Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

07. Lahoul

10/04/201512:00(Xem: 9254)
07. Lahoul

 

TRONG ĐỘNG TUYẾT SƠN 
TENZIN PALMO và CUỘC SUY TẦM CHÂN LÝ 
Nguyên tác : Cave in The Snow Tenzin Palmo and The Quest For Enlightenment 
Tác Giả: Vickie Mackenzie - Người Dịch: Thích Nữ Minh Tâm


CHƯƠNG BẢY
 
 
LAHOUL 
  
Đường về Bảo Sở (Phật tánh, Chơn Như) thật khó khăn, nhiều thử thách. Nó đòi hỏi người hành giả phải có sự quyết tâm và can đảm để đương đầu với mọi gian nan nguy hiểm.  
  
Con đường dẫn về Lahoul cũng vậy; thật cheo leo hiểm nghèo và gập ghềnh khó đi. Dãy Hy Mã Lạp Sơn hoang vu cách biệt hẳn thế giới loài người bởi hàng rào dày đặc tuyết và đá. Suốt cả 8 tháng trời trong năm, rặng Trường Sơn này luôn luôn bị tuyết đá bao phủ. Nhìn đâu đâu cũng thấy một mầu trắng xóa đến rợn người.  
  
Thời gian mùa hè ở Hy Mã Lạp Sơn rất ngắn. Hơn nữa, con đường dẫn tới vùng đất bí mật này lại còn được bảo vệ bởi đường đèo rùng rợn Rhotang Pass. Vì thế, ở độ cao 3.978 mét, vùng đất này đã được mệnh danh là "Cánh Đồng Xác Chết". Hình như đường lên Lahoul đã được các thần linh xếp đặt thật hiểm trở khó khăn để thử thách tâm người cầu đạo.  
  
Ngày đó, người ta chưa khai quang con đường và rất ít, rất ít người biết đến Lahoul : không có xe và chẳng có một phương tiện gì để leo lên tới Lahoul ngoài đi bộ; chứ không phải như ngày nay, du khách đã biết nhiều đến Tây Tạng và Lahoul cũng đã trở thanh một địa điểm du lịch hấp dẫn. Vì vậy, Tenzin phải tính toán thật kỹ nếu cô muốn leo lên Lahoul.  
  
Cô bắt đầu khởi hành trước bình minh. Cô phải làm sao vượt qua đèo Rhotang Pass trước buổi trưa, bởi vì độ nửa ngày thì những cơn cuồng phong sẽ bất thần bốc lên dữ dội thổi tung tuyết và đá khiến người ta mất phương hướng và bị lạc đường. Bị lạc đường ở đèo Rhotang Pass thì chỉ có nước giáp mặt Tử Thần mà thôi ! Do đó, các cơ quan hữu trách bắt buộc Tenzin phải viết đơn cam kết chịu hoàn toàn trách nhiệm về an ninh bản thân trước khi cô khởi hành. Tenzin rất vui vẻ làm theo ý họ.  
  
Tenzin cắm cúi leo, leo mãi; bỏ lại sau lưng những cánh đồng xanh bát ngát, những vườn hoa hồng, hoa cúc tươi thắm, và khói bếp nồng ấm tỏa ra từ những căn nhà vang rộn tiếng cười trẻ thơ. Cô trực chỉ đèo Rhotang Pass, leo vượt qua rặng cây dày đặc; đất dưới chân càng lúc càng gồ ghề, lồi lõm, khó đi; chung quanh vắng ngắt không có một bóng người qua lại. Thỉnh thoảng, đó đây, Tenzin chỉ thấy thấp thoáng một vài con trâu "yak", vài chú ngựa hoang, và một con kên kên khổng lồ đậu trên mỏm đá. — độ cao này, những dốc núi phủ đầy tuyết trông thật hung hãn, gớm ghiếc như một tử thù sẵn sàng xô ngã bất cứ kẻ nào xâm phạm đến nó. Gió hú lên từng cơn, đem theo cơn lạnh giết người; dù thời tiết đang ở vào đỉnh cao mùa hè, gió vẫn lồng lộng buốt giá. Đường đi trơn trợt vì có chỗ tuyết tan chảy dọc theo sườn núi; có chỗ thì đóng băng cứng ngắc. Tenzin vẫn cắm cúi leo từng bước một, từng bước một. Cuối cùng cô đã leo tới đỉnh núi; và như để trọng thưởng sự kiên nhẫn và can đảm của cô, một quang cảnh hùng vĩ tráng lệ trãi dài ra trước mắt Tenzin.  
  
