Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tinh thần nhập thế độ sinh

06/04/201508:27(Xem: 9136)
Tinh thần nhập thế độ sinh


chua_thienkhanh_05


TINH THẦN NHẬP THẾ ĐỘ SINH
VÀ XUẤT THẾ GIẢI THOÁT CỦA CƯ SĨ PHẬT GIÁO
THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG TRỢ NIỆM TẠI ĐÀI LOAN



Thích Giải Hiền

Giảng viên Học viện Phật giáo Việt Nam tại Hà Nội

Hội trưởng Hội Sự Nghiệp Từ Thiện Minh Đức

(Dịch từ tham luận của cư sĩ Trần Thanh Hán – Chủ tịch Hội cư sĩ Phật Giáo Đài Loan

 tại diễn đàn cư sĩ Phật Giáo thế giới lần thứ 4)




1. Lời mở đầu

    Nghi thức trợ niệm lúc lâm chung trong Phật Giáo được các bậc cao tăng Đại Đức hoằng dương ở Đài Loan đã gần 20 năm nay, dần dần được đón nhận tích cực và phụng trì của quảng đại quần chúng trong xã hội và trong giới Phật Giáo tại Đài Loan. Nghi thức trợ niệm vốn là một phương pháp trợ duyên vãng sinh Tây Phương Cực Lạc trong Tịnh Độ tông, do các vị đại sư Ấn Quang, đại sư Hoằng Nhất cùng các vị cư sĩ đề xướng vào đầu thế kỷ 20. Năm 1951 tại Đài Loan có cư sĩ Lý Bỉnh Nam thành lập “Đài Trung Liên xã”, năm 1986 có hai vị cư sĩ Trí Mẫn và Huệ Hoa tông Viên Giác (được các Phật tử tôn kính xưng là hai vị thượng sư) thành lập Tịnh xá Nặc Na Hoa Tạng, đem toàn lực hộ trì và phát dương nghi thức trợ niệm lúc lâm chung. Nghi thức trợ niệm dần dần trở thành pháp môn tu tập phổ biến được quảng đại dân chúng trong xã hội Đài Loan tiếp nhận và hành trì.

2. Tịnh xá Nặc Na Hoa Tạng phát dương pháp môn trợ niệm tại Đài Loan

          Cư sĩ Tiền Học Mẫn - Phó chủ tịch tiền nhiệm Hội cư sĩ Phật Giáo Trung Hoa tại Đài Loan (Trí Mẫn Kim Cang thượng sư) và phu nhân là cư sĩ Chu Tĩnh Hoa (Huệ Hoa Kim Cang thượng sư) là hai vị sáng lập và trụ trì tịnh xá Nặc Na Hoa Tạng, là trụ sở của toàn thể hội viên Hội cư sĩ Phật Giáo Trung Hoa tại Đài Loan, bắt đầu hoạt động khai đàn hoằng dương Phật Pháp từ năm 1980. Tịnh xá Nặc Na Hoa Tạng là một đoàn thể cư sĩ Phật Giáo tu hành dung hợp hiển - mật giữa truyền thừa cổ phái Ninh Mã Ba của Mật Tạng cùng với tinh hoa các tông phái Thiền Đại Thừa Trung Hoa, Mật tông và Thiên Thai tông; trong đó, hạt nhân của pháp môn tu trì là coi trọng sự khai triển Bồ Đề tâm và thực tiễn hành Bồ Tát đạo tự giác giác tha, tự độ độ tha để đạt được Phật quả giác hạnh viên mãn, cũng chính là mục tiêu cuối cùng hành Bồ Tát đạo của cư sĩ học Phật tại gia.

          Hai vị Trí Mẫn và Huệ Hoa vì bi tâm lân mẫn chúng sinh sinh tử trải qua nhiều đời nhiều kiếp mà không được giải thoát. Mặt khác, trong hoàn cảnh 30 năm trước ở Đài Loan, pháp môn trợ niệm chưa được truyền bá rộng, phong tục địa phương thủ cựu khiến đa số dân chúng chưa có quan niệm chính tín Phật Pháp đối với những nghi thức lúc lâm chung; người sau khi chết theo truyền thống tín ngưỡng của từng nhà hoặc phong tục địa phương mà tổ chức tang lễ. Hai vị cảm nhận sâu sắc “thân người khó được” lại muốn thực hiện lợi ích thực tiễn của Phật Pháp vào trong đời sống văn hóa xã hội, không để mất đi cơ hội hiếm có được làm người, hi vọng có thể giúp đỡ những người mất ngay lúc lâm chung trong đời hiện tại có được cơ hội được Phật tiếp độ sau cùng, nên dốc sức cùng các vị đệ tử thành lập đoàn trợ niệm.

