Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Mổ Bụng Tìm Con

15/09/201100:18(Xem: 8439)
Mổ Bụng Tìm Con

MỔ BỤNG TÌM CON
A LAN NHÃ

Xưa, có người Bà la môn nọ ở với hai người vợ. Vợ đầu sinh được con trai, đã mười hai tuổi; vợ hai đang mang thai, sắp đến kỳ sinh nở, chưa rõ trai hay gái.

Chẳng may Bà la môn nọ qua đời. Đứa con trai nói với bà hai rằng: “Tiểu mẫu! Tài sản mà cha tôi để lại, bao gồm vàng bạc hay thóc lúa..., tất thảy bây giờ đều là của tôi, tiểu mẫu không được gì hết!”.

Bà la môn nữ nghe vậy, lo lắng bảo: “Con à, hãy chờ ta sanh đã. Nếu ta sanh con trai, thì nó sẽ được một phần gia sản; còn nếu ta sanh con gái, thì nó sẽ hầu hạ con”.

Lần thứ hai, cậu con trai đến nhắc nhở tiểu phu nhân kia phải giao hết tài sản lại cho nó, còn bà thì không được gì hết. Bà la môn nữ, cũng như lần trước, lo lắng bảo cậu hãy chờ xem bà sanh trai hay gái đã rồi hẵng quyết.

Lần thứ ba, cậu con trai lại đến thúc giục bà phải giao ngay tài sản. Tiểu phu nhân cảm thấy bức bách, không thể đợi được, vội vào phòng lấy dao rạch bụng mình ra để xem ngay cái thai ấy là trai hay gái.

Kết cục, Bà la môn nữ nọ không những không được chút của thừa tự nào, mà cả hai mẹ con đều bị chết thảm!

(Thuật lại theo kinh Trung bộ, tập 2, kinh Tệ Túc- Pàyàsi-Suttanta. HT.Thích Minh Châu dịch).

Bàn thêm

Được thừa kế sản nghiệp đúng pháp là một phước báo khi sống trong đời. Bậc làm cha mẹ, khi đi qua cuộc đời, ai cũng mong mỏi có một chút gì để lại cho con, dù là vật chất hoặc những giá trị tinh thần. Tuy nhiên, có được mấy người con nhận ra những giá trị mà cha mẹ để lại? Và có bao nhiêu người hiểu thấu và tìm ra được những di sản mà cha mẹ đã cực nhọc một đời, mong để lại cho con? Phương cách tìm kiếm và sử dụng của thừa tự là một minh chứng sống động, nói lên tính cách cũng như thước đo giá trị của một con người. Một người con hiếu hoặc ngược lại cũng căn cứ vào tiêu chí này để phân định ra.

Theo kinh văn, muốn tìm kiếm của thừa tự đúng pháp thì phải viện dẫn trí tuệ để suy tư một cách thấu đáo. Nếu như vắng mặt trí tuệ thì mọi hành động đều có khả năng dẫn đến khổ đau. Kết quả buồn thảm của một bà mẹ mà kinh văn vừa nêu tuy chỉ là ẩn dụ, nhưng vẫn có thể xảy ra trong thực tế đời thường, biểu hiện ở những cung bậc đau khổ khác nhau.

Với Phật giáo, sự hình thành và tồn tại của mỗi sự vật hay hiện tượng đều do nhân duyên. Duyên hợp thì sự thành, duyên tán thì sự tan. Khi duyên chưa hội đủ cũng như chưa chín muồi mà mong sự vật hiện hữu là điều bất khả. Và dầu có nỗ lực tác động bằng cách này hay cách khác mong quả sớm hình thành, nhưng một khi duyên chưa chín muồi thì kết quả dẫn đến cũng là sự hiện diện của khiếm khuyết, bất toàn và vô dụng. Xem ra, sự nôn nóng khi quả chưa chín muồi đôi khi gây ra bao sự bất an và thậm chí là tận cùng khổ đau trong cuộc sống. Bản kinh kể trên cũng xác quyết rằng: “Cái gì chín đến thời thì phải chín, không nên gượng ép”là một thực tế có ý nghĩa trong mọi khoảng thời gian.

Trở về với căn bản của ẩn dụ, có thể thấy rằng lý do khởi nguyên của ẩn dụ nhằm làm sáng tỏ quan điểm: “Có đời sau, có các loài hóa sanh, hành vi thiện ác có quả báo”. Để chứng minh sự tồn tại của chân lý này trong hiện thực, tôn giả Kumàra Kassapa (Cưu-ma-la Ca-diếp) đã không mệt mỏi viện dẫn từ ví dụ này đến ví dụ khác, nhằm giúp cho vua Pàyàsi (Tệ-túc) nhận ra thực tại nêu trên. Trong giai đoạn đầu của quá trình hoằng hóa, trong bối cảnh có quá nhiều quan điểm của các tôn giáo thời bấy giờ ở Ấn Độ đang ngự trị và đan xen trong nhận thức của số đông, thì việc triển khai và chứng minh lý thuyết Nhân quả và Luân hồitheo quan điểm của Đức Phật, là một tiếng sét trong nhận thức của nhiều người.

