Chúng ta đi tiếp khách à?”. Chủ thân thiện: “Hây, mời khách đi tắm tập thể ạ.”. Điếng hồn chưa!
28/08/2015(Xem: 9545)
Con đường của Đức Phật là con đường xuất thế, từ bỏ mọi ham muốn và quyền lợi thế tục. Vì vậy, người ta ngạc nhiên khi thấy những Phật Tử thuần thành, nhất là giới xuất gia, lấy lập trường trên những vấn đề chính trị. Ngày 14 tháng Năm vừa qua, một số các vị lãnh đạo Phật giáo ở Mỹ, trong đó có vị Trưởng lão đáng kính, Thầy Bodhi, đã có một buổi họp ở Nhà Trắng để thảo luận những vấn đề quan trọng, khẩn cấp và hiện đại, trong đó có vấn đề thay đổi khí hậu. Sự kiện này đã gây ra một số phẫn nộ trên mạng; thật ra đây không phải là việc khó làm. Một số lập luận rằng tu sĩ Phật Giáo phải hoàn toàn tránh xa lãnh vực chính trị. Tuy nhiên, việc tăng sĩ tham gia vào chính trị không có gì là khác thường. Ở Thái Lan, có một đạo luật dành cho Tăng đòan. Tăng sĩ nước này đã từng tham gia các cuộc biểu tình trên đường phố, đấu tranh cho quyền lợi của mình. Dường như không có trường hợp tăng sĩ Thái Lan biểu tình đấu tranh cho quyền lợi của bất cứ ai khác .
21/08/2015(Xem: 7250)
Chùa Đa Bảo an vị trên ngọn Núi Cô Tiên, thuộc khóm Đường Đệ, phường Vĩnh Hòa, phía Bắc thành phố Nha Trang, được xây dựng vào năm 1996, do Đại đức Thích Giác Mai trụ trì. Những năm trước đây, vùng núi này đìu hiu quạnh quẽ, đường xá đi lại vô cùng gian nan khăn khó, nên rất ít ai được biết đến một tịnh thất đơn sơ mộc mạc hiện hữu trên ngọn núi cao dốc đứng này..
15/08/2015(Xem: 9759)
Đây là cuốn sách thứ 4 của cư sỹ sau 3 cuốn trước “Bài học từ người quét rác”, “Tâm từ tâm”, “Hạnh phúc thật giản đơn”. Cuốn sách là những trải nghiệm thật trong cuộc sống và công việc của ông.Mong rằng mỗi bài viết trong cuốn sách này giúp bạn đọc nhận ra gì đó mới mẻ, có thể là chiếc gương để soi lại chính mình.Và biết đâu ngộ ra được một chân ý cũng nên.Xin trân trọng giới thiệu lời mở đầu của chính tác giả cho cuốn sách mới xuất bản này.
30/07/2015(Xem: 6729)
Lúc hồi còn học ở Thừa Thiên, Các ôn Trưởng Lão thường dạy các Thầy các chú không nên ham biết mật ngữ trong chú nói gì mà cứ nghiệm hiểu đề danh của “Chú” là biết hết cả rồi. Chú tâm mà thọ trì do Tâm cảm tha thiết là Ứng quả rõ ràng. Dịch ra rồi, tất cả mầu nhiệm sẽ biến mất hết. Thú thật lời dạy chí thiết đó, chúng tôi tuy không dám không tin, nhưng lòng vẫn còn muốn khám phá ! Điều hiểu tất đã hiểu, vì ngay nơi đề danh như : Bạt Nhứt Thiết Nghiệp Chướng Căn Bản Đắt Sanh Tịnh Độ Đà La Ni”. Đề Danh qúa rõ, “Nhổ bỏ hết cội gốc phiền não chướng nghiệp tất sanh về Tịnh Độ” Gọi tắt là Vãng Sanh Tịnh Độ Thần Chú.
29/07/2015(Xem: 9556)
.. Phần lớn những cuộc tranh chấp ở đời thường xoay quanh ''những chiếc ghế ''. Lúc đầu, ghế tượng trưng cho chức vụ, chức năng. Dần dần, nó tượng trưng cho chức quyền, chức tước. Ai cũng thích ghế cao và bảo vệ ghế của mình. Con người vẫn bị ám ảnh bởi những chiếc ghế. Chiếu trên, chiếu dưới chẳng phải là chuyện xưa ở đình làng. Ngày nay vẫn có những người cố chiếm cho bằng được chiếc ghế cao để ung dung hưởng thụ hoặc vênh váo với đời.
27/07/2015(Xem: 6917)
Hãy nói về những kẻ không nhà, đứng nơi đầu đường, ngủ nơi góc phố. Lo toan không? khổ đau không? – Khó ai biết; chỉ thấy khi ngửa tay xin ăn thì gương mặt phải lộ ra vẻ thảm thương, tội nghiệp; và khi ngồi co ro nơi ghế đá công viên, hay dưới gầm cầu, thì cả thân người, cả thân phận, như bị gánh nặng của trời cao phủ xuống, nén xuống, tưởng chừng không bao giờ có thể vươn mình lên được.
26/07/2015(Xem: 7302)
Tôi bước xuống sân bay Cần Thơ vào một chiều nắng đẹp. Tôi ít có dịp dùng sân bay ở quê nhà vì các chuyến bay quốc tế tôi thường về Tân Sơn Nhất và ở đây không có chuyến bay kết nối đến Cần Thơ. Ấn tượng đầu tiên là sân bay sạch sẽ, dịch vụ tốt, nhân viên thân thiện, wifi miễn phí chạy êm ru. Tôi đặc biệt thích không gian mở với tầm nhìn phóng ra vườn cây xanh mướt phía ngoài. Sân bay nhỏ nhưng tươm tất, có thể nói là sạch nhất trong số những sân bay mà tôi từng biết ở Việt Nam, và cả ở các sân bay quốc tế trong khu vực Đông Nam Á. Cho điểm 10 dịch vụ cũng không phải là quá hào phóng cho một sân bay địa phương như ở đây.
24/07/2015(Xem: 9290)
Sau khi tìm thấy chú chó bị dán băng keo bịt mõm tại huyện Ba Tri, Bến Tre vào tối 22/7, đoàn cứu trợ từ Sài Gòn đã tức tốc chạy về Bến Tre để chữa trị cho chú chó. Trong quá trình gỡ băng keo ra khỏi mõm chó, nhiều người đã xót xa và bật khóc nức nở.
24/07/2015(Xem: 7037)
Chúng ta mỗi ngày quyết định không biết bao nhiêu việc và phần nhiều là những chuyện không quan trọng. Nhưng có đôi lúc, một quyết định nhỏ có thể ảnh hưởng không chỉ chính mình, mà còn lan rộng đến mọi người chung quanh, như gia đình, bà con, dòng họ, bạn bè, và đôi khi, cả những thế hệ về sau. Đối với chúng ta khi ấy, quyết định đó chỉ là chuyện nhỏ, tầm thường. Nhưng nó thật ra là một quyết định có tính định mệnh trong giây phút đó.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]