Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phát nguyện Tịnh Khẩu

07/04/201508:00(Xem: 10775)
Phát nguyện Tịnh Khẩu

bai cua hoa lan (1)


Như một làn điện chớp sẹt ngang đầu khi thiên hạ nghe tin khó tưởng, cô Hoa Lan lắm lời vừa phát nguyện Tịnh Khẩu. Vâng, chuyện có thật các bạn ạ! Chẳng những Hoa Lan mà còn cả hơn 50 giới tử tham dự buổi Thọ Bát Quan Trai do thầy Hạnh Bảo hướng dẫn tại chùa Linh Thứu.

        Điểm đáng chú ý của buổi thọ giới này là thầy Hạnh Bảo đã thực hiện được tâm nguyện của các vị Thầy truyền giới từ xưa đến nay, biến cái “chợ chồm hổm“ thành một đạo tràng thanh tịnh trong một ngày một đêm bằng một tấm bảng nhỏ dán trên ve áo của mỗi giới tử, với hàng chữ viết thật rõ ràng: Ngày Thọ Bát Quan Trai Giới, phát nguyện TỊNH KHẨU.

Ai gặp các giới tử đi phất phơ trong sân chùa, định tới chào hỏi thăm sức khỏe, ta cứ việc cười mỉm chi rồi chỉ chỉ vào tấm bảng dán trên áo là thiên hạ sẽ cười lại đáp lễ rồi biến ngay tại chỗ, trả lại cho ta cái thanh tịnh có sẵn tự ngàn xưa.

Cách đây 2 năm trong buổi Thọ Bát tại chùa Linh Thứu thầy Hạnh Tấn đã đưa ra dự án “dán bảng Tịnh Khẩu“ với đầy đủ chi tiết, thế mà thủ tục hành chánh kéo dài đến bây giờ mới được chấp hành nghiêm chỉnh các bạn ạ!

Vì là báu vật nên thầy Hạnh Bảo phải cất chúng trong một túi gấm thêu chỉ vàng, trịnh trọng sau buổi lễ truyền giới Thầy cho người đem phát tận tay từng giới tử. Tuy nhiên đấy chỉ là hình thức, một tấm bảng vô tri, vô giác làm sao một sớm một chiều có thể thay đổi được cả một tập quán “ham nói“ của chúng sanh. Do đó Thầy chế mốt mới bắt từng giới tử phải học thuộc lòng một đoạn kinh hay một bài Sám Nguyện nào đó để ngày mai trước giờ xả giới sẽ khảo bài trước đại chúng. Ôi thôi! Cả chánh điện nhốn nháo, các bác bô lão đòi miễn dịch, viện cớ lớn tuổi không còn khả năng thu nhập. Nhưng cho dù ai kia có nói ngả nói nghiêng, thầy Hạnh Bảo vẫn đứng vững như kiềng ba chân.

Sau cùng có màn thương lượng giữa các giới tử và Thầy truyền giới cho hợp với khả năng của từng vị, ai ai cũng hài lòng. Cô Thiện Giới bị Thầy chiếu tướng hơi nhiều, trước tiên bắt đọc lời nguyện thứ sáu của Ngài Quán Âm.

Trời ạ! Ngày thường cô ấy vẫn ba hoa chích chòe khoe khoang đủ điều, nào là mỗi ngày đều lạy 12 Lời Nguyện của Quán Âm Như Lai. Mong học hạnh Từ Bi và Nhẫn Nhục của Ngài để chống trả với người chồng Bồ Tát nghịch duyên của mình. Thế sao hôm nay mặt ngẩn tò te trước đại nguyện từ bi hỷ xả của Ngài, may sao có bác Từ Lương nhắc tuồng: Nam Mô đại từ bi, hành hỷ xả, Quán Âm Như Lai, thường hành bình đẳng nguyện. Thế là cô Thiện Giới bị bắt học cho nhuyễn 12 Lời Nguyện, không còn thì giờ và tâm trí để đấu chuyện phiếm với thiên hạ.