          Trong suốt thời gian 30 năm hoạt động, Tịnh xá Nặc Na Hoa Tạng đã trợ niệm cho nhiều người vãng sinh. Tính từ năm 2010 đến 12/2014, trung bình mỗi năm hội tiến hành trợ niệm cho hơn 10.000 người, chiếm khoảng 7% số người mất toàn Đài Loan. Bài viết phân tích hoạt động trợ niệm của Tịnh xá Nặc Na Hoa Tạng, chứng minh trợ niệm là một pháp môn tu trì Bồ Tát đạo hàm chứa cả tinh thần nhập thế độ sinh và xuất thế giải thoát của người cư sĩ Phật Giáo.

3. Pháp môn trợ niệm đầy đủ tinh thần nhập thế độ sinh và xuất thế giải thoát của Lục độ Bồ Tát đạo.

    Hai vị thượng sư Trí Mẫn và Huệ Hoa từng khai thị với hội viên đoàn trợ niệm rằng: “Bồ Tát độ sinh có muôn ngàn phương pháp, nhưng không pháp nào nhanh chóng, phương tiện, thù thắng, triệt để, cứu cánh, đại chúng, ít tốn lực mà thành tựu lớn bằng pháp trợ niệm lúc lâm chung để vãng sinh Tịnh độ.” Do đó, có thể thấy được rằng trợ niệm lúc lâm chung không chỉ là phương tiện nhập thế của Bồ Tát bi mẫn chúng sinh mà đồng thời cũng là vì tự độ độ tha vãng sinh Tịnh độ, triệt để hoằng dương pháp môn tu trì giải thoát cứu cánh này.

Hai vị Trí Mẫn và Huệ Hoa cũng từng khai thị: “Trợ niệm là phương pháp độ sinh trực tiếp và hữu hiệu nhất, là cùng tu Lục độ Ba-la-mật, là pháp thù thắng nhất thể dụng song tu, công đức làm được ngày thường không bằng 1/10 so với trợ niệm. Sao lại nói trợ niệm là pháp môn cùng tu Lục độ Ba-la-mật? Vì người mà trợ niệm, tức Pháp thí; thanh tịnh thân, khẩu, ý để trì chú độ tha nhân, tức là trì giới; bất luận thân tâm có mệt mỏi cũng vẫn an nhẫn vì người trợ niệm, tức hành nhẫn nhục; lúc trợ niệm không sinh vọng tưởng, một lòng vì muốn lợi tha, tức là tinh tấn; an trú nơi tam thân mà tu (pháp, báo, hóa), tức là Thiền định thậm thâm; tam luân thể không, như huyễn quán tha nhân vãng sinh nước Phật A Di Đà, biết Tây phương chẳng lìa tự tánh, tức là trí tuệ vô thượng. Do đó nói vì người mất trợ niệm thực là cùng tu Lục độ, công đức lớn nhất.”

Dưới đây sẽ phân tích cụ thể hơn trợ niệm chính là thực tiễn Lục độ Bồ Tát đạo, bao hàm tinh thần nhập thế độ sinh và xuất thế giải thoát:

