Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tết Khỉ nói chuyện võ khỉ

05/02/201619:52(Xem: 8440)
Tết Khỉ nói chuyện võ khỉ
Tết Khỉ nói chuyện võ khỉ
Lê Huy Trứ
 
hau-quyen
  
Có đấu võ thì cấm cắn nhiễm vi trùng độc nghen
Người Trung Hoa và người Ấn Độ coi khỉ như một con vật linh thiêng là thần khỉ là hầu vương, đại thánh tề thiên.  Trong lãnh vực võ thuật cổ truyền, khỉ có riêng biệt những thế võ khỉ được gói ghém trong những bài “Hầu Quyền.”   
Có nhiều truyền thuyết về Hầu Quyền nhưng lai lịch, xuất xứ của môn võ này thì dường như bao quanh bởi một lớp huyền thoại. Có nhà nghiên cứu cho rằng chính Ngô Thừa Ân đã cảm tác nhân vật Tôn Ngộ Không từ hầu quyền và người xưa lại dùng tích Tôn Ngộ Không để đặt tên cho một số chiêu thức của Hầu Quyền.
Nhưng dù truyền thuyết hay lý luận thực tiễn thì có một điều mà không ai có thể phủ nhận đó là dựa vào tính cách đặc thù của loài khỉ trong lúc chiến đấu mà người Trung Hoa chế ra tượng hình quyền nổi danh của võ học Trung Hoa.
Hầu Quyền (猴拳) là một môn võ dựa theo thần thái, động tác, kỹ thuật chiến đấu của loài khỉ, nằm trong hệ thống các kỹ thuật được gọi là tượng hình quyền (hay "hình ý quyền linh thú",) mô phỏng qua động tác chiến đấu của các con thú. 

hau-quyen-2
Sư Thiếu Lâm biểu diễn Hầu Quyền với gậy
 
Trong "thập đại hình tượng" của Thiếu Lâm phái bao gồm Long (, rồng), Xà (, rắn), Hổ (, hổ), Báo (, báo), Hạc (, chim hạc), Sư (, sư tử), Tượng (, voi), Mã (, ngựa), Hầu (, khỉ), Điêu (, chim điêu) hoặc Kê (, gà), thì hầu quyền đứng hạng thứ 9.
 
Theo “Thượng thư” (Trung Quốc cổ thư,) những tư thế mô phỏng dáng điệu, động tác của muông thú được gọi chung dưới tên “Bách thú vũ.”  Sau kết hợp động tác với kỹ thuật chiến đấu thành một thể loại võ thuật là “Hình tượng quyền.”
 
Hầu Quyền là “Hình tượng quyền” được biết đến từ thời nhà Hán (206 trước Công nguyên) với điệu “Mi hầu vũ.” Thời Tây Hán, một viên quan trong buổi đại yến, lúc ngà ngà say đã trình diễn vũ điệu Mi hầu.  Thời Hậu Hán (25 - 220) và Tam Quốc phân tranh (220 - 260), danh y Hoa Đà sáng chế “Ngũ cầm hí” gồm: Hổ (cọp), Lộc (nai), Hùng (gấu), Viên (vượn) và Điểu (chim) để luyện tập cơ thể.  Đời nhà Minh (1368 - 1644), Hầu Quyền đã nổi tiếng và phổ biến rộng trong giới võ lâm. Thích Kế Quang, danh tướng đương thời, đã viết “Kỷ hiệu tân thư,” nói rằng Tống Thái Tổ không những có Tam Thập Nhị Thế Trường Quyền mà còn có Lục Bộ Quyền, Hầu Quyền và Ngoa Quyền.
 
Theo “Giang Nam kinh lược,” sách được in vào năm Long Khánh thứ ba (1569), Trịnh Nhược Tăng đã chép rằng có 36 đường Hầu Quyền, điều này cho thấy Hầu Quyền đã phát triển mạnh vào thế kỷ 16. Cuối đời nhà Thanh (1644 - 1911), tại địa khu Cao Sơn, thuộc huyện Nhạc, tỉnh Thiểm Tây, lưu truyền một loại hình quyền thuật với tên gọi “Diêu tử Cao Sơn đấu luyện quyền”, môn luyện này giống với Hầu Quyền ngày nay.
 