Kể từ đó sân chùa trở nên khởi sắc, trong các giờ nghỉ các giới tử tay cầm quyển kinh “Thiền Môn Nhật Tụng“ loại bỏ túi, đi tới đi lui chăm chỉ học bài. Tà áo tràng phất phơ trước gió, dáng đi chậm rãi đoan trang, ánh mắt đăm chiêu thả hồn vào tiếng nhạc lời kinh. Giống như hình ảnh của Chúc Anh Đài trong phim bộ của Trung quốc thời xa xưa, hay các nàng nữ sinh Đồng Khánh của cố đô Huế ngày xưa. Có người mải lo học đến quên cả giờ Quá Đường để đại chúng chờ mong.

  
bai cua hoa lan (2)

Buổi chiều đến giờ thuyết giảng mới thật hào hứng, thầy Hạnh Bảo với tài ăn nói, như trong cung chiếu mệnh có sao “Tứ lợi khẩu“ làm lung lạc lòng người. Không ai có thể ngủ gật trong giờ Thầy đăng đàn truyền giới hay thuyết Pháp, chỉ lo ngồi nghiêm chỉnh để ôm bụng cười hoài.

Vì mải lo cười nên tôi không nhớ chủ đề bài giảng của Thầy một cách tổng quát, chỉ nhớ mang máng vài điểm trích đoạn để kể lại cho các bạn không được tham dự khỏi tiếc thầm mà thôi.

Để bài viết được mạch lạc, tôi chia bài giảng của Thầy ra làm truyện dài nhiều tập, gồm ba hồi bốn hiệp. Từ lúc ngày xưa còn bé chưa đi tu nghịch ngợm như thế nào, đến lúc tu được 10 năm trở về độ gia đình làm sao? Sẽ theo thứ tự lớp lang ngược xuôi kiểu nào cũng được, miễn sao các bạn hiểu được thì thôi.

Ngày Thầy về quê thăm gia đình sau 10 năm tu hành khổ hạnh, người ta áo gấm về làng phần Thầy chỉ có 3 Y một bình bát và một bình thủy đựng nước sôi để pha trà. Các anh chị lớn của Thầy sau bao năm lăn lộn với dòng đời, đã trải qua nhiều cuộc biển dâu từ đỉnh cao hạnh phúc đến vực thẳm của tình yêu.

Họ đang chờ đợi Thầy cho một bài Pháp cao siêu để soi đường chỉ lối cho họ thoát ra khỏi cơn bĩ cực của cuộc sống hiện thời.

Người anh lớn chỉ có một ước mơ sẽ trở thành đại gia, buôn may bán đắt, một vốn bốn lời, như bao nhiêu con người trên cái thế giới ta bà này. Nhưng cuộc đời có thịnh ắt có suy, người anh sau nhiều năm tháng gây dựng cơ ngơi, đã bắt được cơn sóng thần “phá sản“ làm dã tràng sóng cuốn trôi đi.

Người chị cả đang đau khổ vì tình, mặc dù chị đã lấy được người mình yêu. Cái người hào hoa phong nhã ấy đã có một thời theo đuổi chị ráo riết, đã chết mê chết mệt vì chị, đã nhờ Thầy làm chim nhạn trao thơ và nhờ đó Thầy có tài lộc để mua kẹo bánh giải sầu. Thế mà bây giờ tình đã bay xa theo một bóng hồng nào khác.

Thầy Hạnh Bảo chỉ tặng ông anh bà chị của Thầy câu Niệm Phật. Họ phản đối ào ào, tưởng Thầy tu lâu có thần thông biến hóa ra tiền hay sai khiến ông anh rể tung cánh chim tìm về tổ ấm, chứ ngồi không niệm Phật sao thụ động quá đi thôi! Thầy chỉ nhẹ nhàng bảo:

-        Người anh niệm Tiền sẽ được Tiền bạc (bạc đây là bạc bẽo, bạc trắng như vôi ấy). Người chị niệm Tình sẽ được Tình phụ. Còn Thầy niệm Phật sẽ được gặp Phật, chỉ đơn giản thế thôi.

