Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Năm Mới & Chuyện Cũ, Mới

18/12/201509:09(Xem: 7037)
Năm Mới & Chuyện Cũ, Mới

Minh Đức Triều Tâm Ảnh
(Sīlaguṇa-Mahāthera)

NHẶT LÁ RỪNG XƯA
Tủ sách Huyền Không Sơn Thượng

(Phật lịch 2558 – 2015)

Năm Mới & Chuyện Cũ, Mới

 

Hằng năm, cứ vào lệ thường đêm giao thừa, thầy trò chúng ta thường tụng kinh phúc chúc an lành cho nhân loại, cho đất nước Việt Nam, cho chư thiên, thọ thần, cho tất cả ân nhân, thí chủ, cho chư Phật tử gần xa và cho cả chúng ta một năm mới tốt lành hơn, an vui hơn.

Sau đó là buổi nói chuyện về năm cũ, năm mới. Những chuyện năm qua cái chúng ta làm được, cái chúng ta làm chưa được. Sự tu học cũng vậy. Trước tiên là thầy, thầy có những khiếm khuyết, những sai lầm nào đó về bản thân cũng như trong cung cách xử sự đối với học chúng. Thầy đã có lời sám hối khi năm đó thầy có vài ba lần nổi giận la mắng nặng lời một vài người đã sai lỗi quá thô thiển về thân, về khẩu. Thầy cũng không được ỷ lại vào tuổi già mà ngủ nhiều hoặc lười nhác không sít sao theo chương trình làm việc mỗi ngày. Thầy cũng làm biếng đi trai tăng, cầu an, cầu siêu nơi này nơi khác; và luôn cố ý đẩy “bổn phận” ấy lên chúng kinh sư. Thời gian gần đây, còn cái bậy nữa, là khi dạy học thầy không được nhiệt tình cho lắm, nói rõ là thiếu lửa! Có lẽ phần lỗi là do thầy chưa tu luyện “giáo hoá thần thông”  tới nơi tới chốn hoặc đã bỏ quên “nghệ thuật sư phạm”  gần 50 năm không ngó ngàng tới. Thế là bao nhiêu “cái chưa được” của thầy, thầy mang ra nói gần hết, có phải thế không?

Và bây giờ là đại chúng. Đầu tiên, thầy cảm ơn chư sư và chúng điệu đã chăm lo công việc tương đối chu đáo trong ngoài. Hai thời khoá công phu và tập thiền không bỏ bê. Vườn cảnh rộng cả vài mẫu Tây mà quanh năm tương đối xanh, sạch, đẹp. Đặc biệt thầy ghi nhận thành quả của “lực lượng lao động chính quy” trong những công việc nặng nề về vận chuyển đá, xây những bờ tường đá; đào hố, chuyển cây và trồng cây, phát rừng và dọn dẹp sửa sang hồ, khe, suối, các con đường... sau mùa mưa xói lỡ. Công đức tiếp theo thuộc về các sư, các chú ở trong ban bếp núc, chợ búa, củi đuốc bao giờ cũng vất vả lo ăn cho bốn, năm mươi người, lúc có nhiều thợ thầy thì còn đông hơn thế. Lại còn cho ăn chu đáo mười mấy con chó và hai mươi mấy con mèo nữa chứ! Không đơn giản đâu, nhất là khi chúng bị thương do cắn nhau, bị dòi làm tổ, bị các loài “vắt”, bọ đeo kín lưng, bị nhiều thứ bệnh phải mang xuống bác sĩ thú y. Kế nữa, thầy hoan hỷ ghi nhận công đức của “ai đó”  luôn quan tâm các cụm nhà vệ sinh công cộng cho khỏi hổ thẹn với khách vãng lai! Cuối cùng, thầy cảm ơn “Ban Tri Sự” bốn vị tỳ-khưu điều hành, quán xuyến công việc, tuy còn thiếu sót hoặc khập khễnh ở đâu đó nhưng mong rằng, nhờ đạo tình huynh đệ, lục hoà, tứ nhiếp cùng với kinh nghiệm tự thân của mỗi người, rồi chúng sẽ tự động điều chỉnh dần dần. Như vậy, rõ ràng ai cũng tất bật công việc trong ngoài còn riêng thầy được đại chúng cho nghỉ ngơi, không làm gì cả; thầy cũng nguyện làm sao “sự nghỉ ngơi, không làm gì cả”  ấy cho xứng đáng “đồng tiền bát gạo!”

