Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lo sợ và phiền não là mầm móng của phi pháp

25/04/201518:14(Xem: 8600)
Lo sợ và phiền não là mầm móng của phi pháp
lo so

Trong đời sống thường nhật, chúng ta gặp quá nhiều những tình huống, ảnh hưởng nhiều mặt, nào là sức khỏe, nhà cửa, con cái, vợ chồng, bạn bè, giao hảo v.v… khiến mình càng thêm âu lo, hoảng sợ.  Điển hình là sức khỏe, khi mình còn khỏe thì ‘lo lắng’ tập ăn kiêng cữ, thể dục thể thao để giữ cho mình không bị tật bệnh.  
 
Nghe ai nói món nào ăn nhiều sanh bệnh thì mình lo tránh xa; thậm chí không dám thử, dù là chỉ một ít.  Còn nghe đồn món nào bổ dưỡng, trị lành tật bệnh thì ngày nào cũng ăn, ăn nhiều đến độ phải ‘lo’ mua để tích trữ cho đủ. Còn khi bị bệnh thì thôi khỏi nói! Ai chỉ món nào mình thử món nấy; tây y, đông y đủ cả!  Tất cả đều do tâm âu lo, sợ sệt mà sanh ra. Đây chỉ là ví dụ về sức khỏe mà thôi, còn nhiều thứ khác nữa!

Tất nhiên, lo lắng là phần tâm lý mà hầu như ai cũng có.  Nhưng khi sự lo lắng này đi quá giới hạn cho phép, chúng biến thành những bệnh tật, cần phải được chữa trị.  Như thế nào gọi là âu lo quá giới hạn cho phép? Theo các bác sĩ tâm lý, khi âu lo làm trở ngại, cản trở những sinh hoạt thường nhật của chúng ta.  Đó là lúc mình cần xem xét kỹ nếu chúng thật sự khiến mình ‘không còn là mình.’ Chẳng hạn, có người lo âu, sợ hãi đến độ mất ăn, mất ngủ; hoặc không dám bước ra đường vì sợ thời tiết làm ‘dễ sanh bệnh,’ v.v…  

Có người cho rằng tu thiền không khéo có ngày sẽ bị ‘tẩu hỏa nhập ma,’ hay nói nôm na là bị điên.  Vì có lòng tin như vậy nên một số người hoàn toàn không dám học tu thiền.  Nỗi lo sợ bị điên khiến họ e dè và tìm mọi cách tránh né ngồi thiền, hay bất cứ hình thức tu nào có dính dáng tới thiền.  Đây chỉ là điểm khởi đầu của sự âu lo khiến mình xa lánh những phương pháp, con đường đạo đưa mình đến an lạc, giải thoát. 

Âu lo và sợ hãi còn khiến mình càng ngày, càng lìa xa con đường tu đạo chân chánh. Chẳng hạn, có người lo rằng niệm Phật suốt đời nhưng không biết có được vãng sanh về nước Cực lạc hay không vì sợ rằng mình niệm không đúng cách nên sẽ không được tiếp dẫn.  
 
Hoặc có người muốn bố thí, cúng dường nhưng lo rằng nếu mình bố thí không phải nơi, cúng dường không đúng người, thì e rằng mình sẽ chẳng có phước đức gì cả!  còn tệ hơn, có người muốn học hạnh từ bi, thương yêu nhưng lo rằng nếu mình từ bi mà không có ‘trí tuệ’ thì sẽ bị người ta lợi dụng.

Trong kinh Trung Bộ số 4: ‘Bà la môn Janussoni đến thăm Phật trong rừng Kỳ đà và ca tụng Phật đã giúp ích nhiều cho các tỳ kheo, vì quả thực rất khó kham nhẫn đời sống ở rừng núi. Theo ông, rừng núi làm rối loạn tâm trí tỳ kheo nào chưa chứng các thiền. Phật xác nhận lời nói của bà la môn, và dạy sở dĩ tỳ kheo khó kham nhẫn đời sống viễn ly ở núi rừng, nổi lên sợ hãi, là vì còn có 16 ô nhiễm: không thanh tịnh thân, khẩu, ý, mạng; nhiều tham dục, sân hận ác ý, hôn trầm, trạo cử; hoài nghi, khen mình chê người, run rẩy sợ hãi, ham lợi; lười biếng, thất niệm, tán loạn, ngu đần.’ (Ni Sư Trí Hải – Toát Yếu kinh Trung Bộ).

