Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

“ Cúng Cô Hồn “ Nhìn Từ Cửa Sổ Xã Hội

07/08/201620:29(Xem: 11402)
“ Cúng Cô Hồn “ Nhìn Từ Cửa Sổ Xã Hội
“ CÚNG CÔ HỒN “
 NHÌN TỪ CỬA SỔ XÃ HỘI
Tháng sáu buôn nhãn bán trâm
 Tháng bảy ngày rằm  xá tội vong nhân.
 ( ca dao)
cung-co-hon-1-man-cung-don-gian

             Trước đây, nhớ mùa Vu lan 2548, khi nhận lời viết bài cho một tạp chí Phật giáo, vị  thầy tổng biên tập có yêu cầu tôi là làm sao đừng nói những điều  người khác đã thường hay nói hoặc những việc  quá cũ để tránh bị trùng lắp, được nhắc đi nhắc lại nhiểu lần , đã trở thành điệp khúc muôn thưở. Nó giống như căn bệnh cố hữu của không ít vị  thầy là hay giảng những gì mình thích mà người khác đã  biết, dù bản thân không  phài là một giảng sư! Tôi chỉ ậm ừ cho qua vì biết  chắc chắn rằng tôi sẽ vẫn phải làm như thế !Không phải không có đề tài để viết, nhưng tự trong thâm tâm vẫn cứ thấy những vấn đề mình  sẽ nêu ra đây đúng là rất cũ, nhưng cuộc sống bên ngoài cửa sổ xã hội kia, khi bước ra nhìn chung quanh vẫn cuồn cuộn những điều tuy rất cũ ấy với cái nhìn có quán xét tư lương, thì nó  lại rất mới, mới liên tục như  trong mỗi tế bào thân thể chúng ta từng sát na thay đổi biết bao lần. Vì vậy bài viết này vẫn không đi ngoài  cơn lốc ấy, có nghĩa vẫn sẽ là một  chuyện rất...cũ !

                     Có một thời gian dài, các phương tiện truyền thông tuyên truyền lên án việc “cúng cô hồn” với rất nhiều  lý do  mang nặng  căn bệnh thiên kiến. Người ta dựa vào hình thức cúng trong  dân gian gọi là “cúng giựt dàn”, “cúng cô hồn” hay “cúng rằm tháng bảy” v...v..rồi thảy tiền cho trẻ con lượm, hoặc  tranh nhau giựt đồ cúng. Thế mới là “cúng cô hồn”! Đó là lý do  để  kích bác;   nào là  khinh miệt trẻ em (ý nói  nghèo đói phài giành giựt mà ăn), và  những thức ăn như khoai, bắp,  cóc, đậu, mía, bánh bò ... bị rơi vãi trong quá trình  “giựt” ấy thì cho rằng lãng phí và khi không xem trọng  của cài xã hội của  người làm ra nó! v..v... và v..v...

                   Chúng ta không trách họ sao chẵng tìm hiểu tường tận ý nghĩa “cái sự cúng kỳ lạ” ấy, và tại sao cá nhân, nhà nhà, tất nhiên cũng không thiếu các cơ quan xí nghiệp, nhà máy (ban đầu  phần đông ở lãnh vực tư nhân) cũng đầu phài cúng như vậy, nấu có điều kiện. nhưng chúng ta tiếc cho họ là tại sao ngay lúc chứng kiến những cảnh tượng “trái tai gai mắt” ấy mà không dừng lại, vào thẳng nhà  người cúng, ngăn càn lại và hỏi tại sai phải cúng như vậy? Còn nữa, đã nhả nhà, người người cúng cô hồn, mà mỗi chợ, mỗi xóm ấp thậm chí mỗi bác tài xế lái xe cũng đều làm như thế mỗi khi đến rằm tháng bảy hàng năm? Không ai bắt buộc ai phải cúng, người có tiền thì có mâm cúng đầy đủ, người  eo hẹp thì một vài cái bánh, chén cháo loãng  trước sân nhà cũng ấm lòng  nghĩa tình  mùa mưa ngâu tháng bảy. Như vậy, “cái sự cúng kỳ lạ” ấy nghiễm nhiên đã trở thành  tập quán cộng đồng nằm trong  một góc văn hóa sống của người Việt từ ngàn xưa. Có người lấy làm khó chịu trước  việc này mà trách móc tại sao cúng  cô hồn sao không cúng ở chùa, đình làng mà lại cúng ở chợ, ở cơ quan, xí nghiệp vá cả  các nhà dân, từng khu xóm ấp!
cung-co-hon-2-man-cung-tuong-doi