Qua đến hiệp hai, chuyện Thầy về quê đi từ thiện với nghệ sĩ Kim Cương, người chỉ cần đọc qua kịch bản đã nhập vai khóc sướt mướt. Nhắc đến cô nghệ sĩ Kim Cương tôi phải nhớ ngay đến kẻ tình si nhà thơ “điên“ Bùi Giáng. Chữ điên phải được nằm trong nháy nháy, vì cái gì ta xử trí hơi khác người cho dù đúng hay sai đều được thiên hạ tặng cho chữ điên và tống vào nhà thương điên Biên Hòa. Ở trong môi trường đó người không điên cũng biến thành điên, do đó chuyện nhà thơ Bùi Giáng điên hay tỉnh chỉ có chính đương sự mới biết mà thôi.

        Theo lời kể của cô Kim Cương thì những người theo đuổi cô ráo riết chỉ thuộc diện “điên nặng“, kẻ tình si Bùi Giáng thuở ấy cứ chờ đến đêm ba mươi là trồng cây si hằng giờ trước cửa nhà cô, chờ sáng mùng một vào xông nhà chúc Tết với những bài thơ kiểu “Khi người điên biết yêu“:

        Cô Kim Cương ơi,

        Nếu ngày sau tôi chết đi, mà cô không giỏ cho một giọt nước mắt.

        Thì cô có thể giỏ cho một giọt nước... cũng được

        (Nhớ giỏ ngay trên nấm mồ)

        Ở dưới suối vàng tôi sẽ ngậm cười mà đón nhận.

        (Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây)

 

Không biết Kim Cương Nương Tử của ông nghĩ gì về bài thơ không thể nào tưởng tượng nổi như thế này?

        Về nghệ thuật kể chuyện vui thầy Hạnh Bảo có sẵn từng bồ, kể hoài không hết. Câu chuyện một bà Phật tử ở bên Mỹ nhìn lầm thầy Hạnh Bảo ra sư phụ của Thầy vì tướng mạo hai người hơi giống nhau, rồi săn đón suýt xoa lễ bái cúng dường rất trân trọng. Đến khi nhận ra sự thật, bà ta quay lưng không ngó ngàng gì đến Thầy nữa, làm Thầy tủi thân biết mấy.

        Một câu chuyện thuộc loại Có cảm có ứng khi ta niệm Quán Âm do Thầy kể, làm tôi phải suy nghĩ không hiểu chuyện có thật hay là cổ tích.

        Ở một ngôi làng hẻo lánh nọ, có một bà cụ rất tin tưởng vào Bồ Tát Quán Âm, cụ niệm danh hiệu Ngài ngày đêm không nghỉ và với lòng tin kiên cố cụ nghĩ, bất cứ tình huống nào xảy đến, cụ chỉ cần gọi là Ngài sẽ đến cứu cụ ngay.

       Hôm đó trong làng bị một trận bão lớn, cỡ cơn bão số 9, nước ngập đến chân và có khuynh hướng dâng lên từ từ. Người hàng xóm sang tận nơi khuyên cụ nên di tản, nhưng cụ nhất định không đi vì nghĩ có chuyện gì xảy ra Quán Âm sẽ đến cứu cụ ngay không việc gì phải sợ. Ngày hôm sau nước ngập đến tận lưng, mọi người trong làng đã cao chạy xa bay từ lâu, chỉ còn bà cụ ngồi niệm Quán Âm một cách chí thành! Một chiếc thuyền chèo ngang đón cụ, dục dã liên hồi nhưng cụ vẫn bình chân như vại chờ Quán Âm tới rước mới chịu đi. Qua đến ngày thứ ba nước đã ngập đến đầu, cụ phải leo lên mái nhà để niệm Quán Âm, trên bầu trời xuất hiện một chiếc trực thăng với giây thang thòng xuống, yêu cầu cụ leo lên. Vì không thấy Quán Âm đến đón nên cụ vẫn kiên trì ở lại, dĩ nhiên cụ già bị nước cuốn đi hui nhị tỳ một cách ngon ơ.

