Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chân Kinh & Toán Học

22/03/201622:37(Xem: 7491)
Chân Kinh & Toán Học

Chân Kinh & Toán Học

*

Lê Huy Trứ, MSEE

 

 

  1. 1.    Giới Thiệu

 

Trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa (sa. saddharmapuṇḍarīka-sūtra), hay Pháp Hoa, Phật ám chỉ ba cỗ xe (Tam Thừa) cũng chỉ là thành phần của một cỗ xe, là Nhất Thừa (sa. ekayāna) và kinh chỉ dạy tuỳ theo khả năng tâm trí, tiếp thu bất đồng của mỗi Phật Tử.

 

Tôi cũng nghe như vầy:  Diệu Pháp Liên Hoa Kinh là Vua của tất cả các kinh điển Phật Giáo. 

 

Theo tôi thì tất cả các Chân Kinh Phật Giáo đều là ‘vua’ của tất cả kinh điển.  Tất cả 84000 pháp môn như những dược vương cứu khổ rất hữu hiệu cho mỗi căn bệnh vô minh của chúng sinh.  Nhưng hình như tông phái (thừa) nào cũng còn chấp ngã, phân biệt nhị nguyên, tự phong cho mình là ‘thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn.’  Tôi không nghĩ Đức Thế Tôn dạy pháp chấp ngã thượng mạn như vậy mà theo tôi hiểu thì Ngài sáng lập ra ‘đạo Phật tân thời’ 2600 năm về trước vì Ngài thấy những đạo khác ở Ấn Độ thời đó hình như ‘đi trật đường rầy’ nên Ngài chỉ điều chỉnh lại? 

 

Có lẽ Bát Nhã Tâm Kinh là ‘duyên khởi Phật Đà’ đối với tôi nên tôi hơi thiên vị cứ tưởng kinh này là ‘Sư tổ chân kinh’ (Master Sutra.)  Kinh này cứ như là tuyệt kỷ ‘vô chiêu thắng hữu chiêu’ thiện nghệ tìm thấy chổ hổng.  Nó giúp tôi thấy đâu đâu cũng có lỗ hổng trống không của vòng tròn lớn lẫn nhỏ đang xoay để ‘thọc gậy hai bánh xe’ lớn nhỏ đó cũng như ứng dụng trí tuệ vô chiêu này vào trong đời sống, triết lý, toán học, khoa học, kỷ thuật, vật lý, vũ trụ và tôn giáo. 

 

Nguyên tắc của vô chiêu là bất động nhưng quán trí tuệ để thấy cái sơ hở của hữu chiêu vì hữu chiêu (sắc) luôn động, có sở trụ vô thường nên sẽ nhi sinh một cái lổ hổng trống ‘không anh minh’ nhưng chứa đầy vô minh của tham sân si và đau khổ đầy khuyết điểm để vô chiêu thừa cơ tức khắc điểm thẳng vào tâm sắc bản lai diện mục của nó.

 

Tôi có tật làm biếng và không kiên nhẫn để đọc hết bộ kinh Bát Nhã cũng như bất cứ bộ kinh khác chỉ có học lóm vài ba chữ:  Sắc là Không; Không là Sắc!  Rồi thì đọc như vẹt với tâm si độn, lòng ngu muội, trí vô minh cho đến bây giờ vẫn không hiểu nó là cái quái đản (ma quái, spooky) gì nữa?

 

Nhưng rồi thì cái Sắc Không này nhập tâm, không muốn viết ra cũng không được vì vậy tôi phải tống nó lên internet để cùng nhau tu học.