                     Nhớ xưa kia, có một lễ hội mang tên “Đổ Giàn” của làng võ An Thái, huyện An Nhơn tỉnh Bình Định, ngày nay đã được các cấp chính quyền sở tại cho phục dựng và tổ chức lại  hằng năm nhân ngày rằm tháng bảy âm lịch. Chính câu ca dao xưa đã thôi thúc trách nhiệm tỉnh Bình Định cho phục hồi lễ hội độc đáo này :

                   Đồn rằng An Thái, Chùa Bà

                  Làm chay, hát bội đông đà quá đông

                  Đàn bà cho chí đàn ông

                 Xem xong “ba ngọ”(*) lại trông đỗ giàn.

                   Tự hào về vùng đất võ An Nhơn của mình ( Trai An Nhơn, gái An Vinh ) hoặc Roi Thuận Truyền, Quyền An Thái ) nên có bên cạnh một lễ hội “Đỗ Giàn” như vậy càng mang thêm ý nghĩa giàu truyền thống nhân văn, trong đó ngàoi  tiêu chí tưởng nhớ côn ơn  các bậc tiền hiền, giáo dục  tinh thần uống nước nhớ nguồn cho mai sai, còn có  thêm ý nghĩa thắt chặt thêm những mối tương duyên, gắn kết nghĩa tình  keo sơn như nhất  với nhau.

                  Tất nhiên  có được  như vậy là  nhờ vào  tinh thần hai ngàn năm Phật giáo VN đã từng bước thắm được vào lối sống, cách sồng xã hội, nhưng bài viết này xin không nói nhiều đến ý nghĩa rằm tháng bảy hay tục lệ “cúng cô hồn” có liên quan  hay ảnh hưởng tinh thần nhà Phật như thế nào, mà chỉ muốn nhấn mạnh  việc ”cúng cô hồn” đã trở thành tập tục -lễ hội dân gian, mang  tính xã hội rất cao. và như thế đã trở thành tài sản “|phi vật thể” quý giá của dân tộc từ rất lâu đời. Chính yếu tố  cộng đồng này này mà “cúng cô hồn” phải cúng ở những nơi công cộng, bên vệ đường, bến sông, đầu chợ.v...v.. và nếu ở tư gia thì nhất thiết phải là ở trước sân. Hướng đến thế giới của người  đã mất, để tưởng nhớ vá chia sớt ấm lạnh cho họ đó là  tinh thần Đại Hùng Lực, Đại Từ Bi to lớn.  Trong thế giới người đà mất ấy vì  nghiệp dĩ vươn mang, khó siêu thoát nên còn vất vưỡng  đó đây chờ  ngày giờ thọ nghiệp nên mới gọi là “cô hồn” hoặc “oan hồn uổng tử” hay “ cô hồn các đản”. Oai linh chư Phật, Bồ Tát  hay những  Long Thần Hộ Pháp khiến những   cô hồn này rất  sợ không dám  đến gần  con người; do đó  Bồ Tát Quán Thế Âm  dùng  hiện thân Đại Sĩ của mình  thành Tiêu Diện để thống lỉnh họ  trên bước đường vất vưỡng nhân ngày “xá tội vong nhân” hằng năm, tiếp nhận từ  tấm lòng Từ Bi nơi con người một giọt nước giài oan, một vật thí ăn cho đỡ lòng tháng ngày vất vưởng.