- "Thật tuyệt vời. Trước mắt tôi là một vùng đất bằng phẳng rộng độ khoảng một dặm, bao bọc chung quanh là những ngọn núi tuyết trằng xóa nổi bật trên nền trời xanh thẳm. Thiên nhiên thật quá ưu đãi con người. Cảnh trời cao núi biếc làm tâm hồn người ta thanh tịnh, lâng lâng một niềm thoát tục.  
  
 "Tôi gặp một vị Lạt Ma trên đỉnh núi. Vị ấy đeo một cái trống cơm nhỏ và một khúc xương người.Vị Lạt Ma cho tôi biết khúc xương ấy là biểu tượng để quán tưởng về cái chết của vị ấy. Chúng tôi trèo qua rặng đèo và để người trượt xuống theo sườn núi qua phía bên kia."  
  
Khi Tenzin chạm tới chân núi thì cô lại như lọt vào một thế giới khác.  
  
 - "— đây giống như ở Shangri-la. Từ văn hóa tập tục Ấn Độ, tôi bước vào thế giới văn hóa phong tục người Tây Tạng. Những mái nhà ở đây thì bằng phẳng; rải rác dọc theo các sườn núi là những tu viện Phật giáo, những bánh xe cầu nguyện, và những bảo tháp.  
  
Người Tây Tạng ở vùng Lahoul này sống lam lũ hơn, nhưng họ có vẻ rắn chắc và thoải mái hơn các cư dân vùng khác vì họ sống gần với đất trời, rừng núi, cỏ cây. Người Tây Tạng hao hao giống như người Trung Hoa, nhưng đôi gò má họ cao hơn, và đôi mắt thuôn đẹp như trái hạnh đào."  
  
Từ nhiều thế kỷ trước, khi đạo quân Hồi giáo tràn sang xâm chiếm Tây Tạng và Ấn, và tàn phá hủy diệt hàng ngàn ngôi chùa, tự viện, người dân Tây Tạng đã phải bồng bế nhau chạy đến vùng Lahoul này để lánh nạn; Phật giáo cũng đã theo gót chân người Tây Tạng đến mảnh đất hoang vu xa xôi hẻo lánh này và bắt đầu nẩy mầm mọc rễ tại đây do sự nỗ lực tinh cần của các vị đạo sư sau này sống ẩn dật tại các hang động trong núi tuyết. Năm tháng trôi qua, người ta thêu dệt nhiều huyền thoại về các vị Lạt Ma ẩn sĩ đó và quyền năng của họ; vì thế, quang cảnh ở Lahoul cũng bao phủ một màu huyễn hoặc.  
  
Năm 1970, khi Tenzin đến Lahoul, thì dân chúng ở Lahoul vẫn còn kém, chưa hiểu biết gì nhiều về thế giới bên ngoài. Đời sống họ mộc mạc giản dị, ngày ngày ra đồng trồng khoai trồng lúa, hay chăn nuôi súc vật. Nếp sống đơn thuần đó ảnh hưởng đến tính tình bản chất con người nên người dân Tây Tạng rất hiền hòa chất phác và niềm tin Phật giáo của họ rất thuần khiết dung dị. Những sáng kiến phát minh khoa học kỹ thuật của thế kỷ 20 này như điện lực, máy truyền hình, truyền thanh, xe hơi, v.v... chưa xâm nhập vào Lahoul, cũng như những bộ mặt da trắng của người Tây Phương vẫn còn xa lạ với dân Tây Tạng vùng đất Lahoul này.  
  