Rõ ràng, Phật dạy nếu chúng ta tu tập với tâm thanh tịnh thì âu lo, sợ hãi sẽ không làm loạn tâm trí mình.  Vì quá âu lo, sợ hãi nên mình đã để cho những nhiễm ô xâm phạm tâm thức; và khi tâm thức bị nhiễm ô thì tất cả mọi hành động, dù đúng pháp, cũng trở nên phi pháp. Khi lo sợ, 6 phiền não căn bản, bao gồm sân hận, tham dục, si mê, kiêu ngạo, nghi kỵ, ác kiến, thường dễ phát sanh nên những việc làm tưởng chừng như đúng pháp cũng trở nên phi pháp.  
 
Phi pháp ở đây có nghĩa là những hành động lành, thiện lại mang đến những kết quả phiền não, sân hận, hoặc do tâm không thanh tịnh nên tạo tác, tu tập theo những ác pháp.  Chẳng hạn, khi có người phát tâm bố thí, cúng dường nhưng khi nghe những lời đồn đại không đẹp về người, hay nơi mà mình hay bố thí, cúng dường.  Tâm mình bỗng dưng cảm thấy lo lắng và bất an vì không biết công lao bố thí, cúng dường của mình có được lợi lạc gì không!? 
 
Không những thế mà mình còn cảm thấy bực tức vì giống như mình bị lường gạt.  Hoặc tệ hơn, do lo sợ nên sanh sân hận và có ác kiến.  Do vậy, mình bắt đầu tạo tác nghiệp xấu bằng cách tuyên truyền, bêu xấu nơi, hay người mình mới vừa cúng dường, bố thí. 

Ganh tức, đố kỵ cũng núp bóng dưới hình thức của lo sợ.  Mình ganh tức vì cảm thấy bị thua thiệt hay ‘lo sợ’ mình yếu kém, thiếu thốn hơn người khác.  Đức Đạt-lai Lạt-ma có lúc giảng rằng: ‘Đôi khi mình không đạt được những thứ mình muốn là một điều may mắn tuyệt vời!’ Thường khi, mình ganh tức với người khác không phải vì những thứ họ có, mà mình cho rằng nếu mình có những thứ đó thì mình sẽ sướng hơn!  
 
Lấy ví dụ, mình ghen tức với người hàng xóm giàu sang vì họ có nhà cao cửa rộng, xe cộ đắt tiền, hay tiếng tăm, danh vọng, v.v.. Bạn cho rằng nhờ vậy mà người hàng xóm của mình rất hãnh diện về những thành công vượt bực của họ.  Ngược lại, mình không ganh tỵ về việc họ phải làm 60 giờ một tuần, không có thời gian để dành cho gia đình, con cái, và tiền nhà, tiền xe cao ngất trời, và những căng thẳng âu lo của họ nếu có chuyện gì xảy ra cho bản thân họ.  Có phải bạn ghen tức, lo rầu vì người ta có những thứ bạn muốn, và vì vậy, cho rằng họ sướng hơn bạn, hay vì bạn nghĩ rằng mình sẽ vui sướng hơn nếu mình cũng có giống vậy?

Tai sao lại ganh tức nếu mình tin rằng mình cũng có khả năng thành tựu những điều mình muốn? Cái gì khiến bạn phân vân? Có phải tâm lo sợ của bạn? Sợ mình không đủ khôn ngoan, khả năng, kiến thức để thành công?  Ganh tức sanh ra vì bạn muốn một cái gì đó mà bạn e sợ là mình không thể làm được.  Khi mình không hài lòng với bản thân, mình thường có những bực tức kèm theo. Và đây chính là mầm mống của sự ganh tỵ, đố kỵ.  Tại sao lại phải so sánh mình với người vì không ai trên thế gian này có thể làm mình tốt hơn, và hạnh phúc hơn là chính mình. 