                        Đến đây, có một điều không thể không  nhắc đến là việc “cúng cô hồn “ như vậy họ có ăn được hay không ! Trước hết có lẽ chúng ta  nên  nhấn mạnh đến tinh thần của  thế giới Hoa Nghiêm  là hãy nhìn và hiểu trong  nhận thức chớ không nên bị mê mờ trong  nhận định theo chiều hưpớng thực dụng đơn điệu. Bởi vì chỉ có cụm từ “ cúng có ăn được không” đã ghì chặt tư duy, quanh quẩn miệng chén của quan niệm thực dụng tội nghiệp, khó có cơ hội thoát ra, ghì chặt  vỏ bọc vô minh khó có cơ hội  thóat ra.  Nhớ lại từ hơn hai trăm năm  trước, khi đất nước ta  nghiêng ngửa bởi ách  nô vong , văn hóa  và bản sắc dân tộc đôi phen đứng bên bờ  hủy họai bởi làn sóng thực dụng, duy ý chí của phương diện vật lý  xâm lấn. Con người muốn bay khỏi mặt đất phải gắn vào lưng đôi cánh của  loài điểu thú. Vì bị đè nặng như vậy cho nên  khó có thể hiểu được  nhân vật Tôn Ngộ Không của cụ Ngô Thừa Ân ( 1500(?)- 1581) với 72 phép thần thông đi mây về gió  như thế nào chứ chưa nói đến nhiều  chuyện ẩn dụ khác! Ông Bụt trong cổ tích, cô tiên trong kho tàng  văn học  cổ  Việt Nam, hay những  con người  có sức mạnh thần thánh, bay về trời v...v...có ai bay lên khỏi mặt đất mà phải gắn đôi cánh chim bao giờ ?
cung-co-hon-3

                     Chính lối nhìn và hiểu bằng cặp mắt thực dụng nong cạn như vậy đã đầy con người  xa rời nguồn gốc, Tổ Tiên, xem thường nơi mình cắt rốn chôn nhao, thậm chí dễ dàng phản bội non sông đất nước, đến mức không còn biết phân biệt phải trái. Câu ca dao xưa ông bà mình lên án thành phần bất hiếu, vô nghì với mẹ cha cũng vì vậy mà  bị hiểu theo  tinh thần thực dụng, nghèo  nhận thức rất đáng thương“Sống thời chẵng chịu cho ăn/ chết thời  cúng tế làm văn tế ruồi”! Để rồi có lẽ chính những lối  “suy tư” lệch lạc này cứ ngày càng bổ sung vào đội ngũ “oan hồn ưổng tử” để ngày rằm tháng bày, “cúng cô hồn” hàng năm mãi còn ?

                       Chúng ta đừng quên ở phương Tây, cũng có lễ hội Halloween ( All Hollows’ Eve) diễn ra  cuối tháng 10 đầu tháng 11 dương lịch hằng năm. Một lễ hội nặng  về Gia Tô giáo. Theo Wikipedia thì đây là  tam nhật mùa các thánh (Allhallowtide) mùa tưởng nhớ các thánh và các tín dồ Gia tô tử đạo. Việc hóa trang  đeo mặt nạ  để trêu chọc và thách đố thần chết. Bên cạnh đó việc hóa trang mặt nạ chủ yếu dành cho cac em bé  thiếu nhi đến gõ cửa từng nhà xin thức ăn, kèn trống, lo ó náo động suốt đêm,  một hình thức mang rất đậm dáng vấp của một loại “cô hồn” ở phương Đông mà chúng ta đang nói đến, người có óc khôi hài  thì chỉ đích danh đó là “cô hồn sống”!