Thầy cũng thẳng thắn nói ra, ai đó với những tập khí phải cần được thấy rõ chứ đừng xác định “cái tôi” quá nhiều trong công việc, trong giao tiếp, trong cư xử đệ huynh. Ai đó, bao nhiêu bữa không tụng kinh, không hành thiền. Ai đó không chu toàn bổn phận mà Ban Tri Sự đã giao phó, cắt đặt. Ai đó còn biếng lười trong công việc. Ai đó không chịu khó học hỏi để nắm bắt cho kỳ được giáo pháp căn bản, pháp hành căn bản. Ai đó có tật hay dạy người, giảng cho khách điều này điều kia nhưng óc mình còn trống rỗng bên trong. Ai đó thích sai bảo kiểu gia trưởng trong lúc việc ấy tự tay mình làm được. Ai đó còn ham chơi, còn ham games, còn ham vớ vẩn, phù phiếm, hời hợt các trang facebook, còn ham “buôn dưa lê”, còn ham xuất hiện nơi đám đông, ham bắt chuyện với khách... vân vân và vân vân. Hằng chục cái vân vân như thế thầy trò chúng ta cũng đã không ngần ngại đem ra bàn hết, nói hết. Chúng ta thường chào đón năm mới như vậy đó.

Năm nay, thầy nói về cái khác, đặc biệt là nói về cái mới. Năm mới thì cái gì cũng mới. Cây cảnh mới, hoa lá mới; mới cạo đầu, mới ngày tháng, mới tiết xuân, mới phố phường, mới trời đất, mới người cảnh; và mới cả không gian rừng thiền có thơ mới, giấy mới, chất liệu mới, thư pháp mới của các sư, các chú nữa... Cái gì cũng mới, còn “con người” chúng ta thì sao nhỉ?

Coi chừng nghe, năm mới mà chúng ta không “mới mẻ” lại còn quá “cũ kỹ” đấy. Coi nào: Nghiệp cũ, tâm cũ và mọi sinh hoạt lăng xăng bên ngoài cũng có từ tập khí cũ ngàn đời. Khái quát, chúng ta hãy điểm mặt, chỉ tên những cái cũ gốc, những cái cũ có sức mạnh chi phối cả đời sống của chúng ta, nghiệp mệnh của chúng ta. Là người học Phật, tu Phật, chúng ta cần phải thấu rõ cái cũ, mới rốt ráo này.

Đầu tiên là nghiệp cũ. Tất cả chúng ta đến trái đất này, làm người do nghiệp dẫn dắt, do nghiệp quyết định. Chúng ta có nhiều loại nghiệp. Nghiệp do có sự chủ ý, quyết tâm mạnh mẽ, gọi là cực trọng nghiệp. Nghiệp do thói quen lâu ngày thực hiện một công việc, ví như việc làm hằng ngày, gọi là tập quán nghiệp hay thường nghiệp. Nghiệp do chứa nhóm, tích luỹ mỗi ngày mỗi ít, gọi là tích luỹ nghiệp. Nghiệp do hành động trước khi lâm tử gọi là cận tử nghiệp. Giây phút cuối cùng của đời người, trong tất cả các nghiệp ấy, nghiệp nào có năng lực mạnh mẽ nó sẽ quyết định tâm thức tái sanh. Ví như trong một chuồng bò. Thường thì con bò nào ở gần chuồng, khi mở cửa, nó sẽ bước ra đầu tiên – đây là trường hợp của cận tử nghiệp. Có trường hợp “con bò cận tử nghiệp”, dù ở gần cửa nhưng yếu quá, bị một con bò to lớn, mạnh mẽ xông tới, đạp cửa, tông rào nhảy ra – đây là trường hợp những cực trọng nghiệp không kể thiện hay ác. Có trường hợp khác nữa, nghiệp nào cũng yếu, chỉ có những nghiệp làm hằng ngày mới có đủ sức mạnh tuôn rào – thì lúc ấy “con bò thường nghiệp” an nhiên xông ra cửa!