  1. Trợ niệm tức bố thí Ba-la-mật: Pháp bố thí có thể đối trị bệnh keo kiệt, tham lam. Tịnh xá Nặc Na Hoa Tạng từ ngày thành lập đoàn trợ niệm đến nay hoàn toàn không thu bất kỳ chi phí nào, những hội viên trợ niệm là xả bỏ thời gian, tinh thần, sức lực mưu cầu tiền tài, lợi ích thế gian của chính mình để phụng hiến vì người mà trợ niệm. Đồng thời cũng vì người mà tự cung cấp các Pháp bảo của Phật môn như đồ đạc trợ niệm, máy niệm Phật, kim cang sa, đó chính là tài thí. Chẳng luận tu hành nông sâu chỉ cần phát tâm Bồ Đề vì người mất trì tụng thánh hiệu A Di Đà Phật và lục tự đại minh chú của ngài Quán Âm tức thì cảm ứng đạo giao, người mất được Phật lực gia bị sinh về cõi nước Cực Lạc hoặc đạo nhân thiên, đó chính là Pháp thí. Lại trong Kinh Địa Tạng nói: người lâm chung mà nghe một lần danh hiệu Phật, tức sẽ không bị đọa ba đường ác, như vậy khiến người mất tránh xa sợ hãi của đường ác, đó chính là vô úy thí .
  2. Trợ niệm tức trì giới Ba-la-mật: Trì giới chính là để đối trị với các pháp ác, như trong Kinh Lăng Nghiêm có nói: “nhiếp tâm chính là giới”. Lúc trợ niệm, yêu cầu người trợ niệm phải chuyên chú niệm Phật, như vậy về mặt giới luật mà nói thì không trì mà như trì, thân, khẩu, ý tự nhiên tránh xa thập ác, không tạo ác nghiệp. Do đó, người trợ niệm ba nghiệp thanh tịnh, một lòng lợi tha, tương ứng với tâm Bồ Đề trì giới thù thắng.
  3. Trợ niệm tức nhẫn nhục Ba-la-mật: nhẫn nhục là để đối trị với sân hận. Những vị hội viên tịnh xá Nặc Na Hoa Tạng thời kỳ đầu phát khởi pháp môn trợ niệm thường gặp phải chướng duyên là thân quyến người mất ý kiến bất đồng, đến nơi lại bị từ chối, thậm chí đang tiến hành bị mời đi về, lại có khi bị thân quyến người mất ở bên cạnh tranh chấp, hoặc tiếp đãi lạnh nhạt… nhưng những vị phát tâm vẫn nhẫn nại nhu hòa khuyên giải lấy việc giúp đỡ người vãng sinh làm trọng, đồng thời vẫn tiếp tục trợ niệm, thuyết phục thân quyến người mất cùng đến trợ niệm, lại không kể mưa gió nóng lạnh, thân tâm có mệt hay không vẫn tận tâm tận lực, đó chính là tu nhẫn nhục Ba-la-mật.
  4. Trợ niệm tức tinh tấn Ba-la-mật: tinh tấn là để đối trừ với giải đãi, lười biếng. Dũng mãnh tinh tấn có thể thành tựu viên mãn các thiện pháp. Người trợ niệm tức học hạnh Bồ Tát xả bỏ hết thảy những việc không liên quan đến giải thoát sinh tử, xa rời sự phóng dật, một lòng làm việc lợi ích cho người chẳng kể ngày đêm. Đoàn trợ niệm của Tịnh xá Nặc Na Hoa Tạng có thể trợ niệm bất cứ lúc nào không kể ngày đêm sáu thời, rất nhiều vị hội viên ban ngày đi làm, công việc mệt nhọc nhưng vẫn tinh tấn không từ nan, đó chính là vì độ chúng sinh mà tinh tấn không giải đãi.
  5. Trợ niệm tức Thiền định Ba-la-mật: Thiền định là để đối trừ tâm tán loạn. Lúc trợ niệm, người trợ niệm nhiếp tâm vào Phật, không khởi vọng tưởng, sáu căn đều nhiếp, chỉ trụ vào một cảnh giới duy nhất A Di Đà Phật mà hành đại bi lợi tha, tương ứng với hóa thân Phật; trong thì xả vọng niệm, tịnh niệm tương tục, khế hội với trí tuệ diệu tướng vô lượng quang, vô lượng thọ, tương ứng với báo thân Phật A Di Đà; nếu như người trợ niệm có thể niệm mà không niệm, không niệm mà niệm, nhập Tam-ma-địa, tức tương ứng với pháp thân Phật A Di Đà, đó chính là Thiền định thậm thâm. Trong quá trình trợ niệm của Tịnh xá Nặc Na Hoa Tạng, người trợ niệm khai thị người mất: “nhất tâm tưởng tượng hình tướng đức Phật A Di Đà, giống như ánh quang minh của mặt trăng trong nước không có thực thể, ánh quang từ nơi tâm đức Phật A Di Đà chiếu phóng bao quanh (người vãng sinh). (người vãng sinh) cần biết rằng những chuyện xảy ra trong đời đều như trong giấc mộng nên xả bỏ hết thảy, không phải nghĩ tưởng bận tâm về nó. Thành tâm thành ý cầu đức Phật A Di Đà tiếp dẫn vãng sinh về cõi nước Cực Lạc, rồi đi vào trong ánh quang minh nơi đức Phật A Di Đà, dung hợp làm một với ánh quang minh ấy.”  Người trợ niệm nên biết pháp quán tưởng niệm Phật, đồng thời hướng dẫn người mất an trú trong ánh Phật quang của Phật A Di Đà, đó chính như Thiền định Ba-la-mật.
  6. Trợ niệm tức Bát-nhã Ba-la-mật: trí tuệ Bát-nhã để đối trị với ngu si. Trong lúc trợ niệm, người trợ niệm đối diện với quả báo cuối cùng của người mất, chính là cơ duyên để quán sinh tử vô thường, tức trong lúc vì người trợ niệm mà thể hội được yếu chỉ “chư hành vô thường, chư pháp vô ngã” mà buông bỏ hết thảy chấp trước hư vọng. Lại lúc niệm Phật tuy quán tưởng quang minh Phật Di Đà biến chiếu mà tiến một bước thể hội tướng mà vô tướng, thể tính bản không, năng niệm là ta (bản thể), sở niệm là người vãng sinh (đối tượng) đều là như huyễn, rồi cũng như huyễn mà quán người mất vãng sinh cõi nước Cực Lạc. Tức là tam luân thể không (bản thể - ta, đối tượng - người và hình tướng - pháp đều không vướng mắc), quán ngược biết cõi nước Cực Lạc chẳng ngoài tự tánh mà hiển hiện, cũng chính là thậm thâm Bát-nhã Ba-la-mật.

