Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Khủng bố và áo đen

02/12/201506:26(Xem: 7299)
Khủng bố và áo đen

KHỦNG BỐ VÀ ÁO ĐEN 
Thích Pháp Cẩn (*)

 

Hôm thứ 6 ngày 13 tháng 11 năm 2015 vừa qua, ở Paris có xảy ra vụ khủng bố lớn ai cũng kinh hoàng. Liền chỉ ba ngày sau, thứ 2 ngày 16, ngay đầu tuần, Rollins College có tổ chức buổi hội thảo về Hoà Bình. Họ kể về biến cố tang thương và mời chia sẻ quan điểm mỗi người. Ngay từ khi bước vào phòng mình đã thấy vui vì trong phòng còn dán một poster lớn về sự kiện Thiền Đi do giáo sư Maroon tổ chức mời mình hướng dẫn ngày 11 tháng 11. Sau buổi hội thảo, nhân viên trong phòng này bảo sự kiện đã xảy ra rồi nhưng họ có tham dự và thấy trân quý buổi thiền ấy nên vẫn còn giữ lại ít lâu, chưa vội tháo xuống dù đang có mấy sự kiện cũng quan trọng.

Đến lượt mình nói, mình giới thiệu tôi là một tu sĩ Phật Giáo. Mình bắt đầu bằng việc sáng nay gặp một cô gái Hồi Giáo không mặc màu nâu đen, khăn choàng cũng không màu nâu đen. Mình hỏi thì cô bảo đổi màu để khỏi bị người ta hiểu lầm là khủng bố. Lý do nữa là để tỏ rõ thái độ không ngầm đồng tình với những người khủng bố. Rồi mình nói tiếp là tôi đã đổi màu áo từ lâu rồi. 


Khung bo va ao den
Tác giả khi ở chùa mặc áo nâu



Trước kia tôi mặc màu nâu và đen. Nhưng khi qua Mỹ sống tôi không muốn bị nghi là khủng bố. Ở sân bay, nếu tôi mặc đồ nâu đen và không tóc, họ sẽ xét tôi kĩ hơn. Tôi không muốn bị phiền phức. Hơn nữa, dân Mỹ đây thấy áo đen trọc đầu là họ có thể sợ hãi hay hận thù vì khủng bố. Ít nhất họ cũng kém thiện cảm. Bản thân mình hiện tại khi đi chùa hay hướng dẫn Phật Tử tu học, mình vẫn mặc đồ nâu đen; khi đi học hay hướng dẫn người không phải Phật Giáo, mình đổi sang màu sáng. Phật Giáo đi đến đâu có thể học hỏi để thích ứng với văn hoá nơi đó. Ở Ấn Độ quý thầy quấn y vàng (thời Phật); đến Trung Hoa tăng ni có kiểu y phục phù hợp với văn hoá nước này. Tương lai, ở Âu Mỹ, có lẽ người xuất gia Phật Giáo nên có y phục kiểu hợp với văn hoá xứ này, khác truyền thống Á Châu? Dù sao, màu y phục có lẽ không nên dùng màu nâu đen để tránh bị hiểu nhầm là khủng bố vì người xuất gia Phật Giáo đã không tóc.

Rồi mình nói về sự tuyên truyền tiêu cực về thế giới Hồi Giáo. Mình kể về thí nghiệm của Pavlov về phản xạ có điều kiện. Bình thường mỗi khi thổi còi thì chó không tiết nước miếng. Mỗi khi cho chó ăn, chó tiết nước miếng. Thí nghiệm xảy ra là mỗi khi đưa thức ăn cho chó thì thổi còi và nhìn thấy chó tiết nước miếng. Cứ lặp lại nhiều lần. Sau đó, Pavlov chỉ thổi còi mà không đưa thức ăn. Chó vẫn tiết nước miếng. 

khung bo va ao den 2
Tác giả không còn mặc áo nâu và 
cô bạn Hồi Giáo không còn mặc đồ đen