Hầu Quyền được giới võ yêu chuộng vì diễn luyện không những thể hiện được các động tác của loài khỉ mà còn làm sống được cái thần thái, thần khí của loài linh vật này. Đặc điểm quyền pháp khỉ là một hệ thống quyền thuật mô phỏng các vận động trong sinh hoạt, các động tác chiến đấu cũng như chiến thuật của loài khỉ đối phó với đồng loại hay các loài thú khác, hầu quyền chú trọng các kỹ thuật nhảy, nhào lộn, chụp bắt làm sở trường.  Luyện tập Hầu Quyền mang lại sự nhẹ nhàng, thanh thoát cho cơ thể, nhặm lẹ trong động tác, chạy, nhảy, tránh, né với những tư thế mà con người bắt chước đưa vào ứng dụng để phòng thủ hoặc tấn công trong võ thuật, nhất là có được sức khoẻ bền bỉ, dẻo dai của khỉ.
 
Hầu Quyền đòi hỏi ở người sử dụng sự phối hợp nhịp nhàng của thủ pháp, cước pháp và thân pháp linh động nhẹ nhàng. Các động tác của Hầu Quyền đều phụ thuộc vào tính linh hoạt, cái trò khỉ nhảy nhót, nhạy cảm của đôi mắt, và nhất là tài đóng kịch khó lường của bộ mặt. 
 
Người luyện hầu quyền thường phải chu môi lại khi thi triển công phu, thở bằng mũi, do đó việc luyện tập thở được nhấn mạnh trong bộ môn công phu này. Ngoài ra, để uyển chuyển và linh hoạt bay nhảy, người học hầu quyền phải học cả khinh công và khí công.
 
Vì Hầu Quyền áp dụng nguyên lý dĩ nhu thắng cương nên thường kết hợp né tránh linh hoạt và tấn công hiểm hóc. Chiêu thức trong hầu quyền thường nhắm vào các yếu huyệt của đối phương như Mi Tâm, Thái Dương, Đan Điền, Tâm Hoa v.v., khiến hầu quyền trở thành một trong những bộ môn quyền thuật ác hiểm nhất.
 
Võ tăng Chùa Thiếu Lâm truyền nhau từ đời này qua đời khác công phu “Nhị thập nhị Hầu quyền yếu lĩnh - 22 yếu lĩnh Hầu quyền”: Cương (cứng), Nhu (mềm), Khinh (nhẹ), Linh (linh hoạt), Miên (dai dẳng), Xảo (khéo léo), Đoá (ẩn náu), Thiểm (nghiêng mình), Thần (thần khí), Thúc (đeo ghì), Trảo (gãi, chộp lấy), Toái (vung tay), Thỉa (hái), Thiết (cắt), Điêu (gò, kềm bằng cổ tay), Nã (bắt lấy), Khấu (giằng bằng hai tay), Đính (khiêu, chọc), Triền (quấn quanh), Đặng (ngơ ngác), Đoán (giậm gót chân hoặc đá ra sau bằng gót chân), Đàn (đá rút chân nhanh).
 
Ca quyết Hầu quyền:
 
Khiêu dược toàn chuyển khoái như phong;
Tam thiểm lục đóa mật lâm trung;
Gian hiểm hoàn cảnh năng thiên ứng;
Cơ cảnh mẫn tiệp thể khinh tông;
Thái trích tiên đào tập như thường;
Tứ xứ khuy vọng thiện đoá tàng;
Trảo đả câu quải hiển linh khí;
Hầu quyền thần kỹ kham tán dương.
 
Dịch nghĩa:
 
Nhảy múa quay cuồng như gió lốc;
Ba lần nghiêng tránh, sáu lần che;
Hoàn cảnh khó khăn nào cũng vượt;
Nhẹ nhàng thân thể khéo biến di;
Thành thạo hái đào như thường lệ;
Ẩn mình khéo léo bốn phương trông;
Chộp, đánh, móc, treo linh hoạt khí;
Hầu quyền tài nghệ đáng khen thay.
 
Cũng như những tượng hình quyền khác, luyện tập Hầu Quyền có những nguyên tắc mô phỏng động tác, diễn cảm, tập trung tinh thần không sơ hở trong đòn thế, bộ pháp nhẹ nhàng, thân pháp linh hoạt, nhãn pháp xuất thần, đó là “Hầu quyền Ngũ cú kinh” gồm Hình tượng, Ý chân, Pháp mật, Bộ khinh và Thân hoạt.
 
