Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hiểu Chánh Niệm Cho Đúng

18/12/201508:54(Xem: 7783)
Hiểu Chánh Niệm Cho Đúng

Minh Đức Triều Tâm Ảnh
(Sīlaguṇa-Mahāthera)

NHẶT LÁ RỪNG XƯA
Tủ sách Huyền Không Sơn Thượng

(Phật lịch 2558 – 2015)

Hiểu Chánh Niệm Cho Đúng
(Sammāsati)

Từ trước đến nay, trên sách báo, tạp chí, trong nhiều băng giảng, cho đến chư vị thiền sư, nhà nghiên cứu đó đây, ai cũng nói đến chánh niệm, và lại nói nhiều cách khác nhau.

Giả dụ như, có vị nói: Chánh niệm là tỉnh thức trong giây phút hiện tại! Nếu lập ngôn như vậy, thì chánh niệm đồng nghĩa với tỉnh thức còn gì? Tại sao họ không để ý rằng, nếu niệm, chú tâm (sati) liên tục, gắn khít nhất điểm liên tục thì nó sẽ đưa đến định? Và định thì đâu thuộc phạm trù của tỉnh thức, tỉnh giác là chức năng của tuệ!? Đây là sai lầm thứ nhất.

Trường hợp khác, có người nói: Chánh niệm là biết rõ hơi thở vào ra, dài ngắn như thế nào. Nếu nói như vậy thì chánh niệm đồng nghĩa với tuệ tri, vì tuệ tri là thấy rõ, biết rõ!? Đây là sai lầm thứ hai.

Có người lại nói: Chánh niệm là sự  tỉnh giác, không quên niệm, biết rõ các pháp một cách trọn vẹn. Nói như thế thì hóa ra chánh niệm đồng nghĩa với biết rõ - tức là tỉnh giác hay tuệ tri!? Đây là sai lầm thứ ba.

Rồi còn có người nói nghe khá chính xác: Chánh niệm là quán thân thọ tâm pháp. Nói vậy thì chánh niệm đồng nghĩa với quán, chức năng của tuệ, của minh sát còn gì? Đây là sai lầm thứ tư.

Có người đi xa hơn: Chánh niệm giúp ta kết nối với mọi người xung quanh. Kết nối như thế nào nhỉ? Kết nối thì phải có một cái tâm khởi đi, nó mới duyên sanh được? Ai biết thì làm ơn chỉ bày giùm cho tôi với, chỗ này tôi chịu. Đây là sai lầm thứ năm.

Có người nói nghe rất “tư tưởng”, rất hay: Chánh niệm giúp nhận diện niềm đau, nổi khổ và chuyển hóa chúng. Nếu nói như vậy thì chánh niệm đồng nghĩa với nhận diện. Nhận diện là chức năng của chánh tư duy và chánh kiến; lại nữa, chánh niệm chỉ mới để yên thân thọ tâm pháp, chưa làm gì cả, và nó không có nhiệm vụ “chuyển hóa” khổ đau. Chuyển hóa là biến cái này ra cái khác, đây là nỗ lực của hữu vi tâm, nó chỉ có khả năng đối trị tạm thời, tình thế. Còn vấn đề diệt khổ nó lại hoàn toàn khác. Chỉ khi thấy rõ như thực, chức năng của giác trí (bodhiñāṇa) hay tuệ giác (sambodhi) biết rõ như thực nguyên nhân khổ thì khổ mới tự diệt, như ánh sáng đến thì bóng tối tự lui (chứ không thể nói ánh sáng diệt bóng tối). Đây là sai lầm thứ sáu.

Muốn hiểu rõ tất cả những điều ấy, những sai lầm ấy, xin các bạn chịu khó một chút nữa. Chịu khó nghe thêm ngữ nghĩa của chánh niệm.