Khái quát như vậy để chúng ta biết rằng, khi có mặt ở đời này, chính nghiệp tạo nên thân thể, ngũ quan đẹp xấu, cá tính, trí ngu, cùng hoàn cảnh giàu nghèo sang hèn liên hệ - được gọi là chánh báo và y báo. Chánh báo và y báo là căn cước, là ADN của một người từ thuở mới sinh ra. Và toàn bộ cái mà chúng ta thừa hưởng trên đời này chính là do nghiệp cũ, nghiệp từ kiếp trước tái tạo.

Viết đến chỗ này thầy muốn có một ví dụ cho dễ hiểu. Lần đó, thầy đi Ấn Độ, xe du lịch dừng nghỉ tại một ngôi làng được xem như là nghèo nhất ở đây. Nhà cửa của họ chỉ tợ như là chuồng bò, chuồng trâu mà thôi. Có nhà không có giường, ghế, thấy họ nằm khoèo trên nền đất. Mái, tường lắp ghép tạm bợ cây, gỗ, tranh, lá rách nát. Bên này mấy con bò, bên kia mấy con dê. Phân, rác thải trong nhà, ngoài nhà. Thế mà có mấy người đàn ông ngồi chồm hổm tỉnh bơ tán gẩu với nhau bên cửa cạnh đống phân rác ấy! Nhìn ra xa, thấy một cánh đồng lúa vàng rộm, ngạc nhiên không có ai thâu hoạch. Nhìn mỏi mắt chợt thấy một người đàn bà, bỏ gùi trên vai xuống rồi lấy “liềm” gặt một khoảnh ruộng nhỏ xíu chừng rộng hơn thước Tây. Xong, chừng ấy đủ rồi, bỏ vào gùi mang về. Đủ ăn rồi! Tôi thắc mắc chuyện trước mắt thì có một vị sư ở đây lâu năm giải thích:

“ Thủ phạm là do định mệnh thuyết của Bà-la-môn giáo đấy! Bây giờ là đạo Hindu. Họ tin thuyết định mệnh, tin thuyết 4 giai cấp. Giàu nghèo sang hèn gì cũng đã được quy định từ khi vừa mở mắt. Kiếp này cu-li thì kiếp sau cũng cu-li. Kiếp này là thủ-đà-la, chiên-đà-la thì kiếp sau cũng thủ-đà-la, chiên-đà-la thôi. Không thể thay đổi số kiếp mà đấng Phạm Thể tối cao đã giáng nghiệp! Do vậy, ngay chính lúa đã chín mà họ cũng không thèm cất kho, chỉ gặt vừa đủ ăn, sống-an-nhiên-tự-nhiên-như-triết-gia-an-phận-thủ-thường vậy đó! Làm chi nhiều cho mệt; mà cho dù nỗ lực trong nghề nghiệp cũng chẳng giàu có được; chỉ nên bằng lòng biết đủ trong thân phận đói nghèo của mình!”

Chuyện kể trên nhằm minh hoạ cho những ai cam chịu sống theo nghiệp cũ, trôi xuôi theo nghiệp cũ, không chịu tạo tác nghiệp mới để có chánh báo, y báo mới tốt đẹp hơn.