 

  1. 2.    Bát Nhã Tâm Kinh và Toán Đại Số

 

Tôi xin dùng toán đại số để chứng minh, Sắc là Không và Không là Sắc trong Bát Nhã Tâm Kinh:

 

The following is my mathematical proof for Form = Emptiness in Buddhism Heart Sutra:

 

Let, a = b where, form is a = 1, and Emptiness = 0

 

Đặt, a = b và Sắc là a = 1, Không = 0, Vô Sắc = -1

 

Bắt đầu với công thức đơn giản trên:

 

Start with the above simple equation:

 

a = b  

 

Nhân 2 vế cho b:

 

Multiply both sides by b:

 

ab = b2

 

Trừ atừ 2 vế và ‘factorize:’

 

Subtract a2 from both sides and factorize:

 

ab−a2 = b2−a2

 

 

a(b−a) = (b+a)(b−a)

 

Đơn giản hóa và cọng -1 cho mỗi vế:

 

Simplify and add -1 to both sides:

 

a = b+a

 

a-1 = b+a-1

 

Bây giờ từ a = b

 

Now since a = b

 

Bắt đầu từ điềm chứng minh này, chúng ta phải viết như thế này:

 

The starting point of this proof, we can write this as:

 

a-1 = 2a-1

 

Và trong trường hợp nơi a = 1

 

And in the case where a =1

 

Chúng ta có:

 

We have:

 

1-1 = 2-1

 

Proved,

0 = 1

 

Đã chứng minh, Không = Sắc

 

Tóm lại:

 

 “In the arithmetic of love, one plus one equals everything, and two minus one equals nothing.”  Mignon McLaughlin

 

Tôi xin phiếm ‘dịch và tả:’

 

Trong toán học của tình yêu, 1 + 1 = tất cả, và 2 - 1 = Không.

 

Trong văn chương lãng mạn: Mình với Ta là tất cả trên đời, và chúng ta thiếu nhau thì đời vô nghĩa.

 

Theo triết lý: Mình với Ta tuy 2 mà 1, và Ta với Mình tuy 1 mà 2,  Mà 2 thiếu 1 thì Có cũng như Không.  Nhị mà trừ một thì không còn nhị nữa mà trở thành Bất Nhị

 

Theo triết lý Phật Giáo, Bát Nhã Tâm Kinh thì Sắc = Không; hay 1 = 0

 

Tôi cũng xin dùng toán đại số để chứng minh, Nhị Nguyên nhi sinh Tam Thừa; Nhị Nguyên = Tam Thừa; hay 1+1 = 3

 

The following is my mathematical proof for Form = Emptiness in Buddhism Heart Sutra:

 

Let, a = b where, a = 1

 

Đặt, a = b và a = 1

 

Bắt đầu với công thức đơn giản trên:

 

Start with the above simple equation:

 

a = b 

 

Nhân 2 vế cho b:

 

Multiply both sides by b:

 

ab = b2

 

Trừ atừ 2 vế và ‘factorize:’

 

Subtract a2 from both sides and factorize:

 

ab−a2 = b2−a2

 

 

a(b−a) = (b+a)(b−a)

 

Đơn giản hóa và cọng 1 cho mỗi vế:

 

Simplify and add 1 to both sides:

 

a = b+a

 

a+1 = b+a+1

 

Bây giờ từ a = b

 

Now since a = b

 

Bắt đầu từ điềm chứng minh này, chúng ta phải viết như thế này:

 

The starting point of this proof, we can write this as:

 

a+1 = 2a+1

 

Và trong trường hợp nơi a = 1

 

And in the case where a =1

 

Chúng ta có:

 

We have:

 

1+1 = 2+1

 

Proved,

1+1 = 3

 

Đã chứng minh, Phân biệt nhị nguyên = Tam Thừa

  1. 3.    Những con số nhị phân, thập phân và ternary trong điện tử (electronics)

Những thí dụ dưới đây cũng chứng minh 1 + 1 = 3; và 1 + 1 = 11 =3; 1 + 1 = 10 =3

Here is an image shows that 1 + 1 = 3:

Đây là một hình ảnh chỉ rằng  1 + 1 =3:

Hay

 

1+1 => 11 => 11 trong nhị phân (binary) là 3 trong thập phân (decimal)

 

Or

 

1+1 => 11 => 11 in binary is 3 in decimal

 

Hay

 

Giả sử 1+ 1 là nhị phân (Binary) và kết quả trong ternary. 1 + 1 = 10 (nhị phân) trong ternary = 3 trong số thập phân (decimal.)