Rồi liên hệ với tình hình khủng bố. Mỗi khi có một vụ khủng bố thì kèm theo “Hồi Giáo.” Cứ “khủng bố” và “Hồi Giáo” lặp lại nhiều lần. Riết rồi nhiều người có ác cảm với Hồi Giáo. Cứ khủng bố xuất hiện với áo đen trọc đầu nên riết dân Mỹ này có ác cảm với trọc đầu áo nâu đen. Mình nói tiếp là mình không biết chính trị. Mình chỉ muốn nói rằng người Hồi Giáo, trong số những người mình gặp, là những người mình cảm nhận rất hiền hoà thân thiện. Họ mong muốn an ổn và chẳng hiếu chiến gì đâu. Ví dụ là trong số những người Hồi mình gặp, mình đã từng nói chuyện với một cô gái Hồi Giáo khi cùng lớp năm ngoái. Sau đó cô này vào thực tập với Câu Lạc Bộ Thiền mình mở nên có nói chuyện nhiều hơn. Cô cũng buồn, bảo tôi đâu muốn khủng bố ai đâu. Nhóm người nào đó gây ra những vụ khủng bố rồi bảo Hồi Giáo chứ tôi đâu biết. Sự tuyên truyền (propaganda) đã quá lớn nên tôi cũng chả biết nói sao nữa.

Rồi mình nói về việc thực tập để có hoà bình. Hoà bình trước hết nên bắt đầu nơi chính mình. Mình có nhắc rằng thầy mình, ngài thiền sư Nhất Hạnh, không bao giờ uống sữa; thiền sư nhai sữa. Hoà Thượng dùng lát bánh mì chấm sữa và nhai cho nhuyễn rồi nuốt. Nếu uống ực một ly sữa, dạ dày mình sẽ rất mệt. Nó sẽ giận lên. Nhai sữa hay nhai những thức ăn khó tiêu vài chục lần mới nuốt là cách để giảm thiểu cơn giận hay để nuôi lớn hoà bình trong ta. Đây là Đoàn Thực, một trong bốn loại thức ăn theo nhà Phật. Mình tiếp tục trình bày về Xúc Thực, những loại thức ăn mình đưa vào bằng các giác quan  như mắt, tai,...Hãy nhớ đừng nghe nhạc bạo động; đừng xem phim ảnh bạo động. Hãy cảnh giác Hollywood! Đừng chơi games điện tử bạo động. Đây không phải chuyện chơi cho vui; nó sẽ làm mình gia tăng bạo động.

Loại thức ăn thứ ba là Tư Niệm Thực. Khi mình nghĩ về điều gì thì mình đang ăn thức ăn. Hãy cố gắng suy nghĩ tích cực. Hãy suy nghĩ trong tình thần phi bạo động. Thí dụ, theo Phật Giáo, dù kẻ sát nhân kia có giết vài trăm người; khi kẻ đó bị xử tử, ta không nên tán thán cái hành động xử tử. Ta không nên nghĩ rằng tử hình gã kia là đáng! Nhìn sâu để thấy gã khủng bố kia có thể là nạn nhân của một hệ thống giáo dục tuyên truyền cuồng tín. Hắn có thể làm lại cuộc đời nếu may mắn được lọt vào một hệ thống giáo dục khác. Phật giáo chúng tôi mong bãi bỏ án tử hình. Loại thức ăn cuối là Thức Thực. Loại này chia làm hai là Chánh Báo (thân tâm mình) và Y Báo. Cái Y Báo rất quan trọng. Nó là một loại thức ăn. Nếu ta tiếp xúc với bạn bè hung bạo dù chỉ trong lời nói hay tư duy, ta cũng bị ảnh hưởng. Chẳng những bè bạn mà còn gia đình, học đường, công sở, xã hội...là thức ăn cho thân tâm ta cả. Hãy cố gắng dựng xây một cộng đồng có lối sống văn minh, hiền hoà, có hiểu biết, có thương yêu, có lắng nghe, có nhìn lại như cộng đồng hôm nay mời chúng ta tới đây ngồi nói chuyện trao đổi. 

(*) Thầy Thích Pháp Cẩn là Tăng sĩ Phật Giáo hiện đang theo học tại trường đại học Rollins Colleges Winter Park, Florida, phía Bắc thành phố Orlando.


