Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Từ Quốc tộ đến bài thơ Thần

05/02/201620:06(Xem: 7450)
Từ Quốc tộ đến bài thơ Thần

Từ Quốc tộ đến bài thơ Thần:
Tinh thần và sự đóng góp của Phật giáo Việt Nam

cho nền văn hiến và lịch sử Dân tộc Việt Nam

 Tran Nhan Tong

Giới thiệu: Nhân dịp Xuân - Tết Cổ truyền Dân tộc, trân trọng giới thiệu bài viết Từ Quốc tộ đến bài thơ Thần như là món quà ghi nhớ lại nền lịch sử văn học Việt Nam nói chung và tư tưởng Triết học Phật giáo Việt Nam nói riêng trong các vấn đề về Quốc gia, Dân tộc trong bối cảnh: Phật giáo đã đóng góp gì cho Dân tộc và lịch sử Việt Nam? Qua đó, nhận thấy được sự đóng góp tích cực của Phật giáo Việt Nam cho đất nước Việt Nam có một nền độc lập, tự chủ và dân quyền nhằm thoát khỏi lệ thuộc Phương Bắc bằng tinh thần điềm tỉnh của Thiền học và sự minh triết của các Thiền sư trí thức Việt Nam.  

 

Nền văn học viết Việt Nam còn lưu giữ lại dấu tích của tiền nhân - Cha Ông chúng ta đã lưu truyền cho đời sau về kế sách xây dựng, phát triển đất nước và giữ Nước từ khi Nước chưa nguy, vừa thỏa mãn yêu cầu bảo vệ chủ quyền quốc gia, dân tộc vừa đáp ứng nguyện vọng hòa bình, dân chủ, đa nguyên của người dân.

Từ Quốc tộ đến bài thơ Thần, hay nói cách khác là từ “Vận nước” đến “Lòng dân” đã đề xuất được hệ thống tư tưởng chính trị hoàn chỉnh để định hướng cho sự phát triển của một hệ thống chính quyền do chính người dân Việt Nam làm chủ đất nước. Vì vậy, bài thơ Vận nước và bài thơ Thần có một vị thế hết sức quan trọng không chỉ trong lịch sử văn học mà cả trong lịch sử tư tưởng chính trị và lịch sử - tư tưởng triết học Phật giáo Việt Nam.

Trước hết, xin thưa cùng quý đọc giả, những bậc thức giả yêu nước cho đến những người dân lương thiện chân lắm tay bùn, đây là bài viết có tính cách Văn học - hàn lâm, mang nhiều ý nghĩa về chính trị-xã hội thực tiễn của Việt Nam, nhưng cũng không xa rời tính chân thật, giản dị và chân chất của đại đa số người dân Việt Nam chúng ta. Tại sao nói như vậy? Vì khi đề xuất và khảo sát giá trị lịch sử Việt Nam qua hai bài thơ tiêu biểu này thì không thể không đề cập đến yếu tố ngôn ngữ, đó là chữ Hán. Nói đến chữ Hán không có nghĩa là chữ của “Tàu” không có nghĩa là của người “Trung Quốc” gì cả, vì thực tế của lịch sử dân tộc và nền văn học viết Việt Nam giai đoạn này mà điển hình là hai bài thơ Quốc tộ đến bài thơ Thần là nền văn học chữ Hán. Nhưng chữ Hán được sử dụng bởi người Việt và phục vụ cho sự xây dựng, phát triển, bảo vệ đất nước cũng như nền văn học Việt Nam để về sau chúng ta có nền văn học chữ Nôm - chữ Quốc ngữ; và từ đó lưu truyền muôn đời sau cho con cháu Việt Nam.

Trở lại vấn đề đã đặt vấn đề ở trên, từ Quốc tộ đến bài thơ THẦN hợp lại như là một mệnh đề trong các khía cạnh suy nghĩ về vận nước và lòng dân cũng như tinh thần của Phật giáo Việt Nam tích hợp trong lòng Dân tộc suốt chiều dài lịch sử dựng nước và bảo vệ đất nước, nhất là thoát khỏi hệ lụy và đô hộ của phương Bắc Trung Quốc.

