Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Người Tàn Mộng (thơ)

26/03/201614:53(Xem: 6167)
Người Tàn Mộng (thơ)
blank
Namo Sakya Muni Buddha
 
Vực thẳm
Một thời Thế Tôn trú tại Ràjagaha, trên núi Gìjjhakùta. Rồi Thế Tôn cho gọi các Tỷ khưu:
 
Này các Tỷ khưu, chúng ta hãy đi đến Patibhànakùta. 
Khi đến Patibhànakùta, một Tỷ khưu thấy vực thẳm liền bạch Thế Tôn:
 
Bạch Thế Tôn, thật là lớn, thật đáng sợ hãi, vực thẳm này! 
Không biết có vực thẳm nào khác lớn hơn và đáng sợ hãi hơn không?
 
Này các Tỷ khưu, có vực thẳm khác lớn hơn và đáng sợ hãi hơn vực thẳm này. 
Đó là các Samôn nào không biết rõ như thật: đây là khổ, đây là nguyên nhân của khổ, đây là khổ diệt và 
đây là con đường đưa đến khổ diệt. Họ hoan hỷ với các hành đưa đến sinh, họ hoan hỷ với các hành đưa đến già, bệnh, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Vì hoan hỷ với các hành nên tạo dựng các hành đưa đến sinh, già…ưu, não. Vì tạo dựng các hành đưa đến sinh, già…ưu, não nên bị rơi vào vực thẳm của sinh, họ rơi vào vực thẳm của già, bệnh, chết, sầu, bi, khổ, ưu và não. Ta nói rằng, họ không liễu thoát khỏi đau khổ.
 
Do vậy, này các Tỷ khưu, một cố gắng cần phải làm để rõ biết: đây là khổ, đây là nguyên nhân của khổ, 
đây là khổ diệt và đây là con đường đưa đến khổ diệt.
(ĐTKVN, Tương Ưng Bộ V, chương 12, phẩm vực thẳm, phần vực thẳm, VNCPHVN, NXB Tôn giáo 2002, tr651).
 
Suy Nghiệm: 
Trong tự nhiên, sâu nhất có lẽ là những vực thẳm trong lòng đại dương. Đối với con người, 
vực thẳm khó dò là tấm lòng ngổn ngang bao suy tư, toan tính. Dù sâu đến mấy, vực thẳm của đại dương
 vẫn đo được. Nhưng lòng người thì khó lường bởi tận trong bản chất vốn dĩ thậm thâm, thường bất chợt đổi thay trong từng sát na của các thái cực buồn vui, thương ghét, hạnh phúc và khổ đau, cao thượng và đớn hèn...
 
Đứng trước vực thẳm của tự nhiên, con người thường có cảm giác sợ hãi. Đối diện với vực thẳm của 
lòng người, ta cảm thấy ghê tởm và kinh khiếp. Nhưng trớ trêu thay, ít ai thấu hiểu và cảm nhận hết cái
 đốn mạt, dối trá và nguy hiểm của vực thẳm lòng mình. Trong tấm bi hài kịch cuộc đời, những chiếc mặt nạ được liên tục được mang vào rồi lại cởi ra, riết rồi tự thân của những diễn viên ấy không xác định được đâu là mặt thật của chính mình. Những chiếc mặt nạ ấy là bọt bèo sôi lên từ vực thẳm của tâm thức, là mắt nổi 
của vọng tưởng vốn gian trá, xảo quyệt và muôn thuở dối lừa.
 
Trong đạo lộ giải thoát, một vực thẳm sâu hơn, nguy hiểm hơn bất kỳ vực thẳm tuyệt mù nào là vô minh, 
không nhận ra chân lý mà biểu trưng là Tứ Thánh Đế. Theo tuệ giác của Thế Tôn, không nhận chân được 
bốn sự thật mới là vực thẳm lớn nhất và nguy hiểm nhất. Chấp nhận sinh tử và ưu não một cách tự nguyện
 và thích thú, thậm chí xem đó là cứu cánh của một đời người, một căn bệnh nan y của chúng sinh có tiền 
sử vô minh, gần như hết phương cứu chữa.
 
Muốn vượt ra khỏi hố thẳm của cuộc đời và của chính tự thân, những người con Phật phải quay về 
tự tâm, nhìn thẳng vào cuộc đời và chính mình. Để rồi từ đó, cảm nhận được những sự thật về con người 
và thế giới, thấy được nguy hiểm của vực thẳm vọng tâm để xa lìa đồng thời thể nhập, an trú chơn tâm 
mà cụ thể là giác ngộ Bốn sự thật cao thượng.
blank

Người Tàn Mộng
Khi nằm mộng ai biết mình đang mộng
Tỉnh giấc rồi mới biết đã từng mơ?.
Người tu Đạo, hỏi bao giờ hết mộng
Thưa, là khi Khai ngộ, thoát mê mờ.
 
- Này hành giả, con đường nào khai ngộ
Cuốn kinh nào mở ngỏ chốn Vô sanh?
Rừng Phật Pháp.. nơi nao bày quang lộ
Chữ nghĩa đầy.. con kiến mãi bò quanh.
 