 

Or

 

Assume 1+1 to be binary and the result to be in ternary. 1 + 1 = 10 (in binary) 10 in ternary = 3 in decimal 

 

  1. 4.    Trong trường hợp Bất Nhị (Nhất Thể, Nhất Thừa)

 

 

a+1 = 2a+1

 

Và trong trường hợp nơi a = 0

 

And in the case where a =0

 

Chúng ta có:

 

We have:

 

0+1 = 2 (0) +1

 

Proved,

1 = 1

 

Sắc = Sắc

 

Nhất Thể = Nhất Thể

 

  1. 5.    Trong trường hợp bờ bên kia (dark matters and dark energy)

 

 

a-1 = 2a-1

 

Và trong trường hợp nơi a = 0

 

And in the case where a =0

Chúng ta có:

 

We have:

 

0-1 = 2 (0) -1

 

Proved,

-1 = -1

 

Vô Sắc = Vô Sắc

 

 

  1. 6.    Tóm tắc về Tam Thừa, Pháp Hoa và Bát Nhã Tâm Kinh

 

 

Theo Wikipedia, Tam Thừa (三乘, sa. triyāna) là ba cỗ xe đưa đến Niết-bàn, đó là Thanh văn thừa (zh. 聲聞乘, sa. śrāvakayāna), Độc giác thừa (zh. 獨覺乘, sa. pratyekabuddhayāna) và Bồ Tát thừa (zh. 菩薩乘, sa. bodhisattvayāna). Đại thừa gọi Thanh văn thừa là Tiểu thừa (sa. hīnayāna) với sự đắc quả A-la-hán (sa. arhat) là mục đích, Độc giác thừa là Trung thừa (sa. madhyamāyāna) với quả Độc giác Phật. Bồ Tát thừa được xem là Đại thừa (sa. mahāyāna) vì nó có thể cứu độ tất cả chúng sinh và hành giả trên xe này cũng có thể đắc quả cao nhất, quả Vô thượng chính đẳng chính giác (zh. 無上正等正覺, sa. anuttarasamyaksaṃbodhi).

 

Triyāna (Skt, three vehicles). In Mahāyāna literature, a name used for the three ways to salvation. These are: (1) the Śrāvakayāna or ‘vehicle of the hearers’ (also known as the Hīnayāna); (2) the Pratyekabuddhayāna or ‘vehicle of the Solitary Buddhas’; and (3) the Bodhisattvayāna or ‘vehicle of the Bodhisattvas’. Different ‘vehicles’ are said to have been taught by the Buddhas at different times as appropriate for different individuals. According to the Mahāyāna, however, the highest and greatest is the last.

 

 

 

Các phương tiện khác nhau như Thanh Văn thừa, Độc Giác thừa hay Bồ Tát thừa thật ra chỉ khác nhau vì phải cần phù hợp căn cơ của hành giả. Phật chỉ tuỳ cơ duyên, sử dụng các Phương tiện (sa. upāya) mà nói Tam thừa nhưng thật chất chỉ có Phật thừa (sa. buddhayāna) – nó dẫn đến Giác ngộ, bao trùm cả Đại thừa lẫn Tiểu thừa.

 

Diệu pháp liên hoa kinh (zh. 妙法蓮華經, sa. saddharmapuṇḍarīka-sūtra), cũng được gọi ngắn là kinh Pháp Hoa.  Kinh này được Phật giảng trên đỉnh Linh Thứu cho vô số người nghe gồm có nhiều loài khác nhau. Trong kinh này, Phật chỉ rõ, tuy có nhiều cách để giác ngộ, nhưng chúng chỉ là phương tiện nhất thời và thực tế chúng chỉ là một.