Chánh niệm được dịch từ  sammā sati. Sati là niệm. Niệm do người Tàu dịch, và không biết tại sao họ lại dịch đúng với từ sati trong pháp hiện quán. Niệm, chữ Hán viết, ở trên là bộ kim, ở dưới là chữ tâm. Kim là hiện tại; vậy, niệm là (tâm) ghi nhớ những gì đang xảy ra trong hiện tại. Còn trong nghĩa Pāḷi thì sati có mấy nghĩa tương đối chính xác: Sự nhớ, ghi nhớ, ghi nhận - còn ngoài ra, nhiều nghĩa khác thì đi quá xa.

Thế còn sammā? Ai cũng dịch sammā là chánh, chơn, đúng... Do vậy ai cũng hiểu sammāsati là niệm cái chơn, cái chánh, cái đúng; hoặc ghi nhớ, ghi nhận, chú tâm cái chơn, cái chánh, cái đúng. Nhưng bây giờ chúng ta thử hỏi, cái gì là chơn, là chánh, là đúng trên cuộc đời này? Thế cái xấu, cái ác, cái không phải chánh chơn, người học Phật không ghi nhớ, không ghi nhận hay sao? Thật ra, sammā còn nhiều nghĩa khác nữa mà tiếng Hán, tiếng Việt không nói ra hết được. Sammā không những có nghĩa chánh, chơn, mà còn có nghĩa đúng đắn, một cách đúng đắn, thích hợp, một cách hoàn toàn, toàn diện... Hoàn toàn, toàn diện, trọn vẹn... có nghĩa là nó như thế nào thì chụp bắt trọn vẹn nó như thế, không chia chẻ, phân tích, không đưa xen cảm tính và tư duy chủ quan của mình vào. Vậy đến đây, tạm thời ta có một định nghĩa về chánh niệm tương đối đầy đủ nhất: Chánh niệm là ghi nhận, là chú tâm đúng, trọn vẹn, toàn diện, chân xác đối tượng, bất kể đối tượng ấy đẹp hay xấu, méo hay tròn, thiện hay ác.

Tuy nhiên dù định nghĩa chính xác cách nào thì nó cũng chỉ là những khái niệm trừu tượng. Làm sao bây giờ? Làm sao ta có thể có ví dụ cụ thể để biết, để thấy chánh niệm nhỉ? Tôi nhớ có lần ở đâu đó, tôi có đưa ví dụ người canh cửa. Người canh cửa thì ai đi vô, đi ra thì anh phải ghi nhớ, ghi nhận. Đúng rồi, chánh niệm là người đứng canh cửa thân tâm. Cái gì, pháp nào đi vô, đi ra thân tâm đều phải đi qua anh chánh niệm, vì anh là người đứng canh cửa. Anh ta chỉ đứng nơi cửa và canh chừng thôi. Anh chỉ việc đứng đấy và ghi nhận, chú tâm trọn vẹn ở đấy. Nhiệm vụ của anh chỉ có vậy - đừng có làm cái phận việc “thấy rõ, biết rõ hoặc phân biệt người này và người kia”.

Tại sao vậy? Vì thấy rõ biết rõ là chức năng của người khác, là bổn phận của anh chánh kiến! Còn phân biệt đàn ông, đàn bà, kẻ xấu người tốt lại là chức năng, bổn phận của anh chánh tư duy! Thấy chưa, các bạn thấy chưa? Ai có phần việc nấy, không lẫn lộn với nhau được.

Ta có thể có một ví dụ khác.

Có người cầm cái kiếng để soi mặt mình. Muốn thấy mặt mình cho rõ ràng thì cái kiếng phải được cầm cho vững vàng, không nghiêng chao thì hình ảnh hiện ra mới chân thực. Vững vàng, không nghiêng chao là phần việc của chánh niệm vì niệm đưa đến định, còn thấy rõ, biết rõ thì mặt kiếng tự phản ảnh chân xác, là của chánh kiến.

Đến đây ta có thể thấy rõ sự thật, là khi có chánh niệm – chánh niệm trọn vẹn - thì tức khắc, chánh kiến khởi sanh. Đây là chỗ mà tôi gọi là “chánh niệm rốt ráo” vì nó có luôn cả chánh kiến.