- Khi học Phật nên vén màn ngôn ngữ!
Đạt ý rồi ngay đó hãy vong ngôn.. (*)
Giới, Định, Tuệ ba khóa vàng nên giữ
Chánh Niệm trên Thân, Ngữ với Tâm hồn..
 
Có đôi lúc mãi lo tìm chìa khóa
Trong túi chìa vẫn đó lại không hay!
Hãy ngồi xuống Lặng Yên và Nhận Biết
Mặt trời hằng sau lớp lớp mây bay..
 
- Lúc thất vọng, hồn chìm trong quá khứ
Khi âu lo là sống ở tương lai .
An trú Xả, Tuệ tri cùng thực tại
Mộng mê đời.. thôi dứt kể từ đây!


Như Nhiên Th Tanh Tue
(*)  Y nghĩa bất y ngữ .
blank
blank   
   have a great day photo: Have a Great  Day Haveagreatdaysw.gif            
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/12/2010(Xem: 8485)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứu và tu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
05/12/2010(Xem: 5298)
Năm giờ sáng, mây xám tuy mỏng, nhưng che phủ bầu trời, che cả những vì sao muộn khiến không gian ẩm tối, lạnh lẽo và rưng rức quạnh hiu! Vậy mà có vị Phật lặng thinh ngồi đó...
04/12/2010(Xem: 5010)
Nói đến chữ tu, có người lầm tưởng rằng phải bỏ nhà, bỏ cửa, bỏ vợ con để tìm nơi non cao thanh vắng, hoặc ở chùa, ở am mới gọi là tu. Không phải như thế đâu, tu có nghĩa là sửa đổi, trau dồi. Sửa là sửa hư, sửa sai, sửa lạc lầm, sửa xấu thành tốt, sửa dữ thành hiền, tà vạy thành ngay thẳng, tối tăm thành sáng suốt, si mê thành giác ngộ, phàm phu thành thánh hiền, chúng sanh thành Phật, sanh-tử thành Niết-Bàn.
03/12/2010(Xem: 3596)
Một đệ tử đang ở trong tù viết thư cho Rinpoche khẩn cầu ngài ban những thực hành cho quãng đời còn lại của anh. Rinpoche đã trả lời như sau. Bài do Michelle Bernard biên tập.
03/12/2010(Xem: 14662)
Cuốn sách mang đến cho bạn đọc những suy ngẫm nghiêm túc về hạnh phúc mà đôi khi có thể chúng ta ngộ nhận hoặc lầm lẫn với niềm sung sướng.
30/11/2010(Xem: 8839)
Đức Phật dạy rằng nếu muốn tự giải thoát ra khỏi thế giới Ta bà thì phải tuân theo ba lời giáo huấn tối thượng như sau : đạo đức, chú tâm và trí tuệ. Khi nào biết noi theo ba lời giáo huấn ấy thì ta sẽ đạt được sự giải thoát cá nhân...
28/11/2010(Xem: 5304)
Lâu lắm chúng tôi không có cơ hội về giảng cũng như nhắc nhở sự tu hành cho toàn thể chư Tăng Ni ở khu Đại Tòng Lâm. Hôm nay được ban tổ chức trường hạ Đại Tòng Lâm mời về thăm và nói chuyện với tất cả Tăng Ni và Phật tử nơi đây, tôi liền hoan hỉ chấp nhận.
27/11/2010(Xem: 8987)
Trong khi Đức Phật tạo mọi nỗ lực để dẫn dắt hàng đệ tử xuất gia của Ngài đến những tiến bộ tâm linh cao cả nhất, Ngài cũng nỗ lực để hướng dẫn hàng đệ tử cư sĩ tiến đến sự thành công...
25/11/2010(Xem: 23486)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền. Ngài cũng từng thực tập thiền công án. Đây là 43 công án Vua đưa ra để cùng thực tập với tăng thân của Vua, gồm có giới xuất gia và tại gia. Thầy Làng Mai đã dịch những công án này ra tiếng Việt và tiếng Pháp năm 1968. Bản dịch tiếng Pháp xin xem ở phần phụ lục cuốn Clé Pour Le Zen, tác giả Nhất Hạnh, do nhà xuất bản JC Lattes ấn hành. Bản Hán Việt có trong Thơ Văn Lý Trần quyển II (Quyển thượng, trang 108-121), NXB Khoa Học Xã Hội.
25/11/2010(Xem: 10361)
Cuộc sống xô bồ và dồn dập trong các xã hội phương Tây không cho phép một số người có thì giờ đọc toàn bộ những quyển sách liên quan đến các vấn đề khúc mắc của tâm linh. Vì thế nhiều tác giả chọn lọc các lời thuyết giảng, các câuphát biểu ngắn gọn hoặc các đoản văn ý nghĩa nhất để gom lại thành sách giúp người đọc dễ theo dõi và tìm hiểu, vì họ muốn đọc hay muốn dừng lại ở đoạn nàocũng được. Năm 1996, nhà xuất bản Le Pré aux Clercs có phát hành một quyển sáchtheo thể loại trên đây. Sách gồm những lời phát biểu của Đức Đạt-lai Lạt-ma vềPhật giáo và vài vấn đề liên quan đến Phật giáo chọn lọc từ các bài diễn văn,phỏng vấn, các buổi thuyết giảng và các sách của Đức Đạt-Lai Lạt-ma.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567