Căn bản của Hầu Quyền là “Thủ nhãn thân pháp bộ, tinh thần khí lực công” (tay linh hoạt, mắt lộ thần, thân thể tráng kiện, kỹ thuật chiến đấu hiệu quả, chân di chuyển khéo léo kết hợp với tinh thần khí lực và công phu.)  Người luyện Hầu Quyền luôn tâm niệm câu “Thủ đáo nhãn bất đáo, đẳng ư hạt triêu náo” (tay đã đạt đến sự linh hoạt mà mắt không đạt đến việc lộ thần thì sự thành công ở thủ pháp không còn đáng kể nữa.” Chính vì vậy đôi mắt trong Hầu Quyền vô cùng quan trọng. 
 
Một số chiến thuật giao đấu của Hầu quyền:
 
- Lực tranh chủ động, kích đả nhược điểm;
- Thức phá ý đồ, tiên phát chế nhân;
- Đa đầu tiến công, nhất điểm đột phá;
- Lợi dụng quy luật, điều động đối thủ;
- Nhược điểm dụ hoặc, kiềm chế đối thủ;
- Chuyển di mục tiêu, bãi thoát đối thủ.
 
Một số tên thế võ Hầu Quyền:
 
- Kinh hầu đào thoán (khỉ sợ bỏ chạy);
- Hầu nhi thỉa đào (khỉ con hái đào);
- Viên hầu ba thụ (khỉ vượn trèo cây);
- Linh hầu phi chuyển (khỉ khôn bay chuyển);
- Hầu tử thu đào (con khỉ hái đào);
- Toạ hầu nghinh tân (khỉ ngồi đón khách);
- Hầu vương trá tẩu (vua khỉ giả chạy);
- Lão hầu toạ thạch (khỉ già ngồi trên đá)…
 
Trung Hoa có một võ phái mang tên Đại Thánh bát quái môn, lấy các chiêu thức nền tảng là hầu quyền. Môn phái đặt tổng đàn tại Hồng Kông và phát triển tại nhiều nơi khác trên thế giới. Tại Việt Nam trước 1975 cũng có cao thủ hầu quyền học từ Đại Thánh bát quái môn tên là Trần Lâm. Trần Lâm qua đời để lại duy nhất một truyền nhân mang tên Trần Cẩu, hiện đã cao tuổi sống ở Nhơn Nghĩa Đường.
 
Tại thành phố Huế, Việt Nam có tồn tại một môn phái có tên là Hồng phái-Hầu quyền đạo Việt Nam, được thành lập từ những năm 1975. Chưởng môn võ này là võ sư Hoàng Thành, phó chưởng môn phái là võ sư Nguyễn Văn Anh, Trưởng tràng là võ sư Tôn Thất Bình. Môn phái được phát triển mạnh từ những thập niên 1980. Đặc trưng của môn phái là nhu nhuyễn âm kình, nguyên lý âm dương tương tế, dĩ nhu thắng cương. Môn phái Hầu Quyền này thuộc nội gia quyền, luyện nhu nhuyễn hao hao như Thái cực quyền. Tuy vậy, Hồng phái Hầu quyền đạo Việt Nam tương đối dị biệt so với các loại hầu quyền trên toàn thế giới như là Hầu quyền theo phái Thiếu Lâm của người Trung Hoa, hầu quyền của môn số môn phái của võ cổ truyền Việt Nam.
 
hau-quyen-3
 
 
Tóm lại, võ khỉ đại khái là nhảy nhót như con khỉ, làm trò khỉ, còn lại những chiêu thức được gọi là tuyệt chiêu, bí truyền, độc hiểm chỉ để lòe khán giả nhẹ dạ trên màn ảnh hay làm xiếc qua đường mua vui cho con nít chứ võ khỉ cũng như những môn võ súc vật khác của Tàu đều là hữu danh vô thực không thật sự chiến đấu hửu hiệu ngoài đời và nhất là trên võ đài.  Đa số sư phụ dạy Kung Fu chưa lên võ đài lần nào, chưa thật sự kinh nghiệm với full contacts lần nào thì làm sao mà dạy học trò đánh đấm được?  Chùa Thiếu Lâm Tự cũng như  đa số những võ đường trên thế giới chỉ 'bán võ vô dụng' chứ không thật sự 'dạy võ hữu dung.'   Đơn giản, như cáo mượn oai hùm, nếu sinh ra là con gà nuốt dây thun, con vịt đẹt, nhát gan như thỏ, yếu đuối như sên thì dù có học võ khỉ, võ cọp, võ voi, võ rồng đến khi gặp cọp thiệt, khỉ thiệt, voi thiệt và rồng thiệt thì tè ra trong quần quên mất cái bản lai diện mục nguyên hình của mình.  Cho nên, mình là con gì thì sinh ra làm con nấy, không thể luyện cho con cừu  thành con sói được nhưng chúng ta có thể luyện cho con cừu thành con cừu mạnh giỏi hơn những con cừu khác.  Không có môn võ nào trên đời có thể làm cho mình trở thành một tay thiện chiến được trừ khi mình sinh ra đã có cái khiếu trời cho đó.   
 