Vận nước  (國祚: Quốc tộ) là bài thơ nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam ẩn chứa nhiều tư tưởng Thiền học Việt Nam và tư tưởng Triết học Phật giáo, là một trong những bài thơ sớm nhất có tên tác giả (định danh được tác giả) của văn học viết Việt Nam. Bài thơ là câu trả lời của Thiền sư Pháp Thuận đối với Hoàng đế Lê Hoàn khi được hỏi “Vận nước ngắn dài thế nào?”.

Trước tiên, chúng ta cần khảo sát bài thơ Quốc tộ, như sau:

Nguyên văn chữ Hán:

國祚

國祚如藤絡,

南天裏太平。

無為居殿閣,

處處息刀兵。

 

Phiên âm Hán-Việt:

Quốc tộ[1]

Quốc tộ như đằng lạc,

Nam thiên lý thái bình.

Vô vi cư điện các,

Xứ xứ tức đao binh..

 

Dịch nghĩa và dịch thơ:

Về phần dịch nghĩa và dịch thơ, người viết (gộp chung) mạo muội dịch từ Hán ra Việt, để thuận tiện cho việc so sánh, đối chiếu và khảo sát yếu tố “về vận nước và lòng dân” mà Lê Hoàn đã hỏi Thiền sư Pháp Thuận.


Dịch nghĩa và dịch thơ:

Vận nước

Vận nước chẳng khác nào như dây mây leo quấn quýt,

Nơi cõi trời Nam cảnh thái bình.

Vô vi ở cung điện,

Khắp mọi nơi đều chấm dứt hết binh đao.

 

Từ bản thơ nguyên bản chữ Hán và tình hình thực tế của bối cảnh đất nước lúc bấy giờ, cùng với vận nước và lòng dân chúng ta có thể phát thảo ra cuộc đối đáp như sau:

Vua Lê Đại Hành hỏi về vận nước:

- Làm thế nào để cho vận mệnh quốc gia được dài lâu?

Thiền sư Pháp Thuận đáp:

 - Vận nước như dây mây quấn.

 Vua Lê Đại Hành:

- Ý là gì?

Thiền sư Pháp Thuận:

-  Ta phải giữ gìn đất nước như thế quấn của dây mây, một sợi mây tuy có dẻo dai nhưng vẫn dễ đứt, dễ gãy nếu ta biết cách bẻ, còn nhiều dây mây quấn lại thành bó khó có sức mạnh nào bẻ gãy.

Vua Lê Đại Hành:

- Trẫm phải làm gì, thưa Ngài?

Thiền sư Pháp Thuận:

- Bệ hạ cần phải cốt làm sao trăm họ hướng về Vua  với một lòng tôn kính, Vua lấy ý nguyện của dân làm ý nguyện của mình, nỗi khổ của dân cũng là nỗi khổ của mình. Tìm cách hoá giải những xung đột nội bộ của một quốc gia. Liên kết nhân tâm lại với nhau như những dây mây riêng lẻ được kết thành một bó mây.

Vua Lê Đại Hành:

- Thiền sư nói rõ cho.

Thiền sư Pháp Thuận:

-  Kinh Phật nhắc nhở cẩn thận tuyệt đối không được kiêu ngạo. Muốn cho đất nước được yên bình, Vua phải biết cách áp dụng phương pháp, hay là nguyên lý tu dưỡng vô vi nơi triều đình của mình. Vua là thiên tử - con trời (theo quan niệm nho gia). Vua tượng trưng cho quyền lực, sức mạnh của một thể chế, đế chế (đất nước). Vì vậy, trong nước luôn cần phải liên kết nhân tâm lại với nhau như Bệ hạ đã biết: những dây mây riêng lẻ bó thành một bó mây là vậy, thưa bệ hạ đó là cách giữ cho Vận nước được dài lâu.