Sự có mặt của Tenzin Palmo, với chiếc áo nữ tu Tây Tạng mầu đỏ xậm, đã làm cho dân Lahoul xôn xao và hiếu kỳ. Người đàn bà đó là ai vậy? Làm sao mà một phụ nữ Tây Phương lại dám bỏ hết vật chất để đi tu vậy? Có phải cô ta tu thiệt không đó, hay là gián điệp gì đây? Cô ta muốn gì ở người Tây Tạng chúng ta? v.v.. và v.v... Nhưng Tenzin đã chinh phục được cảm tình của dân Lahoul và đè bẹp được làn sóng dư luận xầm xì nghi kỵ đó bằng chính sự nhiệt tâm, cởi mở, và chân thành của cô. Cô được họ đặt cho tên gọi là "Saab Chomo" (Ni cô Tây Phương), và sau này khi Tenzin ẩn cư trong động tuyết, thì họ đã kính trọng cô như một vị Thánh.  
  
Lúc đó, Tenzin muốn tới Tayul Gompa, có nghĩa là "vùng đất chọn". Đó là một toà nhà cổ nguy nga độ 300 năm, tọa lạc giữa rừng cây cách thủ đô Keylong độ vài dặm. — đó, có một thư viện lý tưởng, những bộ sưu tập tranh lụa tôn giáo và một bức tượng rất lớn của ngài Padmasambhava, vị Thánh Đạo Sư đầu tiên truyền bá đạo Phật từ Ấn vào Tây Tạng. Người dân Tây Tạng tôn sùng ngài như là một vị Phật.  
  
Bây giờ Tenzin đã có thể sống yên ổn thoải mái ở Lahoul rồi. Mấy năm qua, cô trôi dạt từ phòng thuê này đến nhà trọ khác; giờ đây cô đã có một căn nhà nhỏ xây bằng đá và bùn cho riêng cô đằng sau ngôi chùa, nơi mà các vị tăng sĩ hay các ni cô thường ở riêng biệt.  
  