        Xuống tới cửu tuyền, cụ làm đơn gửi Diêm Vương để kiện Bồ Tát Quán Âm với tội trạng, không giữ lời hứa đến cứu cụ, trong khi cụ đã hy sinh cả đời để niệm danh hiệu Ngài. Mặc dù rất bận rộn trong công việc cứu khổ, cứu nạn chúng sanh, Bồ Tát Quán Âm vẫn xuất hiện đúng giờ trước phiên tòa xét xử.

        Ngài phất nhẹ nhành dương liễu trước thinh không, rồi nhẹ nhàng cười bảo:

        - Ta có đến cứu ngươi 3 lần mà nhà ngươi cứng đầu không chịu theo, biết làm sao đây!

        Pháp của thầy Hạnh Bảo là như thế đó, pháp này rất dễ hiểu sẽ đi sâu vào quần chúng một cách dễ dàng.

        Nhờ tấm bảng phát nguyện Tịnh Khẩu đeo trên ve áo mỗi giới tử, cộng thêm trách nhiệm phải học thuộc bài để mai Thầy truyền giới khảo hạch, đạo tràng thọ bát lần này rất thanh tịnh, không có trò tụ năm tụ ba lại nói chuyện phiếm. Nhiều khi còn quá tích cực như đến giờ chỉ tịnh rồi, còn có người chong đèn trên giường để học cho nốt đoạn kinh Chú Đại Bi.

       
bai cua hoa lan (3)

Phần tôi cũng chẳng khá gì hơn, trong giấc mơ vẫn còn lẫn lộn lời nguyện nọ chập sang lời nguyện kia.

        Sáng hôm sau chương trình vẫn như thường lệ, công phu khuya xong đáng lẽ các giới tử phải ra sân để vận động tay chân, múa một vài màn Tài Chi cho khỏe. Nhưng hôm nay sân chùa lại vắng lặng, chỉ thấy các hình ảnh của Chúc Anh Đài hay các nữ sinh Đồng Khánh cầm quyển kinh đi phất phơ qua lại, mặt rất đăm chiêu vì sợ chưa thuộc hết bài.

        Cái gì đến sẽ đến, giờ khảo bài đã điểm. Ban giám khảo gồm các Ni Sư Linh Thứu, Ni Sư Hương Sơn và dĩ nhiên vị chánh chủ khảo là thầy Hạnh Bảo.

        Các bạn ơi! Thầy ghi sổ hết cả rồi, ai nhận học bài bản nào là trả bài ngay tại chỗ, không trốn tránh vào đâu được.

        Ai thuộc bài sẽ được một tràng pháo tay tán thưởng của đại chúng và một món quà nhỏ của các Ni Sư tận tay trao tặng, một xâu chuỗi hạt hay một tượng Phật để treo. Chắc là Phật độ hay sao mà ai cũng trả bài một cách lưu loát, nhiều hay ít tùy theo căn cơ  và sự dụng công của chính mình.

        Người được tán thưởng nhiều nhất là bác Từ Lương với 48 Lời nguyện của Phật A Di Đà, hỏi bất chợt lời nguyện nào từ dưới đi lên hay từ trên đi xuống bác vẫn đọc được một cách mạch lạc.

        Buổi lễ xả giới kết thúc khóa tu cho một lời phát nguyện Tịnh Khẩu, tuy chỉ có một ngày một đêm thôi, nhưng sẽ là những viên gạch khởi đầu xây dựng cho ngôi nhà Phật Pháp tương lai trong mỗi chúng ta.

        Chúc các bạn một ngày vui.

 

        Hoa Lan.

Mùa Thu 2009.