Kinh văn cũng đồng thời giới thiệu trách vụ cũng như phương cách hoằng pháp của đệ tử Phật thời xưa. Dù chỉ chứng minh một quan điểm, nhưng người đệ tử Phật đã không mệt mỏi, tìm hết ví dụ này đến ví dụ khác nhằm làm cho người nghe tỏ ngộ chân lý mà thôi. Mở rộng để chiêm nghiệm thêm về trách vụ của đệ tử Phật ngày nay, thiển nghĩ còn nhiều điều cần phải chuẩn bị và nhiều việc cần làm. Trước nhất, một đức tính mà người hoằng pháp thời nay cần học hỏi và kiện toàn: mạnh mẽ khi chứng minh chân lý và không mỏi mệt trong nỗ lực chuyển hóa tha nhân. n

(NGUYỆT SAN GIÁC NGỘ SỐ 186)
(Thư Viện Hoa Sen)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/01/2011(Xem: 6922)
Từ bi hỷ xả, nhẫn nhịn thường là bí quyết để giúp cho mọi người sống như chiếc lá, dù có bị bão tố phong ba cuốn trôi lặn hụp, nhưng ta vẫn đủ sức vươn lên vượt qua cạm bẫy cuộc đời mà sống an nhiên tự tại trong mỗi hoàn cảnh. Có một chàng trai nọ trong lúc đau khổ mới tìm đến một vị thiền sư hỏi rằng: "Thưa sư phụ, có những lúc con cảm thấy cuộc sống và mọi người muốn nhận chìm con, vậy khi đối diện như thế con phải làm gì ạ?
05/01/2011(Xem: 37372)
Từ ngày 6 đến ngày 16 tháng 6 năm 2007 này, Đức Đạt Lai Lạt Ma sẽ viếng thăm Úc Châu, đây là chuyến thăm Úc lần thứ năm của Ngài để giảng dạy Phật Pháp. Mọi người đang trông đợi sự xuất hiện của ngài. Bốn lần viếng thăm Úc trước đây đã diễn ra vào các năm 1982, 1992, 1996, 2002, đặc biệt trong lần viếng thăm và hoằng pháp lần thứ tư năm 2002, đã có trên 110. 000 người trên khắp các thủ phủ như Melbourne, Geelong, Sydney, và Canberra đến lắng nghe ngài thuyết giảng để thay đổi và thăng hoa đời sống tâm linh của mình.
04/01/2011(Xem: 53042)
QUYỂN 5 MÙA AN CƯ THỨ MƯỜI BỐN (Năm 574 trước TL) 91 CÁC LOẠI CỎ Đầu Xuân, khi trời mát mẻ, đức Phật tính chuyện lên đường trở về Sāvatthi. Thấy hội chúng quá đông, đức Phật bảo chư vị trưởng lão mỗi vị dẫn mỗi nhóm, mỗi chúng phân phối theo nhiều lộ trình, qua nhiều thôn làng để tiện việc khất thực. Hôm kia, trời chiều, cạnh một khu rừng, với đại chúng vây quanh, đức Phật ngắm nhìn một bọn trẻ đang quây quần vui chơi bên một đám bò đang ăn cỏ; và xa xa bên kia, lại có một đám trẻ khác dường như đang lựa tìm để cắt những đám cỏ xanh non hơn; ngài chợt mỉm cười cất tiếng gọi:
04/01/2011(Xem: 9622)
Có bốn ý nghĩa của thành đạo là: (i) con đường đi đến Giải Thoát là Trung Đạo; (ii) bằng nỗ lực của tự thân, với sự tu tập đúng Pháp, con người có thể giác ngộ ngay tại đời này; (iii) nội dung của Thành Đạo là giải thoát, giải thoát đây là giải thoát khỏi tham ái, chấp thủ mà không cần thiết phải chạy trốn khỏi cuộc đời, và (iv) mười đạo quân của ma vương không phải là một thế lực vô minh từ bên ngoài mà chính là ngay tại tâm ta.
03/01/2011(Xem: 19796)
Ðạo Phật dạy rằng tâm là nhân duyên chính khiến ta bị luân hồi. Nhưng cũng chính tâm lại là cái duyên lớn nhất giúp ta thoát vòng sanh tử.
02/01/2011(Xem: 12367)
Chúng ta an vị Phật là rước Phật trong lòng chúng ta đem thờ tại chùa, để khi nhìn thấy Phật tại chùa mà nhớ Phật trong lòng của chúng ta...
02/01/2011(Xem: 7024)
Đêm tối, trần gian le lói những vì sao, những vì sao sáng băng qua rồi vụt mất… vạn đại ngôi sao lấp lánh trên nền trời tinh hoa tư tưởng, khoa học… đã được thắp sáng và truyền thừa bất tận để đáp ứng nhu cầu căn bản cho nhân thế, trước hết là khỏe mạnh, no cơm ấm áo, các phương tiện thích thời, xa hơn là nhu cầu xử thế, và đặc biệt là khát vọng tri thức…hàng vạn vĩ nhân đã hút mất trong cõi thiên thu vô cùng nhưng sự cống hiến và âm hưởng của họ vẫn bất diệt đến bây giờ và nghìn sau nữa.
31/12/2010(Xem: 7733)
Pháp thoại: Chùa Phật Quang
30/12/2010(Xem: 7775)
Dâng hương cúng Phật, thắp hương cúng Phật, xông hương cúng Phật, là nét văn hoá đặc trưng của Tăng Tín đồ Phật Giáo Bắc Truyền. Người Đông phương khi nhắc đến đi chùa lễ Phật...
30/12/2010(Xem: 9917)
Trong đầm gì đẹp bằng Sen. Lá xanh bông trắng, lại chen nhụy vàng. Nhụy vàng bông trắng lá xanh. Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]