Tenzin sống vui vẻ, thân mật, hòa đồng với tất cả mọi người. Ai ai cũng qúi mến cô cả. Tenzin thân nhất với Tshering Dorje, người mà cô thường thân mật gọi là "Anh trai người Lahoul của tôi".  
 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/12/2022(Xem: 3075)
Loạt bài "Tiếng Việt từ TK 17" đã đề cập đến một số cách dùng Hán Việt đặc biệt như sinh thì (~qua đời, chết), Kinh Tại Thiên, Kinh Tin Kính, Kinh Thiên Chúa, lịch sự, thượng hoà hạ mục, thượng phụ, trung phụ, hạ phụ, thượng đế, thiên chủ/chúa2 ...v.v…Phần 37 này bàn thêm về cách dùng một số từ Hán Việt thời LM de Rhodes đến truyền đạo: sự (~thờ) 事, thửa (~ sở) 所, kì 其, giao cảm 交感, tinh thần 星晨, đang/đương thì 當時, củ thủ 糾手, thiểu ngữ 少語. Đây là lần đầu tiên cách dùng này hiện diện trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh/Bồ (chữ quốc ngữ). Tài liệu tham khảo chính của bài viết này là bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&
25/11/2022(Xem: 3236)
Lời mở đầu của người chuyển ngữ Bài kinh Kevaṭṭa-Sutta là một bài kinh dài giảng cho một người thế tục trẻ tuổi tên là Kevaṭṭa khi người này đến xin Đức Phật chỉ định một vị tỳ-kheo trong Tăng đoàn thực thi các phép lạ để thu phục được nhiều người hơn. Thế nhưng Đức Phật khẳng định là Ngài không hề dạy các tỳ-kheo của mình làm phép lạ, mà chỉ giảng dạy họ phải làm thế nào để biến mình từ một con người bình dị trở thành một con người cao quý hơn, đưa mình đến sự Giải thoát cuối cùng và sự Giác ngộ tối thượng. Sự giảng và học hỏi đó tự nó cũng đã là một phép lạ. Đấy là nội dung của toàn bộ bài kinh, và cũng là "kim chỉ nam" giúp chúng ta theo dõi bài kinh rất phong phú, khúc triết, nhưng cũng rất phức tạp này.
25/11/2022(Xem: 6912)
Hành Hương Thắp Sáng Tâm Đăng và Cảm niệm Thâm Ân Đức Thế Tôn VỊ THẦY VĨ ĐẠI BẬC NHẤT CỦA NHÂN LOẠI. Suốt tuổi vị thành niên ưu tư, trăn trở, đến tuổi lập gia đình thấy mọi niềm vui, khoái lạc đều phù du, trống rỗng; tháng năm dài tìm cách giúp vua, cứu nước, Thái Tử Siddhārtha Gotama luôn cảm thấy mình làm cái việc của con dã tràng xe cát - vì không giải mã được hố thẳm của lòng người (nguyên nhân của khổ uẩn). Với ý chí kiên định, ngài thoát ly gia đình, vợ con, vương vị, quyết tìm ra con đường thoát khổ, giải trình giá trị và ý nghĩa vĩnh cửu cho kiếp nhân sinh.
22/10/2022(Xem: 4240)
Chia sẻ hình ảnh của Khóa tu nhân Lễ Vía Đức Bồ Tát Quan Âm tại Chùa Pháp Hoa Seattle Washington State do Ni Sư Thích Hạnh Nguyện và chư Đạo hữu Tịnh Thanh, Trí Tín tổ chức. Xin thành tâm cảm niệm tất cả chư Tôn Đức Tăng Ni, chư thiện hữu, Phật tử đã nhiệt tâm hỗ trợ cho Khóa tu được thành tựu viên mãn và giai đại hoan hỷ...
12/10/2022(Xem: 2728)
Xin có lời tâm sự, rằng trong lòng tôi vẫn luôn luôn là một đứa trẻ rất mực ngây thơ, nghĩa là, chưa bao giờ lớn cả. Nói cho đúng, tôi đã lớn dậy giữa rừng văn học cổ tích quê nhà, đã say mê đọc truyện cổ về những vị Bụt bay tới khi có ai đó gặp nạn và ngồi than khóc, đã miệt mài với những thần thoại tuyệt vời trong Kinh Phật… Và rồi, tôi tin rằng Đức Phật không bao giờ rời bỏ chúng sinh.
30/09/2022(Xem: 4784)
Nam Mô Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát Kính quý thiện hữu ''Sứ giả Từ Bi'' Đạo Tràng Kim Đài - CA Xin tường trình cùng Đại chúng. Tánh Tuệ vừa hoàn tất 8 giếng nước do quí Thiện hữu bố thí cho dân nghèo xứ Phật và vẫn Continue hoàn tất những giếng nước khác do quí thiện hữu phat tâm.
25/09/2022(Xem: 6959)
Thấm thoát đã đến Giỗ Trăm Ngày Cố Sa Di Ni Bồ Tát Giới Thích Nữ Hoa Khai danh Không Ngại Thân mẫu Trụ Trì tại Quan Âm
21/09/2022(Xem: 4053)
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật Chân Tâm chính là gia bảo Tâm, chẳng lẽ không quý trọng hơn tiền tài, vật chất sao? Bởi không có tâm thì ai đặt lên vật chất những giá trị? Tâm là bà mẹ sinh ra những đứa con (vật chất), nhưng phần nhiều con người ta thà vì tiền tài danh lợi mà phụ rẫy bản tâm, mà khiến cho tâm tổn thương chảy máu. - Quả báo của tất cả hạnh phúc, xuất phát từ Tâm. Sự trừng phạt của tất cả khổ đau, cũng bắt nguồn từ Tâm.
20/09/2022(Xem: 7837)
Kinh Tiểu Bộ Diễn Nghĩa Kệ Bāhiya Sutta (Thể song thất lục song bát) * Lê Huy Trứ
20/09/2022(Xem: 3652)
"Bài kinh giảng cho Girimānanda" / Girimānanda Sutta (AN 10.60) là một bài kinh ngắn nhưng thuyết giảng về một phép luyện tập thiền định thật quan trọng, thiết thực và cụ thể, giúp người đau ốm mượn hơi thở để trở về với chính mình, làm lắng dịu các sự đau đớn trên thân thể và mọi lo lắng trong tâm thần. Ở các cấp bậc lắng sâu hơn, phép luyện tập này cũng có thể làm cho căn bệnh hoàn toàn chấm dứt, mang lại một niềm hân hoan và thanh thoát thật sâu xa.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]