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/01/2021(Xem: 9177)
Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu Thiền sư TRÌ BÁT (Kỷ Sửu 1049) Thiền sư TỊNH THIỀN (Tân Sửu 1121) Hoà thượng THÍCH ĐẠT THANH (Quý Sửu 1853) Hoà thượng THÍCH GIÁC NHIÊN (Đinh Sửu 1877) Thiền sư THÍCH CHƠN PHỔ - THUBTEN OSALL LAMA (Kỷ Sửu 1889) Hoà thượng THÍCH BỬU LAI (Tân Sửu 1901) Hoà thượng THÍCH THIÊN ÂN (Ất Sửu 1925) Hoà thượng THÍCH MINH THÀNH (Đinh Sửu 1937)
03/01/2021(Xem: 5509)
“Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Với một nước nông nghiệp như nước ta, hình ảnh con trâu nặng nề lầm lũi, kềnh càng cục mịch luôn gắn bó với những cánh đồng thửa ruộng, thân thiết với bao người nông dân chân lấm tay bùn, và gần gũi với lũ trẻ mục đồng thường nghêu ngao bài hát quen thuộc “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ!”… Không chỉ như thế, trâu cũng đã từng gắn bó với cuộc đời một vài danh nhân lịch sử như Đinh Bộ Lĩnh, Đào Duy Từ… Đối với nền văn học nước nhà, con trâu còn có cái công rất lớn trong việc làm phong phú ngôn ngữ, nhất là trong ca dao- đồng dao-tục ngữ.
01/01/2021(Xem: 5138)
Từ lâu các kinh sách Phật Giáo Việt Nam bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ âm Hán Việt của Trung Quốc. Từ những được chư tôn thiền đức Tăng Ni chuyển qua quốc ngữ tiếng Việt, để Phật tử dễ đọc, nhất là những vị chưa có kiến thức về âm Hán Việt. thế kỷ 20 (năm 2000 trở đi) các kinh sách dần dần đã Người biên soạn xuất gia tại Chùa Liên Hoa, Bình Thạnh, với Tôn Sư Hải Triều Âm, các kinh sách trong Chùa tụng bằng tiếng Việt do Tôn sư chuyển ngữ. Từ năm 2005 trở đi, người biên soạn định cư và hoằng pháp tại Hoa Kỳ. Nhiều Chùa ở Hoa Kỳ vẫn còn tụng kinh bằng âm Hán Việt và nhiều nơi phải tụng bằng tiếng Anh cho người bản địa và thế hệ con cháu thứ hai sanh tại Mỹ có thể tụng hiểu được. Phật tử Việt tụng kinh bằng tiếng Việt mà vẫn chưa hiểu được ý nghĩa ẩn sâu trong lời kinh và càng bối rối hơn khi tụng kinh bằng bằng âm Hán Việt. Đó là lý do thúc đẩy, chùa Hương Sen biên soạn một cuốn “NGHI LỄ HÀNG NGÀY” bằng tiếng Việt và tổng hợp gần 50 bài kinh:
01/01/2021(Xem: 5736)
Trong kho tàng văn học của Việt Nam và Phật Giáo, Trần Thái Tông (1225 - 1258) đã có những đóng góp vô cùng to lớn và giá trị, những sáng tác của Ngài, bất hủ qua dòng thời gian, tỏa sáng lồng lộng trên bầu trời Dân Tộc và Đạo Pháp. Trần Thái Tông được kể như một vị Thiền sư cư sĩ vĩ đại, nhà thiền học uyên thâm, thành tựu sự nghiệp giác ngộ. Một vị vua anh minh dũng lược, chiến thắng quân Nguyên Mông giữ gìn bờ cõi, đem lại cường thịnh ấm no cho dân cho nước, đã để lại tấm lòng cao quý thương yêu đời đạo, lưu lại di sản trí tuệ siêu thoát cho hậu thế noi theo.
29/12/2020(Xem: 6241)
Tịch tĩnh bất động hay định lực có thể đè nén những cảm xúc chướng ngại ẩn tàng, nhưng nó không thể loại trừ hoàn toàn chúng. Tuệ giác nội quán là cần thiết bởi vì như được giải thích trước đây, nó có thể loại trừ hoàn toàn những cảm xúc phiền phức và những rối rắm hậu quả của chúng. Thiền ổn định (chỉ) và thiền phân tích (quán) bây giờ phải làm việc với nhau. Khi chúng thể hiện chức năng cách này, chúng có thể nhổ gốc những cảm xúc phiền phức và loại trừ những giới hạn của thông tuệ vì thế chúng ta có thể hoàn thành mục tiêu tối hậu của việc giúp đở những kẻ khác một cách hiệu quả hơn.