Bài thơ Vận Nước của Thiền sư Pháp Thuận (法順禪師 Pháp Thuận Thiền Sư, 1-990[2]) đã khéo léo vận dụng thâm ý của nhà Phật mà vận dụng vào hệ thống chính trị nước nhà, tức là dựng nước đi đôi với giữ nước, giữ nước từ khi nước chưa nguy để cho vận nước được dài lâu, lòng dân yên ổn. Nói một cách khác, nó biểu hiện cho giá trị nhân văn-nhân bản, vị tha, là sự khai minh của tinh thần yêu nước và tinh thần nhân đạo, đồng hành cùng dân tộc của Phật giáo Việt Nam. 

Thiền sư Pháp Thuận thuộc dòng Tì Ni Đa Lưu Chi (? – 594). Buổi đầu, Ngài đã giúp nhà Tiền Lê sáng nghiệp, nhưng trọn đời không nhận phong thưởng, không nhận chức tước. vì thế, vua Đại Hành càng kính trọng Ngài và từ đó gọi Ngài là Pháp sư[3].
Như vậy, qua cách thức xác định dân là chủ của nước này và phương pháp lý luận chủ chốt về tính dân tộc trong sự đa dạng được đề xuất bởi Thiền sư Pháp thuận, thì vận nước và lòng dân sẽ hưng thịnh và bên lâu. Các vấn đề này cũng tương tác và tích hợp được với ý tưởng trong bài thơ Thần.

Chúng ta khảo sát bài học kinh nghiệm lịch sử của cha ông chúng ta qua bài thơ Thần, sau đó chúng ta sẽ tổng hợp, kết hợp hai yếu tố trong hai vấn đề của Quốc tộ và thơ Thần để giải đáp các câu hỏi trên, dựa trên những diễn biến và tình hình thực tế của đất nước.

Về bài thơ Thần, tức là bài Nam quốc sơn hà, tạm dịch là Sông núi nước Nam. Cũng như bài thơ Vận nước, bài Sông núi nước Nam là bài thơ nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam. Theo nhận dịnh của các nhà Dân tộc học, chính trị học, sử gia, văn hóa, các nhà văn học...nếu như Nam quốc sơn hà (Sông núi nước Nam) được coi là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của Việt Nam thì Quốc tộ (Vận nước) được coi là bản tuyên ngôn hòa bình đầu tiên của Việt Nam. Quốc tộ nói lên vận nước lòng dân thì Nam quốc sơn hà khẳng định vị thế của quốc gia, dân tộc; thỏa mãn yêu cầu bảo vệ chủ quyền quốc gia vừa đáp ứng nguyện vọng của người dân. Từ hai yếu tố này, thế nước, lòng dân luôn luôn ổn định, dài lâu.

Bài thơ Nam quốc sơn hà ra đời trong hoàn cảnh hai lần kháng chiến chống giặc ngoại xăm của quân Tống năm 981 và 1077.

Về văn bản của bài thơ Thần, người viết không đề cập đến dị bản, mục tiêu là đề cập đến yếu tố “Vận nước và lòng dân” trong sự đề xuất và liên đới với tư tưởng triết học Phật giáo, nên không khảo sát sâu trong lĩnh vực văn bản học - dị bản trong văn học.


Nguyên văn chữ Hán như sau:

南國山河

南 國 山 河 南 帝 居

截 然 定 分 在 天 書

如 何 逆 虜 來 侵 犯

汝 等 行 看 取 敗 虛

 

 Phiên âm Hán-Việt:

Nam quốc sơn hà

Nam quốc sơn hà Nam đế cư,

Tiệt nhiên định phận tại Thiên thư.

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.

 

 Dịch thơ:

Về phần dịch thơ bài thơ Thần, người viết mạo muội dịch từ Hán ra Việt.

 

Sông núi nước Nam, vua Nam ở,

Rành rành sách trời chia xứ sở.

Lũ giặc cớ sao sang xâm phạm,

Các ngươi nhất định phải tơi bời.

 

Theo tài liệu lưu trữ trong Mộc bản triều Nguyễn[4] thì nội dung bài thơ “Nam quốc sơn hà” là bản bản khắc gỗ cổ nhất bài thơ này còn lại cho đến ngày nay. Chúng ta tham khảo và đối chiếu vào trong bản nội dung bài thơ trong Đại Việt sử ký toàn thư [5] thì cùng thống nhất với nhau về mặt nội dung.