 

The Lotus Sūtra (Sanskrit: Saddharmapuṇḍarīka Sūtra, literally Sutra on the White Lotus of the Sublime Dharma) is one of the most popular and influential Mahayana sutras and the basis on which the Tiantai, Tendai, Cheontae, and Nichiren schools of Buddhism were established. For many East Asian Buddhists, the Lotus sutra contains the ultimate and complete teaching of the Buddha and the reciting of the text is believed to be very auspicious.

 

Trong kinh có ghi lý do Đức Phật xuất hiện nơi đời chỉ vì một đại sự nhân duyên lớn đó là Khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến. Tại Phẩm Như Lai Thọ Lượng có nói rõ đức Phật Thích Ca Mâu Ni thọ mạng vô lượng, thành đạo từ vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp về trước, đức phật có nhập Niết Bàn cũng chỉ là phương tiện để giáo hóa chúng sinh, nhưng thực ra đức Phật Thích Ca vẫn ở lai nơi đời thường còn chẳng mất.

 

Trong kinh này, Phật không còn được xem là vị Phật lịch sử nữa mà là dạng xuất hiện của Pháp thân (sa. dharmakāya, xem Tam thân), là thể tính đích thật của muôn loài. Mỗi chúng sinh đều xuất phát từ dạng chuyển hoá này của Phật tính và vì vậy đều có thể trở về với chân tính của mình, trở thành một vị Phật.

Bát-nhã-ba-la-mật-đa (zh. 般若波羅蜜多, sa. prajñāpāramitā, en. perfection of wisdom/insight, de. Vollkommenheit der Weisheit/Einsicht/Erkenntnis) có nghĩa là sự toàn hảo (sa. pāramitā, en. perfection) của Bát-nhã (sa. prajñā). Cũng được gọi ngắn là Bát-nhã-ba-la-mật.

Truyền thống Đại thừa Đông á thường dịch nghĩa prajñāpāramitā là Huệ đáo bỉ ngạn (zh. 慧到彼岸), Trí độ (zh. 智度), Trí huệ độ người sang bờ bên kia. Tuy có vấn đề về mặt ngữ nguyên - ví như chiết tự pāram-itā và cho pāram là bỉ ngạn, là bờ bên kia và itā là đến, bước sang (gốc động từ √i, eti) - nhưng cách dịch Huệ đáo bỉ ngạn hoặc Trí độ vẫn có nghĩa vì chúng chỉ đến một loại trí huệ độ người sang bờ bên kia, từ bể luân hồi đến bờ niết-bàn. Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng là tên của một số bộ kinh quan trọng, xuất hiện khoảng thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên, với nội dung xoay quanh chính Bát-nhã-ba-la-mật-đa này, và cũng là tên của một vị Bồ Tát.

Prajñāpāramitā means "the Perfection of (Transcendent) Wisdom" in Mahāyāna Buddhism. Prajñāpāramitā refers to this perfected way of seeing the nature of reality, as well as to a particular body of sutras and to the personification of the concept in the Bodhisattva known as the "Great Mother" (Tibetan: Yum Chenmo). The word Prajñāpāramitā combines the Sanskrit words prajñā "wisdom" with pāramitā "perfection". Prajñāpāramitā is a central concept in Mahāyāna Buddhism and is generally associated with the doctrine of emptiness (Shunyata) or 'lack of Svabhava' (essence) and the works of Nagarjuna. Its practice and understanding are taken to be indispensable elements of the Bodhisattva path.

According to Edward Conze the Prajñāpāramitā Sutras are "a collection of about forty texts...composed in India between approximately 100 BC and AD 600." Some Prajñāpāramitā sūtras are thought to be among the earliest Mahāyāna sūtras.

One of the important features of the Prajñāpāramitā Sutras is anutpada (unborn, no origin).

