Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

01. Cuộc Gặp Gỡ

10/04/201511:48(Xem: 8918)
01. Cuộc Gặp Gỡ
TRONG ĐỘNG TUYẾT SƠN 
TENZIN PALMO và CUỘC SUY TẦM CHÂN LÝ 

Nguyên tác : Cave in The Snow Tenzin Palmo and The Quest For Enlightenment 
Tác Giả: Vickie Mackenzie - Người Dịch: Thích Nữ Minh Tâm



CHƯƠNG MỘT
 
CUỘC GẶP GỠ 
  
Tôi nhớ lại lần hội ngộ đầu tiên với Tenzin Palmo tại Pomaia, một thành phố nhỏ của Ý nằm giữa những ngọn đồi hùng vĩ của Tuscany khoảng một giờ đường lái xe từ Pisa.  
  
Đó là một buổi xế trưa mùa hè và không khí ngột ngạt hơi nóng và mùi nhựa thông. — đó, chúng ta thấy những tòa lâu đài một thời nguy nga tráng lệ với những bức tường chạm trổ tinh xảo, những cửa cái có vòm cao, mái nhà kiểu tháp nhọn lấp lánh phản chiếu ánh mặt trời tháng Tám, và chỉ có tiếng côn trùng rỉ rả phá tan bầu tĩnh lặng của buổi trưa hè. Nhưng chỉ độ vài giờ nữa thôi, cuộc sống dưới phố kia sẽ náo nhiệt ồn ào vào buổi tối. Những cửa tiệm bán thực phẩm, giầy dép, bánh ngọt, và bia rượu sẽ mở cửa đón khách; và bọn đàn ông sẽ tụm năm tụm ba tán dóc đủ mọi chuyện từ chính trị, kinh tế, đến những hoạt động của các tổ chức phe nhóm địa phương. Tuy nhiên, lần đó, nét lộng lẫy gợi cảm nồng nàn của xứ Ý, nơi mà thiên hạ đua chen nhau hưởng thụ dục lạc, đã phải nhường bước cho ánh sáng thế giới nội tâm của Tenzin Palmo.  
  
Lần đầu tiên, tôi gặp Tenzin Palmo khi cô đang đứng dưới bóng các cây cổ thụ trong một tòa lâu đài. Đó là một phụ nữ mảnh khảnh vào độ tuổi trung niên, với làn da trắng và lưng hơi khòm. Cô mặc áo nữ tu Tây Tạng mầu đỏ xậm và tóc cạo sát đầu. Đứng vây quanh cô là một đám đông phụ nữ. Chúng ta có thể thấy đó là một buổi nói chuyện rất hào hứng, và bầu không khí rất thân mật, cởi mở. Đúng ra thì họ không được phép nói chuyện như vậy; tuy nhiên, sau cả một tháng trời tu học giáo lý và thực tập thiền định, thì buổi nói chuyện ngoại lệ đó cũng là điều tất yếu thôi.  
  
Tôi và khoảng 50 người nữa cũng tham dự vào buổi nói chuyện đó. Những sinh hoạt hào hứng ngoại lệ như thế đã trở thành quen thuộc nhưng quan trọng đối với tôi, sau khi tôi gặp các vị Lạt Ma ở Nepal từ năm 1976 trở về trước và khám phá ra tính chất đặc biệt phong phú trong những thông điệp của các ngài. Vì thế, những buổi nói chuyện sống động như tôi đang chứng kiến đây, là một phương pháp thư giãn xả hơi sau những giờ dài ngồi kiết già thiền định hay lắng nghe các vị tu sĩ trùng tuyên lại lời dạy của Đức Phật.  
  
Tối hôm đó, mọi người quây quần ăn uống ngoài trời. Một người đàn ông ngồi bên cạnh, thì thầm vào tai tôi, và chỉ vào Tenzin khiến tôi đặc biệt chú ý. Tenzin Palmo lúc đó đang ngồi ở bàn ăn bên kia và nói chuyện vui vẻ, hăng say với đám đông vây quanh cô.  
  
- "Đó là Tenzin Palmo, một phụ nữ Anh Quốc đã sống 12 năm trong một hang động cao hơn 12.000 bộ trong dãy Hy Mã Lạp Sơn đó. Cô ta sống một mình ở đó và vừa mới rời khỏi động tuyết."  
  
Bây giờ, sự chú ý của tôi đối với Tenzin Palmo không còn là một sự tò mò nữa, mà là một sự chú tâm đặc biệt.  
  