                      Trong thế giới của nhận thức, chuyện  cúng có ăn được hay không,  không thành vấn đề bận tâm, có chăng là kiến tạo được tinh thần Từ bi, lòng tương thân tương ái cao độ, vượt qua biên giới của sự sống chết, làm biên độ giáo dục vững chắc cho chính xã hội đương thời. Nhiều bậc giảng sư ngày trước đã chỉ rõ cho chúng ta thấy Từ bi khác với Bái Ái hay Tình Thương như thế nào. Nói  dễ hiểu là Từ bi được ví như ánh sáng mặt trời rọi chiếu  khắp nơi, không phân biệt  hàn sang, giàu nghèo. Còn Bác ái chỉ là ngọn đèn phin  nằm trong tay  tham muốn đối tượng , mục đích của người sử dụng. Đó là Ái Kiến không hơn không kém. Vì thế  hai  từ Từ Bi hiện nay đã được sử dụng  rộng rải, không còn là của riêng Phật giáo, nhiều nơi khác đã dùng chữ Từ Bi , chọn ánh sáng mặt trời thay vì ánh đèn pin nhỏ mọn và ích kỷ.

                        Ở trong mỗi ngôi chùa  thì không đợi đến rằm tháng báy mới “cúng cô hồn” mà mỗi ngày vào buổi xế chiều đều có các thời cúng thí thực đều đặn. Lớn hơn  thì trong các ngày lễ lớn quan trọng  còn có  lễ Trai Đàn Chẩn tế  quy mô. các nghi thức Phật giáo mỗi vùng miền  có khác nhau nhưng tựu trung vẫn là   dựa vào oai thấn Tiêu Diện Đại Sỉ, triệu thỉnh các vong linh để mong cầu giài thoát cho tất cà. Đến với những  cuội lễ này chúng ta dễ dàng cảm nhận giữa hai cõi Âm-Dương bến bờ nào có bao xa! Cũing có thể, qua đó, đôi khi chính mình lầm lẫn giữa ta và “cô hồn” ai là ai ! Vả cũng ở đó  bạn sẽ hiểu thêm câu thơ trong văn tế thập loại chúing sanh của cụ Tiên điền Nguyễn Du ( 1766 - 1820 ) có đoạn : “Ai đến đây dưới trtên ngồi lại/ Của làm duyên chớ ngại bao nhiêu/ Phép thiêng biến ít thành nhiểu/ Trên nhờ Tôn Giả chia đều chúng sinh..” Rất trùng hợp với ý thơ triết lý của thi hào  Ấn Độ Rabindranath Tagore ( 1861 - 1941 )” Trong sự sống thì nhiều biến thành một/ Trong cái chết thì một biến thành nhiều”.

                         Như vậy có thể thấy, việc “cúng cô hồn” mang tính  xã hỗi rất lớn, kết nối được tình thương giữa người và người, giữa hai bờ sống chết. Kiến tạo nê tình đoàn kết nhằm hước đến một cuộc sống hoàn mỹ và hoàn thiện hơn. Vậy chớp nên đem  cái  nhận thức hạn hẹp, biên kiến của mình để đánh giá  ý nghĩa cao đẹp của tập tục “cúng cô hồn” ấy  của người dân Việt chúng ta.