Một khi mình để tâm mình bị nung nấu trong những cảm xúc độc hại do 6 căn bản phiền não gây ra, mình sẽ lún sâu vào sự tự thương hại, than thân trách phận mà chẳng đưa mình đi đến đâu cả! Ông bà mình có câu: ‘ngưu tầm ngưu, mã tầm mã,’ nghĩa là, nếu mình chỉ loanh quanh trong cái vòng lẩn quẩn than oán, ganh ghét, lo sợ, mình sẽ hấp dẫn những thứ này tìm đến với mình. Nhưng nếu khi mình biết vui mừng vì sự thành công của người khác, mình đang gửi ra một thông điệp cho chính mình và cho thế gian là ‘tôi cũng thích những thứ này!’ Rốt cuộc, năng lượng của sự xúc cảm mà mình mang theo đóng một vai trò vô cùng quan trọng.  
 
Nhăn nhó, ganh tỵ, bực tức vì sự may mắn, thành công của người khác chẳng mang lại cảm giác tốt đẹp gì cho mình! Ngược lại, vui mừng vì người sẽ mang lại niềm vui cho mình và năng lượng này, chắc chắn, sẽ tạo nên những điều tốt đẹp cho mình và cho người.

Thấy ai đó có việc làm tốt, lương cao dễ khiến mình rơi vào cái thòng lọng của sự ghen tức.  Nhưng nếu mình nhìn thấy rằng những chuyện tốt đẹp như vậy có thể xảy ra, sẽ khiến mình thêm phấn khởi, cố gắng để đạt được vì cơ hội tuyệt diệu này đã đang xảy ra ngay trước mắt mình.  Đây cũng là cơ hội để mình đối đầu với niềm tin tiêu cực cho rằng: Hễ người ta có rồi thì mình sẽ không thể có. Sự thật thì điều này không đúng!  Hễ mình thay đổi lòng tin của mình, cho là:  Hễ họ làm được là mình làm được.  Đó mới là cách nhìn tích cực, diệt trừ được những lo sợ, bực tức, đố kỵ xấu xa.

Tâm niệm cuộc đời là vô thường cũng giúp nhiều cho chúng ta.  Sự giàu sang, may mắn, thành đạt rồi cũng phải chịu phép với định luật vô thường. Và luôn cả những sự không may mà mình đang hứng chịu, một ngày nào đó, cũng sẽ trôi qua.  Nhận thức điều này để thấy rằng không chỉ có mình là xui xẻo, không may vì ai trong đời rồi cũng sẽ trải qua. Nếu mình cứ gặm nhấm nỗi đau bất hạnh rồi buồn tủi, giận hờn suốt đời.  Có phải là một việc làm phí phạm?

Mỗi khi bạn cảm thấy mình bị bế tắc và đời mình đầy nỗi lo sợ, âu sầu, phiền muộn.  Bạn nên nhớ rằng tất cả những điều này xảy ra vì tâm bạn đang bị nhiễm ô, không thanh tịnh.  Bạn có thể dừng lại, tạo một khoảng cách và nhìn lại bản thân mình, như bạn đang xem một vở kịch buồn trên truyền hình.  
 
Bạn sẽ thấy rằng mình có thể chia sẽ và đồng cảm với bi kịch đời mình, như là khi bạn xem kịch buồn trên tivi vậy!  Bạn cũng có thể cảm thông, thương yêu, tha thứ và luôn cả cảm ơn những gì mình đang thọ hưởng vì không ai trên thế gian này có thể thay đổi và làm mình tốt hơn, và hạnh phúc hơn là chính bản thân mình.