Tại sao gọi bài Nam quốc sơn hà là bài thơ Thần? Gọi thơ Thần là bởi vì bài thơ được cho là của Thần không mà không có tác giả cụ thể, tác giả là Thần, do Thần đọc giúp Lê Hoàn chống quân Tống năm 981 và Lý Thường Kiệt chống quân Tống năm 1077. Như vậy, bài thơ thất ngôn tứ tuyệt này đến nay vẫn còn khuyết danh tác giả, tác giả của nó chỉ được biết đến chung chung là “Thần” chứ không có tác giả cụ thể. Hầu hết các nhà nghiên cứu đều nhận định là bài thơ của Thần, tức là khuyết danh tác giả, nhưng với nhà nghiên cứu GS. Lê Mạnh Thát, trong bài “Pháp Thuận và bài thơ thần nước Nam sông núi”  ông cho rằng tác giả bài thơ chính là Thiền sư Pháp Thuận. Nếu Vậy, điều này rất thú vị và có nhiều thâm ý tích cực, ý nghĩa sâu sắc trong lịch sử dân tộc và lịch sử Phật giáo Việt Nam, nó khẳng định sự bó chặt đến sâu sắc và sự đóng góp hết sức ý nghĩa của Phật giáo Việt Nam cho Đất nước và Dân tộc.

Theo sách Đại Việt sử ký toàn thư xác định thì vào năm 1076, Quách Quỳ, Triệu Tiết đem quân 9 tướng, hợp với Chiêm Thành, Chân Lạp tấn công Đại Việt. Hai bên giao tranh ở sông Như Nguyệt, một đêm quân sĩ chợt nghe trong đền Trương tướng quân có tiếng đọc to rằng:

“Nam quốc sơn hà Nam đế cư

Tiệt nhiên phân định tại thiên thư

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư!”[6]

Sau này đúng như lời thơ, Lý Thường Kiệt đánh bại hơn 30 vạn quân nhà Tống (Trung Quốc) do Quách Quỳ chỉ huy xâm lược Đại Việt.

Nam quốc Sơn hà khẳng định nên vị thế lãnh thổ quốc gia – dân tộc, và sự thật rằng sông núi, vùng trời nước Nam thì người dân nước Nam ở và làm chủ, đó là chân lý đã định rành rành, không thể nào xóa. Nếu mà (và đã) lũ giặc vô cớ mà sang xâm phạm, thì với tập hợp sức mạnh của ý chí và lòng dân sẽ luôn làm cho lũ giặc phải tơi bời.

Tóm lại, bài thơ Vận Nước của Thiền sư Pháp Thuận kết hợp với bài thơ Thần Sông Núi Nước Nam có một vị thế hết sức quan trọng không chỉ trong lịch sử văn học mà cả trong lịch sử tư tưởng chính trị và tư tưởng Triết học chính trị xã hội Phật giáo Việt Nam; Nó đã tạo nên một thành trì vững mạnh và thành công khi đề xuất được hệ thống tư tưởng chính trị hoàn chỉnh để định hướng cho sự phát triển của một hệ thống chính quyền làm chủ đất nước vừa thỏa mãn yêu cầu bảo vệ chủ quyền quốc gia toàn vẹn lãnh thổ vừa đáp ứng nguyện vọng của người dân. Nó là Kho tàng quý báu vô giá chứa đựng tinh thần tự soi rọi và kết hợp sức mạnh dân tộc, lấy dân làm gốc, nó là viên minh châu trong nền văn học Việt Nam và nền văn học Phật giáo Việt Nam mà vẫn còn lưu giữ được cho đến ngày nay, những bài thơ chứa đựng được tư tưởng chính trị của Phật giáo Việt Nam như là hệ tư tưởng thẩm thấu và bó chặt vào trong lòng dân tộc; thể hiện sự đóng góp hết sức to lớn và tích cực của Phật giáo cho nền văn hiến dân tộc và lịch sử Việt Nam, lưu truyền cho con cháu chúng ta bài học lịch sử sâu sắc không những chỉ có giá trị trong quá khứ mà cả trong hiện tại lẫn tương lai.