Cái tuyệt chiêu cao siêu nhất của khỉ là cắn tuy nhiên từ cổ chí kim chưa có ai lập ra môn phái gọi là ‘khẩu quyền.’  Quyền cắn cũng là quyền tự vệ, 'có quyền được cắn chửi tự do’ nếu bị nguy hiểm tới bản thân.  Có thể các tiền bối võ lâm không dám lập ra môn phái cắn này nếu không thì võ lâm sẽ bị đại loạn vì các môn phái chó, khỉ, người,...sẽ cắn nhau để dành ngôi minh chủ võ lâm.  Có thể chúng ta không có khiếu thiên bẩm, cắn hơn chó hay khỉ để trở thành thiên hạ đệ nhất cắn.
 
Đây là điều mà người Tây Phương lẫn con cháu của ta bây giờ ở hải ngoại không hiểu nổi ‘ý Tàu từ đâu sang’ thay vì phải tu cả ngàn kiếp, tụng thủng vài chục cái mõ, lật rách cả trăm cuốn kinh Phật, ngồi mòn cả chục cái bàn tọa mới may mắn đầu thai làm người, vậy mà Tàu họ lại ưa làm súc vật, khỉ, cò, chim,...cho nên chế ra đủ thứ quyền súc vật cho người bắt chước để luyện võ.  
 
‘Hầu quyền, khỉ cước’ của Tàu ngày nay nó thâm nhập vào kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa, tôn giáo của Tàu với nhiều độc tính (toxic) còn hơn ngày xưa.  Mà nước bị khỉ bắc phương xâm lược và bị ‘nị ngộ không’ dùng làm thí nghiệm ‘ngộ không ngộ’ đầu tiên không ai khác hơn là Việt Nam.  Muốn trừ căn tà bệnh này, phải xin nước Cam Lồ của Phật Quan Âm ở bên Tây Phương để rót xuống biển Đông may ra có thể trừ được con khỉ đột yêu quái này.  
 
Tuy biết vậy nhưng thói thường con người học an tâm không học lại đi học cái ‘tâm viên ý mã’ vì ý mã tâm viên cũng có thể là những gì mà con người tập tục lẫn thiên khiếu khỉ ngựa nên bắt chước dễ dàng hơn là bản tâm an tịnh từ nguyên thủy ?
 
Tâm giống như con khỉ (kapicitta) cũng là một thuật ngữ, Đức Phật đã dùng để diễn tả các hành vi bồn chồn, lo lắng, khuấy động, dễ dàng bị rối trí, chi phối và không ngừng thay đổi của ý thức, hoặc cái biết sai lạc của con người còn vô minh.  Cho nên luyện Hầu Quyền để đạt tới tâm ngộ cái không của Tôn Ngộ Không chứ không phải nhập tâm khỉ, nhảy nhót, nhăn nhó, leo trèo, cầm bắt y như khỉ.  Tâm của khỉ bổn tính không viên; ý mã tự nó không phi chỉ có con người bắt chước khỉ mới động tâm viên, ý phi như mã.  Muốn đạt tới lô hỏa thuần thanh trong hầu quyền pháp người tập phải luyện tới mức tâm khí thần hợp nhất, “tĩnh tại nhãn, khí tại khứu, thần tại tâm.”
Năm mới chúc qúy vị tâm viên ý diệu đầy vạn sự như ý.
 