Thiện Ý
Đầu tháng Tư, 2015
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/01/2021(Xem: 9197)
Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu Thiền sư TRÌ BÁT (Kỷ Sửu 1049) Thiền sư TỊNH THIỀN (Tân Sửu 1121) Hoà thượng THÍCH ĐẠT THANH (Quý Sửu 1853) Hoà thượng THÍCH GIÁC NHIÊN (Đinh Sửu 1877) Thiền sư THÍCH CHƠN PHỔ - THUBTEN OSALL LAMA (Kỷ Sửu 1889) Hoà thượng THÍCH BỬU LAI (Tân Sửu 1901) Hoà thượng THÍCH THIÊN ÂN (Ất Sửu 1925) Hoà thượng THÍCH MINH THÀNH (Đinh Sửu 1937)
03/01/2021(Xem: 5519)
“Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Với một nước nông nghiệp như nước ta, hình ảnh con trâu nặng nề lầm lũi, kềnh càng cục mịch luôn gắn bó với những cánh đồng thửa ruộng, thân thiết với bao người nông dân chân lấm tay bùn, và gần gũi với lũ trẻ mục đồng thường nghêu ngao bài hát quen thuộc “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ!”… Không chỉ như thế, trâu cũng đã từng gắn bó với cuộc đời một vài danh nhân lịch sử như Đinh Bộ Lĩnh, Đào Duy Từ… Đối với nền văn học nước nhà, con trâu còn có cái công rất lớn trong việc làm phong phú ngôn ngữ, nhất là trong ca dao- đồng dao-tục ngữ.
01/01/2021(Xem: 5149)
Từ lâu các kinh sách Phật Giáo Việt Nam bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ âm Hán Việt của Trung Quốc. Từ những được chư tôn thiền đức Tăng Ni chuyển qua quốc ngữ tiếng Việt, để Phật tử dễ đọc, nhất là những vị chưa có kiến thức về âm Hán Việt. thế kỷ 20 (năm 2000 trở đi) các kinh sách dần dần đã Người biên soạn xuất gia tại Chùa Liên Hoa, Bình Thạnh, với Tôn Sư Hải Triều Âm, các kinh sách trong Chùa tụng bằng tiếng Việt do Tôn sư chuyển ngữ. Từ năm 2005 trở đi, người biên soạn định cư và hoằng pháp tại Hoa Kỳ. Nhiều Chùa ở Hoa Kỳ vẫn còn tụng kinh bằng âm Hán Việt và nhiều nơi phải tụng bằng tiếng Anh cho người bản địa và thế hệ con cháu thứ hai sanh tại Mỹ có thể tụng hiểu được. Phật tử Việt tụng kinh bằng tiếng Việt mà vẫn chưa hiểu được ý nghĩa ẩn sâu trong lời kinh và càng bối rối hơn khi tụng kinh bằng bằng âm Hán Việt. Đó là lý do thúc đẩy, chùa Hương Sen biên soạn một cuốn “NGHI LỄ HÀNG NGÀY” bằng tiếng Việt và tổng hợp gần 50 bài kinh:
01/01/2021(Xem: 5753)
Trong kho tàng văn học của Việt Nam và Phật Giáo, Trần Thái Tông (1225 - 1258) đã có những đóng góp vô cùng to lớn và giá trị, những sáng tác của Ngài, bất hủ qua dòng thời gian, tỏa sáng lồng lộng trên bầu trời Dân Tộc và Đạo Pháp. Trần Thái Tông được kể như một vị Thiền sư cư sĩ vĩ đại, nhà thiền học uyên thâm, thành tựu sự nghiệp giác ngộ. Một vị vua anh minh dũng lược, chiến thắng quân Nguyên Mông giữ gìn bờ cõi, đem lại cường thịnh ấm no cho dân cho nước, đã để lại tấm lòng cao quý thương yêu đời đạo, lưu lại di sản trí tuệ siêu thoát cho hậu thế noi theo.
29/12/2020(Xem: 6250)
Tịch tĩnh bất động hay định lực có thể đè nén những cảm xúc chướng ngại ẩn tàng, nhưng nó không thể loại trừ hoàn toàn chúng. Tuệ giác nội quán là cần thiết bởi vì như được giải thích trước đây, nó có thể loại trừ hoàn toàn những cảm xúc phiền phức và những rối rắm hậu quả của chúng. Thiền ổn định (chỉ) và thiền phân tích (quán) bây giờ phải làm việc với nhau. Khi chúng thể hiện chức năng cách này, chúng có thể nhổ gốc những cảm xúc phiền phức và loại trừ những giới hạn của thông tuệ vì thế chúng ta có thể hoàn thành mục tiêu tối hậu của việc giúp đở những kẻ khác một cách hiệu quả hơn.