 

Thiền đường Thiền viện Pháp Thuận,

San Diego, California, ngày 2 tháng 2, 2016,

 

Thích Giac Chinh.

 

---------------------

Tài liệu tham khảo:

  1. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Bản Kỷ, Bản in Nội Các Quan Bản Mộc bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1697), Soạn giả: Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên, v.v..., 1697, Dịch giả: Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam 1985-1992, nhà xuất bản: Khoa Học Xã Hội - Hà Nội 1993, chuyển sang ấn bản điện tử bởi: Lê Bắc, Công Đệ, Ngọc Thủy, Tuyết Mai, Hồng Ty, Nguyễn Quang Trung, 2001.
  2. Giác Chinh – Trần Đức Liêm, Di sản Mộc bản Triều Nguyễn Tìm năng Văn hóa Dân Tộc, Tham luận Hội thảo Quốc Tế Việt Nam Học Lần 4, Viện Hàn Lâm Khoa Học Xã Hội Việt Nam, 2012.
  3. Thiền uyển tập anh (禪苑集英), còn gọi là Thiền uyển tập anh ngữ lục (禪苑集英語錄), Đại Nam thiền uyển truyền đăng tập lục (大南禪宛傳燈集錄), Soạn giả: Kim Sơn - Thiền phái Trúc Lâm, Thế Kỷ 14 (1337), dịch giả Lê Mạnh Thát (Dựa trên bản in năm 1715), Nhà xuất bản: Đại Học Vạn Hạnh - Saigon 1976 & 1999.

 



[1] Vận nước  (國祚: Quốc tộ). Nó là câu hỏi của vua Lê Hoàn hỏi “Vận nước ngắn dài thế nào?” với Thiền sư Pháp Thuận.

[2] Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Bản Kỷ - Quyển I, Thì năm Đinh Hợi – Năm 987, Nhà Tống sai Lý Giác sang nước Việt, Khi Giác đến chùa Sách Giang, Vua sai pháp sư tên là Thuận giả làm người coi sông ra đón. Trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư không nói rõ Thiền sư Pháp Thuận sinh vào năm nào chỉ nhận thấy Pháp Thuận Thiền Sư (1-990). Nhưng trong Thiền Uyển Tập Anh, bản dịch của GS. Lê Mạnh Thát đề cập Thiền sư Pháp Thuận (925-990).

[3] Pháp sư là các bậc cao tăng vừa tinh thông Tam Tạng Kinh Phật, vừa có năng lực giảng giải Phật pháp và vừa có tầm nhìn về quốc gia, xã hội thì được gọi là Pháp sư.

[4] Giác Chinh – Trần Đức Liêm, Di sản Mộc bản Triều Nguyễn Tìm năng Văn hóa Dân Tộc, Tham luận Hội thảo Quốc Tế Việt Nam Học Lần 4, Viện Hàn Lâm Khoa Học Xã Hội Việt Nam, 2012.

[5] Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Bản Kỷ, Bản in Nội Các Quan Bản Mộc bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1697), Soạn giả: Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên, v.v..., 1697, Dịch giả: Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam 1985-1992, nhà xuất bản: Khoa Học Xã Hội - Hà Nội 1993, chuyển sang ấn bản điện tử bởi: Lê Bắc, Công Đệ, Ngọc Thủy, Tuyết Mai, Hồng Ty, Nguyễn Quang Trung, 2001.