Khi-Cho
Cha khỉ, nuôi con Chó con
 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/01/2021(Xem: 7392)
“Tha Nhân Là Địa Ngục” (L’enfre, cest les autres/Hell is other people) là câu nói thời danh của triết gia Pháp Jean Paul Sartre. Trong vở kịch nhan đề Huis Clos (Cửa Đóng) tiếng Anh dịch là “Không lối thoát” (No Exit) và tiếng Việt có nơi dịch là “Phía Sau Cửa Đóng” trong đó mô tả ba nhân vật lúc còn sống đã làm nhiều điều xấu. Khi chết bị nhốt vào địa ngục nhưng không phải là “địa ngục” với những cuộc tra tấn ghê rợn về thể xác mô tả trong các tôn giáo, mà bị nhốt vĩnh viễn trong một căn phòng kín. Tại đây ba nhân vật bất đồng, cãi vã nhau- không phải vì cơm áo mà vì quan điểm, sở thích, cách suy nghĩ, tư tưởng, lối sống. Cuối cùng một người không sao chịu đựng được đã thốt lên “Tha nhân là địa ngục”. Câu nói này trở nên nổi tiếng và tồn tại cho tới ngày nay.
07/01/2021(Xem: 6588)
Vào năm 2004, Thư Viện Anh Quốc đã mở cửa đón khách vào thưởng một “pháp bảo” của Phật giáo Trung Hoa mang tên “Kinh Kim Cang”, đó là một trong những cổ vật chính được trưng bày tại cuộc triển lãm “Con Đường Tơ Lụa. Bên cạnh cuốn “Kinh Kim Cang” còn có những cổ vật khác được giữ gìn hoàn hảo hơn 1000 năm qua như : một súc lụa, một tấm thảm trải trước lò sưởi tại ngôi nhà bỏ hoang đã 1.100 năm, một cuộn len 1300 năm tuổi … Phần lớn cổ vật trưng bày tại triển lãm được lấy từ bộ sưu tập của Sir Marc Aurel Stein.
07/01/2021(Xem: 6180)
Một khuôn mặt trong một tấm gương xuất hiện là một khuôn mặt, nhưng thế nào đi nữa hình ảnh đấy không là một khuôn mặt thật sự; đấy là từ những quan điểm trống rỗng về sự hiện hữu của một khuôn mặt. Giống như thế, một nhà huyển thuật có thể gợi lên những ảo ảnh dường như là những thứ thật sự. như một người ở trong một cái thùng bị xiên bởi một cây gươm, nhưng tất cả hoàn toàn không được tạo ra thật sự như những thứ được thấy. Tương tự thế, các hiện tượng như thân thể hiện diện được tạo ra từ chính phía của đối tượng nhưng trống rỗng trong việc được thiết lập cách ấy và luôn luôn như thế.
04/01/2021(Xem: 6081)
Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa ra nhận xét chính thức đầu tiên về việc nghỉ hưu, từ các trách nhiệm chính trị trong một buổi giảng dạy công khai tại Tsuglagkhang, Dharamshala, ngày 19 tháng 3 năm 2011. Năm 1963, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã ban hành một Hiến pháp Dân chủ (democratic constitution) hoàn toàn dựa trên Giới luật Phật giáo, và bản Hiến chương Nhân quyền của Liên Hợp Quốc để biên soạn, và chuẩn bị cho một mô hình đất nước Tây Tạng tự do ở tương lai:
04/01/2021(Xem: 7635)
Ngày Xuân ngày Tết, nếu ai tìm những giờ phút thanh thản yên tịnh bằng những bước nhẹ nhàng khoan thai vào vãng cảnh các chùa chiền tự viện, dâng hương bái Phật, nếu để ý sẽ thấy ở một vách tường nào đó treo bộ tranh mang tên gọi là “Thập mục ngưu đồ”. Không phải chốn già lam thiền viện nào cũng có trưng treo, vì đó không phải là điều bắt buộc thuộc thanh quy giới luật, nhiều khi chỉ được treo để trang trí, hay được trưng ra ở một nơi hằng ngày đi qua đi lại như để nhắc nhở, vậy nếu khi ta bắt gặp được tức là ta đang hữu duyên, hãy đừng bỏ dịp đứng trước bộ tranh mang những nét sơ sài ấy để ngắm từng bức mà chiêm nghiệm nghiền ngẫm.
04/01/2021(Xem: 4694)