Source: thuvienhoasen.org


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/01/2021(Xem: 7370)
“Tha Nhân Là Địa Ngục” (L’enfre, cest les autres/Hell is other people) là câu nói thời danh của triết gia Pháp Jean Paul Sartre. Trong vở kịch nhan đề Huis Clos (Cửa Đóng) tiếng Anh dịch là “Không lối thoát” (No Exit) và tiếng Việt có nơi dịch là “Phía Sau Cửa Đóng” trong đó mô tả ba nhân vật lúc còn sống đã làm nhiều điều xấu. Khi chết bị nhốt vào địa ngục nhưng không phải là “địa ngục” với những cuộc tra tấn ghê rợn về thể xác mô tả trong các tôn giáo, mà bị nhốt vĩnh viễn trong một căn phòng kín. Tại đây ba nhân vật bất đồng, cãi vã nhau- không phải vì cơm áo mà vì quan điểm, sở thích, cách suy nghĩ, tư tưởng, lối sống. Cuối cùng một người không sao chịu đựng được đã thốt lên “Tha nhân là địa ngục”. Câu nói này trở nên nổi tiếng và tồn tại cho tới ngày nay.
07/01/2021(Xem: 6566)
Vào năm 2004, Thư Viện Anh Quốc đã mở cửa đón khách vào thưởng một “pháp bảo” của Phật giáo Trung Hoa mang tên “Kinh Kim Cang”, đó là một trong những cổ vật chính được trưng bày tại cuộc triển lãm “Con Đường Tơ Lụa. Bên cạnh cuốn “Kinh Kim Cang” còn có những cổ vật khác được giữ gìn hoàn hảo hơn 1000 năm qua như : một súc lụa, một tấm thảm trải trước lò sưởi tại ngôi nhà bỏ hoang đã 1.100 năm, một cuộn len 1300 năm tuổi … Phần lớn cổ vật trưng bày tại triển lãm được lấy từ bộ sưu tập của Sir Marc Aurel Stein.
07/01/2021(Xem: 6162)
Một khuôn mặt trong một tấm gương xuất hiện là một khuôn mặt, nhưng thế nào đi nữa hình ảnh đấy không là một khuôn mặt thật sự; đấy là từ những quan điểm trống rỗng về sự hiện hữu của một khuôn mặt. Giống như thế, một nhà huyển thuật có thể gợi lên những ảo ảnh dường như là những thứ thật sự. như một người ở trong một cái thùng bị xiên bởi một cây gươm, nhưng tất cả hoàn toàn không được tạo ra thật sự như những thứ được thấy. Tương tự thế, các hiện tượng như thân thể hiện diện được tạo ra từ chính phía của đối tượng nhưng trống rỗng trong việc được thiết lập cách ấy và luôn luôn như thế.
04/01/2021(Xem: 6051)
Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa ra nhận xét chính thức đầu tiên về việc nghỉ hưu, từ các trách nhiệm chính trị trong một buổi giảng dạy công khai tại Tsuglagkhang, Dharamshala, ngày 19 tháng 3 năm 2011. Năm 1963, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã ban hành một Hiến pháp Dân chủ (democratic constitution) hoàn toàn dựa trên Giới luật Phật giáo, và bản Hiến chương Nhân quyền của Liên Hợp Quốc để biên soạn, và chuẩn bị cho một mô hình đất nước Tây Tạng tự do ở tương lai:
04/01/2021(Xem: 7605)
Ngày Xuân ngày Tết, nếu ai tìm những giờ phút thanh thản yên tịnh bằng những bước nhẹ nhàng khoan thai vào vãng cảnh các chùa chiền tự viện, dâng hương bái Phật, nếu để ý sẽ thấy ở một vách tường nào đó treo bộ tranh mang tên gọi là “Thập mục ngưu đồ”. Không phải chốn già lam thiền viện nào cũng có trưng treo, vì đó không phải là điều bắt buộc thuộc thanh quy giới luật, nhiều khi chỉ được treo để trang trí, hay được trưng ra ở một nơi hằng ngày đi qua đi lại như để nhắc nhở, vậy nếu khi ta bắt gặp được tức là ta đang hữu duyên, hãy đừng bỏ dịp đứng trước bộ tranh mang những nét sơ sài ấy để ngắm từng bức mà chiêm nghiệm nghiền ngẫm.
04/01/2021(Xem: 4667)