Một bản của kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa bằng tiếng Phạn

References:

  1. http://puzzling.stackexchange.com/questions/5656/when-does-11-3
  2. Wikipedia
  3. http://dictionary.buddhistdoor.com/en/word/16617/triyana

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/11/2021(Xem: 15053)
Đây chỉ là chiếc thuyền nan, chưa tới bờ bên kia, vẫn còn đầy ảo tưởng chèo ra biển cả. Thân con kiến, chưa gột sạch đất cát, bò dưới chân Hy Mã Lạp Sơn, nghe tiếng vỗ của một bàn tay trên đỉnh cao. Chúng sinh mù, nếm nước biển, ngỡ bát canh riêu cá, Thế gian cháy, mải vui chơi, quên cảnh trí đại viên. Nắm vạt áo vàng tưởng như nắm lấy diệu quang, bay lên muôn cõi, theo tiếng nhạc Càn Thát Bà réo gọi về Tịnh Độ, ngửi mùi trầm Hương Tích, an thần phóng thoát. Con bướm mơ trăng Cực Lạc, con cá ngụp lặn dưới nước đuôi vàng như áo cà sa quẫy trong bể khổ, chờ thiên thủ thiên nhãn nghe tiếng sóng trầm luân vớt lên cõi Thanh văn Duyên giác. Những trang sách còn sở tri chướng của kẻ sĩ loanh quanh thềm chùa Tiêu Sơn tìm bóng Vạn Hạnh, mơ tiên Long Giáng lào xào bàn tay chú tiểu Lan trên đồi sắn.
08/11/2021(Xem: 10966)
Hiền Như Bụt là tác phẩm biên khảo về Phật Giáo, bút ký pha lẫn văn chương nhưng không phải do một tu sĩ hay một nhà nghiên cứu Phật học sáng tác mà do một trí thức khoa bảng yêu mến và quý trọng Đạo Phật viết ra. Nó là sản phẩm của 20 năm, từ 1992-2012. Hạ Long Bụt Sĩ tên thật là Lưu Văn Vịnh. Ông là một dược sĩ & Cao Học Dược, Cao Học Triết Học Tây Phương -nguyên giảng sư về các bộ môn Triết Học, Tâm Lý Học tại Đại Học Văn Khoa, Vạn Hạnh và Minh Đức. Ông đã xuất bản khoảng 11 tập thơ trong đó có dịch thơ Ả Rập và Thơ Thiền cùng một số sách nghiên cứu lịch sử và triết học. Hiền Như Bụt dày 444 trang xuất bản năm 2020, bao gồm một chương Tổng Quát và sáu chương với những chủ đề: Phật Pháp Trị Liệu Pháp, Đạo Bụt và Khoa Học Vật Lý, Bóng Phật Trong Văn Học, Tư Tưởng Tam Giáo, Đạo Bụt Canh Tân và Chuỗi Ngọc Kinh Phật.
07/11/2021(Xem: 4437)
Phần này bàn về cách dùng đã, đã đã, đã tật và làm đã, đã làm vào thời LM de Rhodes đến truyền đạo. Đây là lần đầu tiên cách dùng này hiện diện trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh/Bồ (chữ quốc ngữ). Ngoài các bản Nôm của LM Maiorica ghi ở đoạn sau, tài liệu tham khảo chính của bài viết này là bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
04/11/2021(Xem: 7314)
Sau đây là bản Việt dịch bài giảng pháp của Đại Sư Mahasi Sayadaw (1904-1982) trước các thiền gia trong buổi lễ khai thị ở trung tâm thiền tập Mahasi Meditation Center, Rangoon, Miến Điện. Bài này được dịch từ tiếng Miến sang Anh ngữ bởi Unyi Nyi, và sửa chữa lại năm 1997 bởi Đại Sư Pesala.
29/10/2021(Xem: 3653)
Cựu Ngoại trưởng Mỹ, Phu nhân Tổng thống Hoa Kỳ, Hillary Rodham Clinton cho biết bà thường thực tập thiền định vào các khoảng thời gian giải lao trong suốt phiên điều trần ứng viên Tổng thống kéo dài 10 giờ liền.