Nhiều năm qua, tôi đã đọc, đã nghe về những nhân vật kỳ đặc - những bậc đạo sư du già ở Tây Tạng, Ấn Độ hay Trung Hoa. Những bậc đại nhân này đã lìa bỏ những tiện nghi sung mãn vật chất của đời sống con người để ẩn cư thiền định tại những núi rừng hoang vu tĩnh mịch hết năm này qua năm khác. Con đường của họ đi thật khó khăn và cô độc làm sao! Hoàn toàn cô đơn, trên người chỉ có một tấm vải thô hay một chiếc áo mỏng manh, họ dấn thân vào cuộc chiến đấu với bản thân và những cơn đói lạnh khủng khiếp ghê hồn. Thân họ chỉ còn da bọc xương, râu tóc họ mọc xồm xoàm rậm rạp đến tận lưng. Họ đối diện với thú rừng hung dữ và những tên cướp của giết người không gớm tay. Những tên cướp này không có lương tâm, không có một chút tình nhân loại. Chúng không cần biết đó chỉ là những vị đạo sĩ vô sản; khi không tìm thấy được một vật gì, chúng đánh đập dã man các vị đạo sĩ này không chút nương tay, có khi gần chết. Tuy nhiên, những khổ sở đau đớn của ngoại cảnh không làm cho các đạo sĩ này nao núng lùi bước; cũng không thể nào so sánh với những chướng ngại nội tâm mà các đạo sĩ cần phải vượt qua để đạt tới giác ngộ giải thoát. Những lớp sóng ngầm độc hại của nội tâm như sân hận, chấp thủ, tham luyến... v.v... sẵn sàng trổi dạy và trào dâng úp chụp lấy họ không biết lúc nào. Họ phải vượt qua tất cả - và ngay cả khi chiến thắng chúng thì các vị đạo sĩ này cũng phải dẹp tan sự phấn chấn hứng khởi đó thì mới có thể gọi là Vô Ngã được.  
  
Cảnh giới giải thoát đó rộng rãi thênh thang, vượt qua biên giới nhị nguyên - không Ngã - không Nhân - Đó là cảnh giới thanh bình an lạc tối thượng, không có gì so sánh được. Đó là trạng thái tinh thần sung mãn cao nhứt mà con người có thể chứng được nếu muốn.  
  
Tôi đã đọc, đã nghe; nhưng hôm nay, tại Pomaia Ý đại Lợi, tôi đã gặp, đã chứng kiến một con người thực sự chứ không phải trong huyền thoại truyền thuyết; một con người bằng xương bằng thịt đang ngồi trước mặt tôi - và hơn thế nữa, đó không phải là một đạo sĩ người Á Đông, mà là một phụ nữ Tây Phương tân tiến thời đại. Một phụ nữ Tây Phương thời đại !  
  
Đầu óc tôi quay mòng mòng với hàng trăm câu hỏi. Cái gì đã xui khiến người phụ nữ Anh này rời bỏ được những tiện nghi văn minh vật chất để rút vào độc cư thiền định nơi núi thẳm rừng sâu như vậy? Làm sao cô có thể sống sót qua những cơn gió lộng bão tuyết kinh hồn? Cô ăn gì, tắm làm sao, ngủ thế nào, và không có cả điện thoại nữa? (đời sống người Tây Phương gắn liền với máy điện thoại; không có nó, họ cảm thấy thiếu thốn, có thể chết đi được). Làm sao cô có thể tồn tại khi không có một chút hơi ấm của tình người, của một người bạn đồng hành qua nhiều năm như vậy? Cô đã chứng đạt được gì? Và, tò mò hơn nữa, làm sao cô có thể chịu đựng nổi sự cô đơn và im lặng tuyệt đối giữa cảnh núi tuyết lạnh lùng hoang vắng, khi chính cô xuất thân từ một hoàn cảnh tương đối tốt đẹp?  
  
Nhưng tất cả sự tò mò nóng nảy đó của tôi đã vội nhường bước cho lòng kính trọng pha lẫn sự ngạc nhiên đối với một người phụ nữ đã can đảm kiên trì phiêu lưu đến một nơi chốn mà tôi chưa hề biết và cũng không thể tưởng tượng ra được. Sự khao khát tìm cầu chân lý của cô, hoàn toàn khác tôi, đã đẩy cô vượt qua những khóa tu tập bình thường để dấn thân vào một cuộc chiến đầy cam go và thử thách, cốt làm sao vượt qua khỏi sanh tử luân hồi.  
  
"Nhập Thất", theo kiến thức nông cạn của tôi, là một việc làm lâu dài đòi hỏi tánh bền bỉ chịu đựng ngày này qua ngày khác; những thời khóa tu tập, tụng kinh, ngồi thiền, niệm chú, v.v... cứ lập đi lập lại dài vô tận; hay đối phó với những khủng hoảng dao động tâm lý chợt đến, chợt đi, khuấy phá nội tâm hành giả - và hành giả phải kiên trì, tin tưởng, can đảm đi đến cuối con đường mình đã chọn.  
  