Từ khi nghiệp quyết định tâm thức tái sanh thì nó mang theo tự thân thiện ác tốt xấu cùng tỉ tỉ chúng tử nhiều đời kiếp. Nói dễ hiểu là nếu nghiệp tốt lành thì chúng ta ít tham sân si, có nhiều đức tính, phẩm chất con người. Còn nếu ngược lại, nghiệp xấu ác thì chúng ta nhiều tham sân si và nhiều tất xấu, thói hư, nhiều bản năng thú vật, động vật.

Rộng hơn tí nữa. Con người ngày nay, và ngay chính chúng ta, cũng còn rất nhiều người sống theo nghiệp cũ không chịu tích cực chuyển nghiệp hoặc tái tạo nghiệp mới. Họ sống theo nghiệp cũ nên tâm sân ác thì cứ tàn sát mọi người. Nếu tâm tham vô độ thì cứ vơ vét, quơ quào của cải, tài sản. Nếu tâm không có tính người thì hành động dã man như loài thú dữ. Nếu tâm không có tàm quý thì không có hàng động xấu xa, trái với đạo đức, luân lý nào nà nó không dám làm. Nếu tâm trơ lì cảm xúc, dù thấy cảnh hung ác, bạo tàn nhưng họ vẫn dửng dưng, vô cảm.

Nói gần vấn đề hơn. Khi chúng ta có tham, sân rồi hành động theo tham, sân ấy là chúng ta sống theo nghiệp cũ, tâm cũ. Khi chúng ta làm việc gì đó tuân theo thói quen, cá tính của mình rồi còn biện hộ: “Cái tính tôi nó vậy” là đã sống theo cái nghiệp cũ, cái tâm cũ. Gói gọn rốt ráo trong một câu: Khi nào hành động qua thân, khẩu ý mà “không có chánh niệm, tỉnh giác soi rọi” là chúng ta đã sống theo nghiệp cũ và tâm cũ rồi! Chỗ này thầy giải mã rõ ràng hơn:

“Có người tánh sân nhiều do lưu cữu trong dòng bhavaṅga. Hễ có chuyện gì trái ý nghịch lòng là nóng nảy, bực tức khởi lên (thuận theo cái tánh cũ) rồi hành động qua thân khẩu ý do lực của tánh sân chi phối.

Đấy là trường hợp sống theo nghiệp cũ, tâm cũ. Trái lại, trong trường hợp trên, có người chánh niệm, tỉnh giác ghi nhận trạng thái nóng nảy bực tức (cảm thọ - quán thọ) ấy, nên sân không chi phối người ấy được. Và cho dẫu sân có khởi lên, nhờ chánh niệm, tỉnh giác “tâm sân biết tâm sân (tâm – quán tâm) thì tâm sân cũng tự diêt. Đây là trường hợp không sống theo tâm cũ, nghiệp cũ mà là đang bắt đầu chuyển hoá để sống theo tâm mới, nghiệp mới”.

Đối với hành giả tu tập minh sát - thiền tuệ - lâu năm thì chánh niệm, tỉnh giác quán cái “hiện tiền đang là”  tuy rất khó khăn nhưng nếu thực tập kiên trì thì có thể thành công được sáu, bảy phần mười. Còn người chưa từng quen với thiền tuệ như đã nói thì quả thật là “bất khả”. Tuy nhiên, ta cũng có thể có cách khác. Sống giữa mọi giao tiếp khi biết mình hành động như vậy, như vậy... là do thói quen, do tập khí thì mình hãy dừng lại, dừng lại một lát rồi hãy hành động ngược lại với ý muốn của mình. Dừng lại hoặc hành động ngược lại cũng là một cách để thoát ly tâm cũ, nghiệp cũ không cho tập khí kéo lôi nữa. Vậy là mới. Vậy là mình bắt đầu chuyển hoá để sống, để hành động theo tâm mới, nghiệp mới rồi.