[6] Đại Việt sử ký toàn thư; Soạn giả Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên,....Dịch giả Viện sử học Việt Nam; Nhà xuất bản khoa học xã hội, 1993.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/09/2015(Xem: 8318)
Hôm nay là ngày rằm, từ sáng sớm bà chủ đã ngỏ lời: “Hây, tối nay kính mời khách thưởng trà ngắm trăng với chúng tôi trong vườn nhà”. Khi ráng chiều vừa tắt, bà chủ đưa cho khách bộ Yukata (Kymono mặc mùa hè), một đôi tất trắng, một đôi guốc xỏ ngón và một cái hoa vải màu hồng nâu. Thấy khách lúng túng, hiểu ý, bà chủ ân cần hướng dẫn khách sử dụng từng loại. Bà chủ chia sẻ: “Mặc Yukata khó nhất và đẹp nhất là cái đai quanh thắt lưng”. Miệng nói, tay làm, bà giúp khách hoàn thiện cái đai này. Bà lại hồn hậu: “Búi tóc kiểu Nhật cũng không là việc dễ”, rồi đôi tay bà chủ thoăn thoắt, chỉ mươi phút mái tóc của khách đã được búi cao lại còn giắt thêm cái hoa vải màu hồng nâu sau gáy. Khách nghĩ, mình đã tươm tất lắm rồi, thì nghe bà chủ nhắc khéo: “Mặc Yukata đôi chân phụ nữ phải được bọc trong đôi vớ trắng và bước đi với đôi guốc xỏ ngón”. Nghe lời, khách mang vớ, mang guốc rồi thử bước đi; xong, khách thầm nhủ “mang đôi guốc này mà không té là điều kỳ diệuJ”.
19/09/2015(Xem: 9270)
Đối với người Phật tử, dù ở bất cứ phương trời nào, không phải chỉ mùa Vu Lan mới là thời điểm để người con Phật thể hiện lòng báo đức tri ân. Ân Chư Phật, ân Thầy Tổ, ân cha mẹ giáo dường, ân đàn na thí thí, ân xã hội, ân chúng sanh …. mà ân kia, đức đó phải luôn phát nguyện bằng thiện tâm: “Hiếu là độ được song thân, Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài” Theo tinh thần trùng trùng duyên khởi trong kinh Hoa Nghiêm thì muôn người, muôn loài đều thầm lặng vì nhau mà sinh diệt. Cái này vì cái kia mà hiện hữu, cái này ra đi để cái kia tồn tại. Như lá rụng mà thực chẳng diệt, vì lá lại thành đất nuôi cây. Như mây tụ lại mà thực chẳng tan, vì mây chỉ chuyển hóa thành mưa tươi mát, tắm đẫm cỏ nội hoa ngàn ….
18/09/2015(Xem: 8860)
Được sự đồng ý của tác giả, Cư sĩ Diệu Nhung, Cư sĩ Tâm Thành và các Cư sĩ khác hùn phước ấn tống và gửi tặng sách GIA TÀI CỦA NGƯỜI TỈNH THỨC (Thực tập Kham nhẫn) phiên bản tiếng Việt cho các đối tượng sau đây: 1. Đọc giả người Việt đang sinh sống và làm việc trong khu vực VIỆT NAM và CHÂU Á. 2. Các tu sĩ Phật giáo người Việt không phân biệt tông phái. 3. Các cư sĩ người Việt đang nghiên cứu và thực tập Phật giá
13/09/2015(Xem: 7775)
Giáo dục là gì? Hiện nay khó mà định nghĩa dứt khoát; có rất nhiều định nghĩa khác nhau, ví dụ: Như trong cuốn "The Educator’s encyclopedia" của ba học giả Mỹ E.W. Smith, S.W. Krouse và M.M. Atkinson, 1969, USA, cho rằng khái niệm giáo dục chuyển tiếp từ Phương Đông đến thái độ Phương Tây và trong Larouse Universelle của Pháp định nghĩa: "Giáo dục là toàn thể những cố gắng có ý thức để giúp tạo hóa trong việc phát triển các năng lực thể chất, tinh thần và đạo đức của con người, hướng về sự toàn thiện, hạnh phúc và sứ mạng xã hội của con người". (Trích dẫn từ Sư Phạm Lý Thuyết, nhiều tác giả, nhà xuất bản trẻ năm 1971).
12/09/2015(Xem: 7263)