16/10/2021(Xem: 6924)
Được sự thương tưởng và hỗ trợ của quí vị chúng con, chúng tôi vừa thực hiện xong 14 giếng cần giục (Well hand-pump) cho những ngôi làng nghèo lân cận vùng núi Khổ Hạnh Lâm - Bồ Đề Đạo Tràng & vùng Kê Túc Sơn tiểu bang Bihar India. Đây là Public Well Hand-pump nên cả làng có thể xài chung, người dân nghèo bớt đi rất nhiều nỗi nhọc nhằn trong mùa Hạ vì phải đi lấy nước ngoài sông xa. Kính mời quí vị xem qua một số hình ảnh tường trình. (09 Oct 2021)
10/10/2021(Xem: 8961)
Hơn hai năm qua, từ khi phát hiện mình bị cao huyết áp (Hypertension ), tôi thường xuyên đến bệnh viện tái khám và nhận thuốc theo định kỳ của bác sĩ đều trị. Nơi đó là bệnh viện địa phương theo tuyến Quận đã đăng ký trong thẻ Bảo Hiểm Y Tế.
09/10/2021(Xem: 5389)
Trong cuộc sống con người chúng ta thường có nhiều hơn nỗi sợ tồn tại cùng một lúc: sợ thay đổi, sợ thất bại, sợ sai lầm,sợ ma, sợ tình người vô cảm, sợ bị từ chối,… Có thể nói ...sợ hãi là một trong những trạng thái tinh thần tiêu cực gắn với nét tâm lý hoang mang, lo sợ của con người. Trạng thái này xuất hiện như một phản xạ tự nhiên khi chúng ta nhận ra mối nguy hại ảnh hưởng tiêu cực và đe dọa, gây ra sự nguy hiểm. Khác với sự lo lắng thông thường, nỗi sợ hãi thường khiến con người không giữ được bình tĩnh, run sợ không dám đối diện và vượt qua. Có những nỗi sợ hãi do tác động từ yếu tố khách quan bên ngoài, tuy nhiên cũng có những nỗi sợ vô hình in sâu trong tâm lý, tiềm thức của con người, chỉ cần một tác động nhỏ của ngoại lực, sự sợ hãi sẽ bộc phát và gây ảnh hưởng xấu đến cảm xúc, hành vi của con người. Nỗi sợ thường xuất phát từ những áp lực ràng buộc con người
07/10/2021(Xem: 7816)
Mặc dù tình hình Dịch Covid tại Ấn Độ đã lắng dịu khá nhiều so với thời điểm nguy hiểm cách đây 3 tháng trước nhưng sự vân hành của nền kinh tế quốc gia vẫn còn đang tắc nghẽn, trì trệ do ảnh hưởng chung của nạn dịch toàn cầu. Trong tâm tình Hộ trì Tăng Bảo, san sẻ với chư Tăng tu hành nơi xứ Phật trong lúc còn nhiều khó khăn, vào sáng Chủ Nhật 03 Oct 2021 vừa qua chúng con, chúng tôi đã thực hiện một buổi cúng dường chư Tăng thuộc các truyền thống Phật giáo tại Bangladesh Monastery thuộc khu vực Bồ Đề Đạo Tràng Bodhgaya India với sự bảo trợ của chư tôn đức Ni và chư Phật tử 4 phương...
07/10/2021(Xem: 6088)
Dù tại gia hay xuất gia, chúng ta đến với đạo Phật nhưng chỉ biết những hình thức cúng kiến, lễ lạy, cầu nguyện mà thôi, không chịu tìm hiểu xem Đức Phật dạy những gì để áp dụng trong cuộc sống hằng ngày, tìm hiểu xem đâu là chánh pháp, điều gì là Chánh kiến thì khổ đau vẫn hoàn đau khổ, theo đạo Phật như thế thì không lợi lạc gì bao nhiêu và.. có khác chi bao người không biết đến Phật Pháp?
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]