Đến đây chắc có người sẽ hỏi, nghiệp cũ, tâm cũ đâu phải là hoàn toàn xấu ác? Có người khi mở mắt chào đời có chánh báo, y báo tốt, lại ngầm chứa nhiều chủng tử thiện thì tuy họ hành động theo tâm cũ, nghiệp cũ nhưng chúng lại tốt, lành thì sao? Đâu phải cái cũ nào cũng là xấu ác? Đúng vậy! Nếu tâm cũ, nghiệp cũ tốt, lành - thì ta cũng có thể làm cho cái tốt, lành ấy mới hơn, đẹp đẽ hơn, bằng cách dựa theo câu kinh Lời Vàng số 183:

“Vui thay! Điều ác không làm

Vui thay! Việc thiện lại chăm làm hoài

Tự tâm thanh lọc trong ngoài

Ấy là giáo huấn trọn đời Thế Tôn!”

(Sabbapāpassa akaraṇaṃ

kusalassa upasampadā,

Sacittapariyodapanaṃ

etaṃ buddhāna sāsanaṃ).

Phải chăm làm! Việc thiện thì phải chăm làm, làm mãi, làm hoài cho đến chỗ “toàn thiện”. Đức Đại Bồ-Tát của chúng ta cũng đã không thực hành trọn vẹn 30 ba-la-mật, trước khi chứng đạt đạo quả Bồ-Đề đó sao?

Cũng còn có một hành động tối hậu tinh khôi, mới mẻ mà thoát ly khỏi nghiệp ấy là duy tác; đây là hành động của chư vị thánh nhân A-la-hán, khi quý ngài đã mở được 3 cánh cửa Không, Vô tướng, Vô tác (tam giải thoát môn) thì chúng ta không bàn ở đây.

Nói tóm lại, khi còn trong sinh tử luân hồi thì “nghiệp” sao,“tâm”  vậy. “Nghiệp”  sao, “tâm”  sao thì “cảnh” vậy. Thay mới “nghiệp tâm”  thì “cảnh” sẽ mới. Đây chính là cái mới của người tu Phật cần phải nghiêm túc thấu hiểu để chuyển hoá cuộc đời mình. Năm mới mà chúng ta không trang bị trí tuệ để có cái mới này thì mọi cách tu tập, mọi tông hệ thiền, tịnh, luật, mật gì gì đó cũng chỉ còn là danh từ, nhãn hiệu sáo rỗng mà thôi!

Thầy đóng chốt năm cũ đây!

Chào nhau năm mới thì chúng ta phải mới. Đừng sống quá cũ kỹ theo nghiệp cũ, tâm cũ - những cái cũ xấu ác, bản năng - để chư thiên thọ thần hộ pháp họ cười cho! Ngoài ra, năm nay, chúng ta nên học thêm hai cụm từ “cảm ơn”“xin lỗi”. Phải biết nói lời “cảm ơn” khi ai đó giúp mình dù là một việc nhỏ xíu! Đấy là tác phong có văn hoá, là mỹ học đấy các con ạ! Phải biết nói lời “xin lỗi” khi mình đụng chạm đến ai hoặc vô tình làm phiền người khác dù là chuyện nhỏ nhít. Làm được điều ấy là dũng cảm lắm, là biểu hiện nhân cách của một trí thức lớn đấy các con ạ!