                        Ở một góc hẹp khác của mặt bằng xã hội, có những sự thật trần trụi như muốn vỗ đôm đốp vào mặt chúng ta buộc phải nhìn  và suy gẫm, cho dù có muốn tin là sự thật hay không. Trong cuộc thi viết  mang tên “ Sài gòn- TP.Hồ Chí Minh Kỷ Niệm Không Quên”do báo Tuổi Trẻ tổ chức năm 2005, anh Thiện Nhân, một nhân chứng sống của cát bụi lầm than giữa đất  Sài gòn ngày lang bạt cơ nhỡ, đã có bài viết mang tên cộc lốc“Cúng Cô Hồn” , bài đã đạt giải khuyến khích và đăng trên báo này ngày 02/03/2005. Nôi dung bài viết ấy tác giả kể về tháng ngày  đói  khổ, tìm  sự sống  mà  mùa “cúng cô hồn”  hàng năm giúp anh no đủ  nữa tháng ( “cúng cô hồn” ở tư gia chỉ được bắt đầu từ  sau ngày rằm tháng bảy âm lịch cho đến hết tháng). Hết nhà này tới nhà khác, anh và đám bạn lang thang  no đủ “ nhờ  những vật phẩm ”cúng cô hồn “ ấy   giữa đất Sài thành hoa lệ này.  Sau này khi vượt khó vươn lên, có cuộc sống đủ đầy, hằng năm anh vẫn “cúng cô hồn” ngay trước cửa nhà mình và bố thi lương thực cho người  nghèo như để  nhớ ơn năm xưa chính những  khúc mía, bánh tép, bánh quy, đậu phộng ‘cúng cô hồn” giúp anh no lòng đỡ dạ của những người  Sài gòn năm xưa.
Cung-co-hon-4-man-cung-cua-gian-hang-ven-duong

                    Dòng sau cùng bài dự thi, anh Thiện Nhân viết” Giờ đây, mỗi năm cứ đến mùa Vu Lan, lẫn trong hương khói tôi như thấy cha mẹ mình hiện về. Cảm thương cho những thân phận cơ nhỡ. Người Sài gòn luôn nhớ ‘cúng cô hồn” cho trẻ con được bữa ăn ngon. Tôi cũng bày biện cúng mà nghe mặn đắng trên môi dòng nước mắt hôm nào kiếm ăn giữa xứ người. Sài gòn không không thiếu những tấm lòng, có khi chỉa qua vài cái bánh trên mâm cúng như một thói lệ  xa xưa còn truyền lại../.”

                  Trên mặt bằng xã hội, thử một lần đặt chân bước xuống, chúng ta sẽ chạm phải vô số vấn đề, có vấn đề tuy tầm thường nhưng lắm lúc chúng ta sai lầm trong cách nhìn và hiểu (Kiến Hoặc) mà nếu không được lý giài thì sẽ giữ mãi cái sai lầm đó (TƯ Hoặc) là điều cũng dễ thấy.

                 Vâng ! Vấn đề “Cúng Cô Hồn

 

  Dương Kinh Thành

 

 

------------------------------------------------------------------------------------------------