Đến đây, chúng ta đã hiểu rằng:

Chánh niệm rốt ráo là thả cái thân tâm xuống như nó là...

Chánh niệm là trở lại với thân tâm, là an lập (đặt yên xuống) thực tại thân-thọ-tâm-pháp.

Tại đây tôi chợt nhớ đến yếu chỉ thiền của Bách Trượng Hoài Hải mà sau này, Vô Ngôn Thông kế thừa:“Tâm địa nhược không, tuệ nhật tự chiếu!”. Thân tâm cứ để yên, thả xuống, để yên như ly nước đặt xuống bàn, đừng khởi tư tác gì cả, thì lúc ấy được gọi là “không”, vì lúc ấy không có tham sân si, không có vô tham vô sân vô si tác động (không có 6 nhân, theo Abhidhamma). Và lúc ấy thì “tuệ nhật tự chiếu”. Không có gì rõ ràng hơn thế nữa.

Khi các đối tượng thân thọ tâm pháp được chánh niệm an lập rồi, chánh kiến xuất hiện, nhìn ngắm như thực, thấy biết như thực, hoặc như tánh tri kiến (yathābhūta ñāṇadassana), mà thiền tông gọi là “kiến tánh” thì tốt xấu, thiện ác, thanh trược đều là thực tánh pháp (paramattha-dhamma), tên gọi khác của Không Tánh (thực tướng là vô tướng tất cả tướng) thì những cái gọi là tham sân, thương ghét của chúng ta mới ảo hóa, mộng, đốm “như thực” làm sao!

Nói tóm lại, thưa các bạn, trong Bát Chánh Đạo, khi ta có Ngữ, Nghiệp, Mạng tương đối “đàng hoàng” rồi, ta chỉ cần sử dụng tinh tấn, chánh niệm và tỉnh giác để lên đường thôi. Vì chánh niệm đại biểu cho nhóm tâm (niệm, định), và tỉnh giác đại biểu cho nhóm trí (kiến, tư duy).