Ngày hôm sau, tôi lại gặp cô ta ở ngoài vườn, và chỉ ngồi một mình. Thấy có cơ hội, tôi tiến lại gần. Không biết cô có chịu tiếp chuyện với tôi không? Nhưng nụ cười rộng mở, nét mặt khả ái của cô, và đôi mắt xanh trong sáng đã thúc giục tôi tiến bước. Từ người cô tỏa ra một sự bình an, hoan hỷ, tự tại, và thản nhiên; nhưng tính chất nổi bật nhất của cô là sự tinh khiết trong sáng hoàn toàn không chút vẩn đục của thân tâm.  
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/12/2010(Xem: 7570)
Thông thường cho rằng, muốn hiểu được nhân quả trong ba đời thì phải có túc mạng thông để biết các sự vật thuộc đời quá khứ, phải có thiên nhãn thông để biết các chuyện vị lai. Đó là một quan điểm hình như đúng mà thực ra là sai.
28/12/2010(Xem: 6834)
Học để hoàn thiện chính mình là việc học suốt cả cuộc đời, chẳng thể nào được tốt nghiệp trọn vẹn, nếu ta không có đủ ý chí và nghị lực. Thứ nhất: “Học để biết cách hiếu thảo với ông bà cha mẹ”. Cây có cội, nước có nguồn. Ăn trái nhớ kẻ trồng cây. Biết ơn và đền ơn là quy tắc đạo thờ ông bà tổ tiên dân tộc Việt Nam và người tu theo đạo Phật. Thứ hai: Học để biết ơn thầy tổ. Thầy ở đây bao gồm thầy dạy chữ và dạy nghề nghiệp. Ngoài ra ta còn biết ơn thầy dạy về đạo đức luân lý sống trong xã hội. Trước tiên là học lễ phép, sau đó mới học chữ và học nghề chân chính. Thứ ba: Học để biết ơn đất nước, ơn các vị lãnh đạo có công giúp cho mọi người ổn định về đời sống an sinh xã hội và biết ơn các anh hùng nghĩa tử.
28/12/2010(Xem: 7403)
Hầu hết chúng ta đều mắc phải cái bệnh "đòi hỏi tuyệt đối". Giàu thì mình muốn giàu hơn tất cả, sang cũng muốn mình sang hơn tất cả, cho đến đẹp, giỏi, khen, đều là hơn tất cả. Có cái gì thua kém hơn người là buồn, tủi, bực dọc không hài lòng. Do đó cộc sống không thấy có hạnh phúc, vì thấy mình còn thua người này kẻ nọ. Hoặc than trách người thân của mình sao không được như ý mình muốn. Những nỗi khổ đau buồn bực ấy đều do không hiểu "cuộc đời tương đối mà!"
26/12/2010(Xem: 11936)
Bây giờ, tâm thức tồn tại bằng sự tùy thuộc trên nguyên nhân và điều kiện (nhân duyên). Tâm thức hôm nay hiện hữu do bởi tâm thức hôm qua.
25/12/2010(Xem: 9699)
Gần ¼ thế kỷ trong nghề đâm heo thuốc chó tại xứ người, tác giả có nhận xét chủ quan là hình như loài vật cũng có một thứ tình cảm, một linh cảm nào đó...
24/12/2010(Xem: 20469)
Nhờ Phật giáo, tôi biết tu tập để phát động lòng từ bi và đem lại hơi ấm cho tim tôi, sự tu tập ấy tỏ ra khá hữu ích cho tôi trong cuộc sống thường nhật.
23/12/2010(Xem: 6891)
Trả lời phỏng vấn của Tuần báo Pháp Le Point, đức Dalai Lama thứ 14 nghiêm khắc phê phán chủ trương cải đạo của người theo đạo Thiên chúa. Theo ngài đó một việc hoàn toàn lỗi thời và quá xa xưa.
19/12/2010(Xem: 19270)
Hoàngđế A-dục trị vì nước Ấn vào thế kỷ thứ III trướcTây lịch và cũng là một trong những nhân vật sáng chói nhấttrong lịch sử Phật giáo. Là vị hoàng đế nổi tiếng nhấtcủa triều đại Maurya ông đã thống nhất gần toàn thểbán lục địa Ấn độ. Dưới triều đại của ông,văn hóa được phát triển cao độ và cũng là lần đầu tiêntrong lịch sử nước Ấn mà sử liệu thật phong phú ghi chépbằng chữ viết còn lưu lại đến ngày nay. Nghệ thuật tiêubiểu và đặc trưng nhất cho nền văn hóa Ấn độ nói chungcũng đã phát sinh trong thời kỳ này.
19/12/2010(Xem: 8980)
Năm 1996, nhà xuất bản Le Pré aux Clercs có phát hành một quyển sách gồm những lời phát biểu của Đức Đạt-lai Lạt-ma được chọn lọc từ các bài diễn văn, phỏng vấn, các buổi thuyết giảng và các sách của Ngài. Sách gồm VI chương, dày 192 trang và sau đây là chương V của quyển sách mang tựa đề "Cẩm nang cho cuộc sống".
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]