29/12/2020(Xem: 5259)
Thơ thiền Nhật bản là cả một thế giới thi ca độc đáo, tiêu biểu cho tư tưởng và chủ trương tu tập của thiền học Zen, nhất là qua một thể thơ cực ngắn gọi là haiku. Điểm đáng lưu ý và cần nêu lên trước nhất là thơ thiền Nhật bản khác hẳn với thơ Đường của Trung quốc. Một số học giả, kể cả các học giả Tây phương, dường như đôi khi không nhận thấy được sự khác biệt này khi mang ra phân tích và tìm hiểu tinh thần Phật giáo chung cho cả hai thế giới thi ca trên đây.
28/12/2020(Xem: 5014)
Moscow: Thuật ngữ “Tukdam, ཐུགས་ དམ་” mô tả một dạng thiền cao cấp trong truyền thống Kim Cương thừa, thường được thực hành bởi các tu sĩ Phật giáo trong trạng thái quá độ sang sự chết, được gọi là trung hữu – bardo (chìa khóa để giải mã những Bí mật của Nghệ thuật sinh tử). Trạng thái nhập thiền định Phật giáo Mật tông hiếm có được gọi là “Tukdam, ཐུགས་ དམ་” đã được các nhà khoa học phương Tây nghiên cứu Và Tìm hiểu trong nhiều năm, với sự lãnh đạo của Tiến sĩ ngành tâm lý và tâm thần học - Richard Davidson thuộc Đại học Wisconsin-Madison (Mỹ), người sáng lập và Chủ tịch Trung tâm Tâm Trí Lực (Center for Healthy Minds).
28/12/2020(Xem: 5037)
Phật giáo đồ các quốc gia Đông Á, thường Kỷ niệm ngày Đức Phật Nhập Niết bàn vào tháng 2 Âm lịch. Nhưng tại địa phương tôi, Trung tâm Thiền miền Bắc Carolina (the North Carolina Zen Center) lại tổ chức Kỷ niệm ngày Đức Phật Thành đạo vào tháng 12 Âm lịch, với một buổi chia sẻ Pháp thoại với Thanh thiếu niên Phật tử, một buổi lễ thắp nến lung linh, tỏa sáng ánh đạo vàng từ bi, trí tuệ, và một bữa ăn tối sau lễ Kỷ niệm.
24/12/2020(Xem: 5462)
Đức Đạt Lai Lạt Ma và nhà hoạt động môi trường người Thụy Điển về biến đổi khí hậu, thiếu nữ (17 tuổi) Greta Thunberg sẽ hội thảo cùng với các nhà khoa học hàng đầu vào ngày 9 tháng 1 tới, về mối quan tâm ngày càng tăng, đối với phản ứng các bên về “khủng hoảng khí hậu: những biến đổi do con người gây ra trong môi trường làm tăng tốc độ nóng lên toàn cầu”. Cuộc thảo luận sẽ được tổ chức bởi Viện Tâm trí và Đời sống (Mind and Life Institute), rút ra từ cuốn sách mới nhất của Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chủ nghĩa hoạt động của nàng thiếu nữ (17 tuổi) Greta Thunberg, nhà hoạt động môi trường người Thụy Điển về biến đổi khí hậu và một loạt phim giáo dục mới về biến đổi khí hậu.
24/12/2020(Xem: 4878)
Trung tâm Phật giáo Somapura (Somapura Mahavihara, সোমপুর মহাবিহার, Shompur Môhabihar) được kiến tạo vào thế kỷ thứ 8, tọa lạc tại Paharpur, Badalgachhi Upazila, Naogaon, Tây Bắc Bangladesh, một ngôi Già lam Cổ tự lớn thứ hai phía Nam dãy Hymalaya, một trong những trung tâm Phật giáo lớn nhất Nam Á, thành tựu nghệ thuật độc đáo, ảnh hưởng đến nhiều trung tâm Phật giáo lớn khác trên thế giới.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]