Những ngôi Chùa nổi tiếng ở VN
12/09/2015(Xem: 16792)
Nếu có người nào đó bảo rằng: “Tại sao Thầy viết nhiều và không chịu nghỉ ngơi, hãy để dồn viết một tác phẩm có giá trị vẫn hay hơn là những bài tạp ghi như vậy“ thì tôi sẽ trả lời rằng: “Nếu viết được thì cứ viết, chứ chờ viết hay mới viết thì biết bao giờ mới viết được một bài. Có nhiều người chờ cả đời không viết, đến khi muốn viết thì không còn sức khỏe nữa“. Quả cuộc đời nầy nó có nhiều cái khó như thế, mà chúng ta thì không tự làm chủ thời gian cũng như sức khỏe của mình được. Do vậy tôi chủ trương rằng: “Cái gì làm được trong ngày hôm nay thì hãy nên làm, chứ chờ đến ngày mai thì nhiều khi ngày mai ấy không còn ở lại với mình nữa. Dầu ta có già, có sống lâu bao nhiêu năm trên thế gian nầy đi nữa, rồi một ngày nào đó chúng ta cũng phải ra đi, mà thời gian thì chẳng thương tiếc gì ta, dầu ta có cố níu kéo nó lại. Ngay cả những người thân trong gia đình, mình cứ ngỡ rằng họ luôn ở gần mình và họ thuộc về một phần của cuộc sống mình, nhưng điều ấy ta đã lầm. Cuối cùng rồi chẳng có
12/09/2015(Xem: 9219)
Phật Giáo Việt Nam và vấn đề bảo vệ mội trường
10/09/2015(Xem: 10430)
Mẹ tôi năm nay 83 tuổi, mẹ đã bị bệnh mất trí nhớ (dementia) trong vòng năm năm nay. Bốn năm trước đây, khi tôi gặp mẹ, cánh cửa của căn chung cư mẹ tôi ở đã mở toang, và mẹ tôi đã đi lang thang ra ngoài đường. Bệnh mất trí nhớ của mẹ tôi phát ra rất nhanh, nhanh đến nỗi mẹ đã không còn nhớ đến ai cả.
06/09/2015(Xem: 9331)
Các nhà sư thuyết giảng cho người thế tục là chuyện bình thường, thế nhưng nếu một nhà sư đứng ra thuyết giảng cho các nhà sư khác thì quả là một chuyện hiếm hoi khi gặp. Dưới đây là một bài nói chuyện của nhà sư Thanissaro Bhikkhu với các bạn đồng tu trong một ngôi chùa mà nhà sư này có ý gọi chung các ngôi chùa là "bệnh viện của Đức Phật". Bài nói chuyện được trích dẫn từ một tập sách mang tựa "Thiền định 1: Bốn mươi bài thuyết giảng Đạo Pháp" (Meditation 1: Forty Dhamma Talks, Access to Insight, 2003), gom góp các bài thuyết giảng của ông. Thanissaro Bhikkhu là một nhà sư người Mỹ tu tập theo truyền thống "Tu Trong Rừng" của Phật Giáo Theravada, một nhà sư thật đáng kính, uyên bác và tích cực, vô cùng xứng đáng để hàn huyên với các nhà sư và thuyết giảng cho tất cả chúng ta nghe.
03/09/2015(Xem: 23838)
Nói đến giáo lý Phật giáo là nói đến chữ Tâm. Ngay sau khi thành đạo, đầu tiên đức Phật thuyết về tâm (kinh Hoa Nghiêm), rồi đến khi sắp nhập Niết-bàn, Phật cũng đã dặn dò hàng đệ tử phải chế ngự tâm (kinh Đại Bát Niết Bàn, kinh Di Giáo). Phật pháp lấy tâm làm gốc. Có thể nói mà không sợ lầm lẫn, tất cả những điều đức Thế Tôn đã dạy, được hai phái Tiểu thừa, Đại thừa kết tập lại trong Tam tạng, đều nói đến chữ “tâm”. Đệ tử của Phật, thực hành theo những gì đức Phật đã giáo hóa, cho dù tu học theo tông phái, pháp môn nào, cũng không ngoài bốn chữ: “tu tâm dưỡng tánh”. Vậy tìm hiểu chữ tâm cho thấu đáo, khảo sát, thẩm cứu, thường xuyên quán chiếu về tâm, trộm nghĩ đó cũng là điều lý thú và hết sức cần thiết đối với hành giả, đấy chứ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]