Đôi chỗ đức Phật không cần nói tinh tấn hay tinh cần vì trong niệm và tỉnh giác đã có sẵn “liễu liễu thường tri” nói như Tổ Huệ Khả thì đã có tinh cần rồi. Vậy niệm và tỉnh giác đủ đại biểu cho Đạo Đế, sự thật về con đường diệt khổ. Niệm và Tỉnh giác đại biểu cho Bát Chánh Đạo; nó là hành trang, là tư lương để chúng ta trở lại quê nhà.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/01/2019(Xem: 14861)
“Một nữ cư sĩ đến gặp vị thầy trụ trì và nói: "Bạch Thầy, Con không đi chùa nữa!" Vị Thầy hỏi: – Vậy à, Đạo hữu có thể cho thầy biết lý do không?
14/01/2019(Xem: 7692)
Tiếng Việt thời LM de Rhodes - (phần 13) vài nhận xét về cách dùng tên bộ phận cơ thể ở phía dưới như lòng, bụng, dạ, ruột[1] cho đến vật âm mình! Nguyễn Cung Thông[2] Phần này bàn về một số cách dùng trong tiếng Việt như lòng, bụng, dạ, ruột thời các LM Alexandre de Rhodes và Jeronimo Maiorica sang An Nam truyền đạo. Đây là những ‘cầu nối’ để có thể giải thích một số cách dùng hiện đại. Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là ba tác phẩm của LM de Rhodes soạn: cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đôn Kinh (viết tắt là BBC) và từ điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra từ điển này trên mạng, như trang này chẳng hạn http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false .
14/01/2019(Xem: 6694)
Bài này là phần 4 trong loạt bài viết về hiện tượng đồng hóa âm thanh trong ngôn ngữ với tâm điểm là tiếng Việt. Phần 1 bàn về khuynh hướng đồng hoá âm thanh (phụ âm) qua các cách dùng ròng rọc < rọc rọc, phưng phức < phức phức, nơm nớp < nớp nớp, phấp phất/phất phới/phân phất < phất phất và khám bệnh < khán bệnh. Phần 2 bàn về khuynh hướng đồng hoá âm thanh (thanh điệu) qua các cách dùng Huyền Trang < Huyền Tảng/Tráng, Tịnh Độ < Tịnh Thổ. Phần 3 chú trọng vào cách dùng tẩm liệm so với tấn/ tẫn/tẩn liệm qua khuynh hướng đồng hoá âm thanh (phụ âm) như khán bệnh > khám bệnh. Bài này (phần 4) bàn về các dạng phong thanh (phong thinh), phong phanh và phong văn.
11/01/2019(Xem: 6131)
Trước khi bàn về ma, chúng ta thử định nghĩa xem “ma” là gì. Thông thường, ma là người đã chết hay người chết. Đang sống thì là người. Nhưng vừa chết một cái đã thành ma, thây ma. Chính vì thế đám ma là nghi thức hoặc tục lệ để khóc than, để tang, thăm viếng, tiễn đưa hoặc chôn cất, hỏa thiêu người chết.
11/01/2019(Xem: 6557)
Sống chung với nghịch cảnh, đương đầu với chướng duyên, gẫm ra đó cũng chính là một pháp môn tu trong tám vạn bốn ngàn pháp môn của Đức Phật truyền dạy. Người đã tu học theo Pháp Phật thì chẳng còn lạ gì chuyện “sống chung” và “đương đầu” này! Nhờ chướng duyên mà ta mới thấm thía được lý nhân quả. Nhờ nghịch cảnh mà ta mới nhận thấy rõ vô thường.
09/01/2019(Xem: 5458)
HƯƠNG NHẠC ĐẠI NGÀN Ngàn mùi hương, chỉ có hương giới hạnh mới bay ngược làn gió; vạn âm ba, gió rít đại ngàn hay sóng âm biển khơi mới tồn tại miên trường. Âm nhạc đời thường chỉ là cơn sóng xô giạt tiếp nối theo từng thời đại, có lúc chìm lặng lãng quên, có lúc mơ hồ thổn thức.
09/01/2019(Xem: 5450)
Thơ Báo Ơn Khóa Tu Báo Ơn năm nay Chúng con tu tập những ngày mùa đông Tại Chùa Tam Bảo ấm nồng Pháp thoại chia sẻ với lòng lạc an
09/01/2019(Xem: 10200)
Ngày 26/10/2018, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã rời Làng Mai Thái Lan về Đà Nẵng. Hai ngày sau, chiều 28/10, Thầy đã về chùa tổ Từ Hiếu trong sự chào đón của các học trò cũng như tăng ni, Phật tử ở Huế. Chuyện này thì ai cũng biết và các báo đài đã đưa tin rất nhiều.
08/01/2019(Xem: 8030)
Trong thời gian gần đây trên các phương tiện truyền thông đại chúng và mạng xã hội đã bàn tán xôn xao đến cuộc Cách mạng Công nghiệp lần Thứ tư (CC4) và đưa ra nhiều ý kiến là Việt Nam cần phải hành động để đón đầu cuộc CC41. Trước những thách thức mới ấy, trong lãnh vực giáo dục và đào tạo, Việt Nam cần có những kiến thức và kỹ năng gì để có thể đáp ứng nhu cầu lao động trong thời kỳ CC4?
08/01/2019(Xem: 7766)
TRÁI TIM RỘNG MỞ THỰC TẬP BI MẪN TRONG ĐỜI SỐNG HÀNG NGÀY Nguyên bản: An Open Heart: Practicing Compassion in Everyday Life Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma Thông dịch: Thupten Jinpa Biên tập và nhuận sắc: Nicolas Vreeland Chuyển ngữ: Tuệ Uyển Tác giả, dịch giả và người hiệu đính.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]