Phật Vàng (Golden Buddha) có tên chính thức trong tiếng Thái là “Phra Phuttha Maha Suwana Patimakon”, nặng 5,5 tấn. Sau nhiều lần di chuyển, pho tượng hiện đang nằm trong đền thờ Wat Traimit, Bangkok, Thái Lan. Hiện tại, mặc dù các học giả vẫn chưa xác định chắc chắn nguồn gốc của pho tượng là bắt nguồn từ thời gian nào. Nhưng dựa theo cấu trúc của phần đầu bức tượng (hình quả trứng), thì có thể đoán rằng, nó ra đời vào dưới triều Sukhothai vào thế kỷ 13 – 14 – một trong những giai đoạn nổi tiếng nhất của nghệ thuật kiến trúc Phật giáo Thái Lan.
03/01/2021(Xem: 9663)
Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu Thiền sư TRÌ BÁT (Kỷ Sửu 1049) Thiền sư TỊNH THIỀN (Tân Sửu 1121) Hoà thượng THÍCH ĐẠT THANH (Quý Sửu 1853) Hoà thượng THÍCH GIÁC NHIÊN (Đinh Sửu 1877) Thiền sư THÍCH CHƠN PHỔ - THUBTEN OSALL LAMA (Kỷ Sửu 1889) Hoà thượng THÍCH BỬU LAI (Tân Sửu 1901) Hoà thượng THÍCH THIÊN ÂN (Ất Sửu 1925) Hoà thượng THÍCH MINH THÀNH (Đinh Sửu 1937)
03/01/2021(Xem: 5783)
“Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Với một nước nông nghiệp như nước ta, hình ảnh con trâu nặng nề lầm lũi, kềnh càng cục mịch luôn gắn bó với những cánh đồng thửa ruộng, thân thiết với bao người nông dân chân lấm tay bùn, và gần gũi với lũ trẻ mục đồng thường nghêu ngao bài hát quen thuộc “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ!”… Không chỉ như thế, trâu cũng đã từng gắn bó với cuộc đời một vài danh nhân lịch sử như Đinh Bộ Lĩnh, Đào Duy Từ… Đối với nền văn học nước nhà, con trâu còn có cái công rất lớn trong việc làm phong phú ngôn ngữ, nhất là trong ca dao- đồng dao-tục ngữ.
01/01/2021(Xem: 5372)
Từ lâu các kinh sách Phật Giáo Việt Nam bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ âm Hán Việt của Trung Quốc. Từ những được chư tôn thiền đức Tăng Ni chuyển qua quốc ngữ tiếng Việt, để Phật tử dễ đọc, nhất là những vị chưa có kiến thức về âm Hán Việt. thế kỷ 20 (năm 2000 trở đi) các kinh sách dần dần đã Người biên soạn xuất gia tại Chùa Liên Hoa, Bình Thạnh, với Tôn Sư Hải Triều Âm, các kinh sách trong Chùa tụng bằng tiếng Việt do Tôn sư chuyển ngữ. Từ năm 2005 trở đi, người biên soạn định cư và hoằng pháp tại Hoa Kỳ. Nhiều Chùa ở Hoa Kỳ vẫn còn tụng kinh bằng âm Hán Việt và nhiều nơi phải tụng bằng tiếng Anh cho người bản địa và thế hệ con cháu thứ hai sanh tại Mỹ có thể tụng hiểu được. Phật tử Việt tụng kinh bằng tiếng Việt mà vẫn chưa hiểu được ý nghĩa ẩn sâu trong lời kinh và càng bối rối hơn khi tụng kinh bằng bằng âm Hán Việt. Đó là lý do thúc đẩy, chùa Hương Sen biên soạn một cuốn “NGHI LỄ HÀNG NGÀY” bằng tiếng Việt và tổng hợp gần 50 bài kinh:
01/01/2021(Xem: 6087)
Trong kho tàng văn học của Việt Nam và Phật Giáo, Trần Thái Tông (1225 - 1258) đã có những đóng góp vô cùng to lớn và giá trị, những sáng tác của Ngài, bất hủ qua dòng thời gian, tỏa sáng lồng lộng trên bầu trời Dân Tộc và Đạo Pháp. Trần Thái Tông được kể như một vị Thiền sư cư sĩ vĩ đại, nhà thiền học uyên thâm, thành tựu sự nghiệp giác ngộ. Một vị vua anh minh dũng lược, chiến thắng quân Nguyên Mông giữ gìn bờ cõi, đem lại cường thịnh ấm no cho dân cho nước, đã để lại tấm lòng cao quý thương yêu đời đạo, lưu lại di sản trí tuệ siêu thoát cho hậu thế noi theo.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]