Chúc các con năm mới, mới như những nụ, những mầm, những chồi đang chuẩn bị bung lộc, bung hoa... đón nắng ấm xuân dương cùng với những sát-na tâm mới mẻ hiện tiền!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/01/2021(Xem: 6347)
Chúng ta đã quen với thể loại thơ Thiền sáng tác nhiều thế kỷ trước từ các ngài Trần Nhân Tông, Tuệ Trung Thượng Sỹ, Hương Hải… Hay gần đây như với thơ của các ngài Nhất Hạnh, Mãn Giác, Tuệ Sỹ, Minh Đức Triều Tâm Ảnh, Ni Trưởng Trí Hải… Đó là nói cho chặt chẽ. Nếu nói cho nới rộng hơn, thơ Thiền cũng là Bùi Giáng, Phạm Công Thiện, Trịnh Công Sơn… Mỗi thời đại đều có những nét riêng, mỗi tác giả cũng là một thế giới độc đáo. Mặt khác, thơ Thiền mỗi quốc độ cũng khác. Trong khi phần lớn thơ Thiền Nhật Bản cô đọng với thể haiku, thơ Thiền Trung Hoa có nhiều bài hùng mạnh như tiếng sư tử hống, như với Chứng Đạo Ca của ngài Huyền Giác, hay Tín Tâm Minh của ngài Tăng Xán. Không ngộ được tự tâm, sẽ không có văn phong đầy sức mạnh như thế. Nơi đây, chúng ta nêu câu hỏi: Làn gió Thiền Tông đã ảnh hưởng vào thơ Hoa Kỳ ra sao? Và sẽ giới thiệu về bốn nhà thơ.
28/01/2021(Xem: 6360)
Mọi người đều biết câu chuyện Xá Lợi Phất thăm Cấp Cô Độc khi bị bịnh nặng và giảng cho Cấp Cô Độc bài pháp về quán chiếu, khi thiền trong Tứ Niệm Xứ mà chữa bịnh cho Cấp Cô Độc. Quán về Phật pháp tăng, 18 giới gồm 6 căn 6 trần 6 thức, rồi quán về 7 đại: đất nước gió lửa không kiến thức, quán về thời gian không gian và cuối cùng là quán về 5 uẩn. Cấp Cô Độc nghe xong hết bịnh. Cũng câu chuyện như vậy, nhưng nó khác đi chi tiết là lúc về già sắp mất: Xá Lợi Phất khai thị Cấp Cô Độc chú trọng về 5 uẩn, hãy trả 5 uẩn về lại cho 5 uẩn khi duyên hội tụ đã hết. Hãy trả Pháp về lại cho Pháp. Và Cấp Cô Độc chết thành A la hán vì đã ngộ được đạo về cõi trời.
28/01/2021(Xem: 5504)
Chùa Thiếu Lâm Tự mở ra khóa ngồi thiền cho 18 vị tu thành A la Hán. Khoá tu này trong 30 ngày ngồi trong tịnh thất suốt ngày đêm. Vị chủ trì là Hòa thượng trụ trì của Thiếu Lâm Tự. Thời bấy giờ là mùa xuân, cảnh đẹp hoa nở và thời tiết ấm áp. Mọi thiền sinh miệt mài tập trung thiền định đạt được 30 ngày miên mật thì bỗng xảy ra tiếng nói vọng vào từ ngoài cửa. Giọng nói đầy êm dịu thanh thoát và trong trẻo của một cô gái. Mỗi tiếng phát âm đi sâu vào tim người nghe một cảm giác êm dịu nhẹ nhàng như vuốt ve trái tim của con người.
27/01/2021(Xem: 3844)
Kính thưa quý đọc giả, tôi đột nhiên thấy được quyển sách với nhan đề “Khéo Dùng Cái Tâm” do Hội Phật Học Bát Nhã biên soạn, liền mượn về ngay để nghiên cứu. Tôi sở dĩ nghiên cứu tác phẩm này là do chủ đề “Khéo Dùng Cái Tâm” lôi cuốn tư tưởng của tôi. Chủ đề rất hấp dẫn khiến tôi tò mò không biết nội dung trong đó nói gì đành phải bỏ hết thời gian để đọc cho xong. Toàn bộ quyển sách chỉ nói về Ma Nhập, nhưng quý đọc giả cần phải đọc qua để biết Ma Nhập quan hệ như thế nào đối với con người chúng ta, đồng thời cần phải tỏ tường để tránh né và đối trị.