Phật Vàng (Golden Buddha) có tên chính thức trong tiếng Thái là “Phra Phuttha Maha Suwana Patimakon”, nặng 5,5 tấn. Sau nhiều lần di chuyển, pho tượng hiện đang nằm trong đền thờ Wat Traimit, Bangkok, Thái Lan. Hiện tại, mặc dù các học giả vẫn chưa xác định chắc chắn nguồn gốc của pho tượng là bắt nguồn từ thời gian nào. Nhưng dựa theo cấu trúc của phần đầu bức tượng (hình quả trứng), thì có thể đoán rằng, nó ra đời vào dưới triều Sukhothai vào thế kỷ 13 – 14 – một trong những giai đoạn nổi tiếng nhất của nghệ thuật kiến trúc Phật giáo Thái Lan.
03/01/2021(Xem: 9691)
Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu Thiền sư TRÌ BÁT (Kỷ Sửu 1049) Thiền sư TỊNH THIỀN (Tân Sửu 1121) Hoà thượng THÍCH ĐẠT THANH (Quý Sửu 1853) Hoà thượng THÍCH GIÁC NHIÊN (Đinh Sửu 1877) Thiền sư THÍCH CHƠN PHỔ - THUBTEN OSALL LAMA (Kỷ Sửu 1889) Hoà thượng THÍCH BỬU LAI (Tân Sửu 1901) Hoà thượng THÍCH THIÊN ÂN (Ất Sửu 1925) Hoà thượng THÍCH MINH THÀNH (Đinh Sửu 1937)
03/01/2021(Xem: 5822)
“Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Với một nước nông nghiệp như nước ta, hình ảnh con trâu nặng nề lầm lũi, kềnh càng cục mịch luôn gắn bó với những cánh đồng thửa ruộng, thân thiết với bao người nông dân chân lấm tay bùn, và gần gũi với lũ trẻ mục đồng thường nghêu ngao bài hát quen thuộc “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ!”… Không chỉ như thế, trâu cũng đã từng gắn bó với cuộc đời một vài danh nhân lịch sử như Đinh Bộ Lĩnh, Đào Duy Từ… Đối với nền văn học nước nhà, con trâu còn có cái công rất lớn trong việc làm phong phú ngôn ngữ, nhất là trong ca dao- đồng dao-tục ngữ.
01/01/2021(Xem: 5394)
Từ lâu các kinh sách Phật Giáo Việt Nam bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ âm Hán Việt của Trung Quốc. Từ những được chư tôn thiền đức Tăng Ni chuyển qua quốc ngữ tiếng Việt, để Phật tử dễ đọc, nhất là những vị chưa có kiến thức về âm Hán Việt. thế kỷ 20 (năm 2000 trở đi) các kinh sách dần dần đã Người biên soạn xuất gia tại Chùa Liên Hoa, Bình Thạnh, với Tôn Sư Hải Triều Âm, các kinh sách trong Chùa tụng bằng tiếng Việt do Tôn sư chuyển ngữ. Từ năm 2005 trở đi, người biên soạn định cư và hoằng pháp tại Hoa Kỳ. Nhiều Chùa ở Hoa Kỳ vẫn còn tụng kinh bằng âm Hán Việt và nhiều nơi phải tụng bằng tiếng Anh cho người bản địa và thế hệ con cháu thứ hai sanh tại Mỹ có thể tụng hiểu được. Phật tử Việt tụng kinh bằng tiếng Việt mà vẫn chưa hiểu được ý nghĩa ẩn sâu trong lời kinh và càng bối rối hơn khi tụng kinh bằng bằng âm Hán Việt. Đó là lý do thúc đẩy, chùa Hương Sen biên soạn một cuốn “NGHI LỄ HÀNG NGÀY” bằng tiếng Việt và tổng hợp gần 50 bài kinh:
01/01/2021(Xem: 6106)
Trong kho tàng văn học của Việt Nam và Phật Giáo, Trần Thái Tông (1225 - 1258) đã có những đóng góp vô cùng to lớn và giá trị, những sáng tác của Ngài, bất hủ qua dòng thời gian, tỏa sáng lồng lộng trên bầu trời Dân Tộc và Đạo Pháp. Trần Thái Tông được kể như một vị Thiền sư cư sĩ vĩ đại, nhà thiền học uyên thâm, thành tựu sự nghiệp giác ngộ. Một vị vua anh minh dũng lược, chiến thắng quân Nguyên Mông giữ gìn bờ cõi, đem lại cường thịnh ấm no cho dân cho nước, đã để lại tấm lòng cao quý thương yêu đời đạo, lưu lại di sản trí tuệ siêu thoát cho hậu thế noi theo.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]