29/12/2020(Xem: 5268)
Thơ thiền Nhật bản là cả một thế giới thi ca độc đáo, tiêu biểu cho tư tưởng và chủ trương tu tập của thiền học Zen, nhất là qua một thể thơ cực ngắn gọi là haiku. Điểm đáng lưu ý và cần nêu lên trước nhất là thơ thiền Nhật bản khác hẳn với thơ Đường của Trung quốc. Một số học giả, kể cả các học giả Tây phương, dường như đôi khi không nhận thấy được sự khác biệt này khi mang ra phân tích và tìm hiểu tinh thần Phật giáo chung cho cả hai thế giới thi ca trên đây.
28/12/2020(Xem: 5019)
Moscow: Thuật ngữ “Tukdam, ཐུགས་ དམ་” mô tả một dạng thiền cao cấp trong truyền thống Kim Cương thừa, thường được thực hành bởi các tu sĩ Phật giáo trong trạng thái quá độ sang sự chết, được gọi là trung hữu – bardo (chìa khóa để giải mã những Bí mật của Nghệ thuật sinh tử). Trạng thái nhập thiền định Phật giáo Mật tông hiếm có được gọi là “Tukdam, ཐུགས་ དམ་” đã được các nhà khoa học phương Tây nghiên cứu Và Tìm hiểu trong nhiều năm, với sự lãnh đạo của Tiến sĩ ngành tâm lý và tâm thần học - Richard Davidson thuộc Đại học Wisconsin-Madison (Mỹ), người sáng lập và Chủ tịch Trung tâm Tâm Trí Lực (Center for Healthy Minds).
28/12/2020(Xem: 5049)
Phật giáo đồ các quốc gia Đông Á, thường Kỷ niệm ngày Đức Phật Nhập Niết bàn vào tháng 2 Âm lịch. Nhưng tại địa phương tôi, Trung tâm Thiền miền Bắc Carolina (the North Carolina Zen Center) lại tổ chức Kỷ niệm ngày Đức Phật Thành đạo vào tháng 12 Âm lịch, với một buổi chia sẻ Pháp thoại với Thanh thiếu niên Phật tử, một buổi lễ thắp nến lung linh, tỏa sáng ánh đạo vàng từ bi, trí tuệ, và một bữa ăn tối sau lễ Kỷ niệm.
24/12/2020(Xem: 5464)
Đức Đạt Lai Lạt Ma và nhà hoạt động môi trường người Thụy Điển về biến đổi khí hậu, thiếu nữ (17 tuổi) Greta Thunberg sẽ hội thảo cùng với các nhà khoa học hàng đầu vào ngày 9 tháng 1 tới, về mối quan tâm ngày càng tăng, đối với phản ứng các bên về “khủng hoảng khí hậu: những biến đổi do con người gây ra trong môi trường làm tăng tốc độ nóng lên toàn cầu”. Cuộc thảo luận sẽ được tổ chức bởi Viện Tâm trí và Đời sống (Mind and Life Institute), rút ra từ cuốn sách mới nhất của Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chủ nghĩa hoạt động của nàng thiếu nữ (17 tuổi) Greta Thunberg, nhà hoạt động môi trường người Thụy Điển về biến đổi khí hậu và một loạt phim giáo dục mới về biến đổi khí hậu.
24/12/2020(Xem: 4882)
Trung tâm Phật giáo Somapura (Somapura Mahavihara, সোমপুর মহাবিহার, Shompur Môhabihar) được kiến tạo vào thế kỷ thứ 8, tọa lạc tại Paharpur, Badalgachhi Upazila, Naogaon, Tây Bắc Bangladesh, một ngôi Già lam Cổ tự lớn thứ hai phía Nam dãy Hymalaya, một trong những trung tâm Phật giáo lớn nhất Nam Á, thành tựu nghệ thuật độc đáo, ảnh hưởng đến nhiều trung tâm Phật giáo lớn khác trên thế giới.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]