(*) Ba đêm hát Bội.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/10/2015(Xem: 10507)
Xin đảnh lễ chư đạo sư đáng tôn kính nhất! (1) Tôi sẽ hết lòng giảng giải, Các điểm trọng yếu trong tất cả Kinh điển của Đấng Chiến Thắng, Đường tu được tất cả chư Bồ tát thiện hảo tán thán, Cửa ngõ cho những người may mắn mong cầu giải thoát.
03/10/2015(Xem: 7820)
Một ngày nọ, khi Milarepa đang ở trong hang động một mình thì hai vị khách tìm đến hỏi han. - Ông ở một mình à? Ông không thấy cô đơn sao? - Tôi luôn luôn sống với một người nào đó, không bao giờ đơn độc. Ngài trả lời. - Nhưng ông sống với ai? Người trẻ tuổi hơn trong hai người hỏi ngài.
03/10/2015(Xem: 8570)
Mối quan hệ sâu đậm với một vị thầy tâm linh có thể là sự nối kết thăng hoa và quan trọng nhất trong một đời người. Nó cũng có thể là nguồn gốc của sự lừa dối bản thân, đau đớn và tuyệt vọng tinh thần. Tất cả đều dựa vào việc chủ động tạo ra một quan hệ lành mạnh. Điều này lại tùy thuộc vào một thái độ thực tiễn về trình độ của chính mình và vị thầy, về mục đích, động lực và ranh giới của mối quan hệ.
03/10/2015(Xem: 8345)
Milarepa có một người chị cứ khăng khăng bảo ngài đi cưới vợ, xây nhà và sinh con, nhưng ngài đã bỏ nhà ra đi và gặp vị thầy của mình là Marpa. Khi chị của ngài biết rằng Marpa đã lập gia đình, bà càng ép buộc Milarepa hơn nữa.
03/10/2015(Xem: 7846)
Trong Hiện Quán Trang Nghiêm Luận (mNgon-rtogs rgyan, tiếng Phạn, Abhisamayalamkara), Đức Di Lặc đã liệt kê bốn mươi sáu lỗi lầm ảnh hưởng đến việc phát triển trí tuệ tương ứng với căn cơ của chư Bồ tát (sbyor-ba’i skyon). Những lỗi lầm này có thể xảy ra trong tâm thức của một Bồ tát thánh nhân từ sơ địa cho đến thất địa, như đã được trình bày theo hệ thống trong sơ đồ của trường phái Y Tự Khởi (Svatantrika). Mặc dù chúng đã được trình bày theo hệ thống bằng cách nghiên cứu văn học Bát Nhã Ba La Mật Đa (Prajnaparamita, Far-reaching Discriminating Awareness, Perfection of Wisdom), các lỗi lầm này cũng có thể liên quan đến những khía cạnh khác trong việc tu học và hành trì.
03/10/2015(Xem: 10871)
Tiểu sử của một lama vĩ đại được gọi là “namtar” (rnam-thar), một tiểu sử mang tính cách giải thoát, vì nó tạo nguồn cảm hứng cho người nghe noi theo gương của ngài để đạt được giải thoát và giác ngộ. Tiểu sử của ngài Tông Khách Ba (Tsongkhapa) (rJe Tsong-kha-pa Blo-bzang grags-pa) (1357-1419) thật sự gây nhiều cảm hứng.
03/10/2015(Xem: 6780)
Dưới đây là một bài giảng ngắn của nhà sư người Mỹ Thanissaro Bhikkhu (1940- ), tu tập theo truyền thống "Tu Trong Rừng" của Phật giáo Theravada, về việc chữa trị bệnh tật trong tâm thần cũng như trên thân xác nhờ vào phép thiền định về hơi thở. Tuy là một bài giảng ngắn, thế nhưng việc mô tả phép thiền định này thật hết sức chi tiết và rõ ràng mà mọi người đều có thể mang ra để luyện tập. Độc giả có thể tìm đọc bản gốc tiếng Anh của bài này trên mạng của nhà sư Thanissaro:
01/10/2015(Xem: 9429)
Trước trung thu nhiều người có hỏi tôi: “Ở Sài Gòn, tết trung thu, ngoài phố lồng đèn bạn có biết đi đâu được nữa không?”. Tôi cũng tự băn khoăn, liệu trung thu năm nay mình sẽ làm gì, đi đâu để trung thu tuổi 19 không chỉ là câu chuyện của sum vầy, của chiếc bánh trung thu được san sẻ cùng chị cùng mẹ. Tôi muốn trung thu này sẽ còn là câu chuyện của ý nghĩa, của niềm hạnh phúc, của yêu thương, của ấn tượng khó phai. Và tôi đã có lựa chọn cho chính mình - cùng vun đắp Trung thu này cùng CLB yêu sách Thái Hà và những mầm non nơi xa xôi đô thành.
01/10/2015(Xem: 8600)
Vạn Dặm Rong Chơi, Đường Rộng Mở _ Thích Từ Lực
01/10/2015(Xem: 7181)
Tu là gì ? “Tu là quá trình: 1/ quán chiếu nội tâm, 2/ làm triệt tiêu bản ngã và 3/ chuyển hóa nghiệp lực của mình” đây là ba điều kiện tiên quyết, cốt yếu và tinh túy nhất, trong phận sự người tu.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]