27/01/2021(Xem: 3924)
Đức Phật ngồi thiền 49 ngày dưới cội Bồ Đề mới ngộ được đạo tìm được đường giải thoát cho chúng sinh khỏi sinh tử luân hồi. Từ đó đến nay trên 2000 năm biết bao nhiêu cách tọa thiền, đi thiền, nằm thiền, trà thiền, tất cả quá nhiều phương pháp đường lối. Từ Nguyên thủy đến Đại thừa, có rất nhiều đường lối thiền.
27/01/2021(Xem: 4704)
Khi Đức Phật cố gắng ra được bìa rừng với thân đói rét gầy xương do tu khổ hạnh lâu ngày. Ngài kiệt sức và được cô bé chăn bò Cát Tường cho uống bát sữa, Người mới bảo cùng 5 anh em Kiều Trần Như rằng tu khổ hạnh diệt thân này là sai lầm không thể đạt được giác ngộ. 5 anh em Kiều Trần Như có người chế nhạo Đức Phật là con vua hoàng tử sống sung sướng nên không chịu nổi tu khổ hạnh. Riêng người anh cả bảo không phải vậy. Đức Phật chia tay với 5 anh em Kiều Trần Như và hẹn khi nào đạt được giác ngộ sẽ giảng ưu tiên cho 5 anh em.
25/01/2021(Xem: 4710)
Phật Giáo có mặt ở Mỹ vào giữa thế kỷ thứ 19, qua giới trí thức văn nghệ sĩ và các di dân từ Trung Hoa và Nhật Bản. Nhưng phải đợi đến đầu thế kỷ 20, khi học giả và thiền sư người Nhật Daisetsu Teitaro Suzuki viết sách bằng tiếng Anh truyền bá Thiền Tông tại Mỹ thì mới làm cho Thiền Phật Giáo thành món ăn tinh thần đặc biệt và hấp dẫn không những với người Mỹ mà còn với cả thế giới Tây Phương.
25/01/2021(Xem: 5091)
Ngày nay, vấn đề kỳ thị chủng tộc, giai cấp, giới tính được con người quan tâm và tranh đấu quyết liệt hơn bao giờ hết. Có lẽ một phần là do sự văn minh tiến bộ của xã hội đã giúp mở rộng nhận thức và tâm thức con người đối với những vấn đề xã hội như thế. Trong đó không thể không nói đến nhiều đóng góp của các phong trào dân quyền, nhân quyền, bình quyền, nữ quyền, v.v… trên thế giới từ vài thế kỷ qua đã xây dựng những nền tảng về lý thuyết và thực hành cho công cuộc đấu tranh đòi quyền sống và bình đẳng cho từng cá nhân trong cộng đồng xã hội.
22/01/2021(Xem: 5228)
Ngày 11 tháng 11 năm 2020 là sinh nhật thứ 199 năm của nhà văn và triết gia người Nga Fyodor Dostoevsky [sinh ngày 11 tháng 11 năm 1821]. Các tác phẩm văn học của ông đã khám phá tâm lý con người trong bầu không khí chính trị, xã hội và tâm linh bất an của xã hội Nga vào thế kỷ thứ 19, và liên hệ tới nhiều chủ đề triết học và tôn giáo, theo www.en.wikipedia.org
22/01/2021(Xem: 6513)
Emily Elizabeth Dickison là nhà thơ lớn của Mỹ trong thế kỷ thứ 19. Bà sống phần lớn cuộc đời trong cô độc. Bà chưa bao giờ lập gia đình. Bà có sở thích mặc đồ trắng và rất hiếm khi tiếp khách, thậm chí bà còn không muốn ra khỏi giường ngủ. Bà đã để lại một di sản văn học đồ sộ với khoảng 1,800 bài thơ. Bà có ảnh hưởng rất lớn đối với nền văn học Mỹ và được xem là nhà thơ tiền hiện đại tiên phong, theo www.en.wikipedia.org.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]