          Các vị trong đoàn trợ niệm của tịnh xá Nặc Na Hoa Tạng khi trợ niệm khai thị với người mất rằng: “trên thế gian hết thảy cũng chỉ là một giấc mộng nên mời (người vãng sinh) hãy buông bỏ hết thảy chấp trước và ái hận với mọi người, mọi sự việc trong lòng, đừng lưu luyến gì nhục thân và thế giới này cả. Bất luận bây giờ hoặc tương lai nhìn thấy thứ gì cũng cần biết đó tất cả đều là huyễn tướng phản ánh từ trong tâm mà ra, giống như người nằm mơ nên đừng mê hoặc; nhất định không được có bất cứ tâm niệm tham cầu, oán hận, chấp trước không xả bỏ gì, mà phải giữ một tâm niệm lương thiện, kiền thành trong lòng.”

          Thế gian hết thảy đều là mộng huyễn, không gì mang theo được nên nhất định phải buông xả mà toàn tâm niệm Phật, trì chú, mới có thể mong được chư Phật tiếp dẫn. Bất luận gặp cảnh giới kinh hãi hay hỷ ái gì cũng cần nhớ đó đều chỉ là những huyễn tướng trong tâm, không phải là thực. Tuyệt không được sinh tâm tham ái, oán hận, mê hoặc, ngạo mạn, hoài nghi, tật đố trong lòng; không truy cầu gì, cũng không chạy trốn, một lòng một ý niệm Phật, trì chú.

          Những khai thị trên như Kinh Kim Cang  nói: “nhất thiết hữu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh, như lộ diệc như điện, ưng tác như thị quán.” Khiến cả người trợ niệm và người vãng sinh trong giờ khắc sinh tử vô thường đó đều thể hội được chân lý Bát-nhã chư pháp như huyễn mà buông bỏ hết thảy chủng chủng chấp trước vọng tướng, vọng tưởng.

      4. Lời kết      

          Kinh Lăng Nghiêm có nói: “tự vị đắc độ, tiên độ nhân giả, Bồ Tát phát tâm; tự giác dĩ viên, năng giác tha giả, Như Lai ứng thế.” – tức: chưa độ được mình mà đã độ người khác trước, đấy chính là sự phát tâm của hàng Bồ Tát; tự giác đã viên mãn, lại còn có thể giác ngộ người khác thì là bậc Như Lai xuất hiện trong cõi đời. Phật đệ tử phát Bồ Đề tâm hành Bồ Tát đạo, lúc chưa chứng thánh vị thì lực không đủ, muốn bằng sức mình để độ sinh sợ rằng kiếp dài vẫn chưa viên mãn; nhưng may thay có 48 nguyện đại từ bi của đức Phật A Di Đà, lúc sắp mất nhất tâm xưng danh nhớ niệm tức đắc đới nghiệp vãng sinh. Do đó, tuy người chưa chứng thánh vị nhưng phát tâm Bồ Đề vì tha nhân mà kiền thành trợ niệm, nếu người lâm chung có thể theo đó niệm Phật giống như sắp chìm mà gặp bè gỗ, kiên trì từng niệm đến cùng cầu sinh Tịnh độ tức thì cảm ứng đạo giao, trượng nhờ Phật nguyện mà vãng sinh Tây bang Lạc quốc; tức phàm phu nhờ nguyện lực Phật mà hành chuyện Như Lai độ hóa.

          Thực như lời hai vị thượng sư Trí Mẫn và Huệ Hoa từng nói: “độ một người vãng sinh Tịnh độ tức thành tựu một đức Phật. Độ trăm nghìn người vãng sinh Tịnh độ tức trăm nghìn người thành Phật. Phàm phu chúng ta nếu muốn độ một người thành Phật, có lẽ nghìn đời vạn kiếp vẫn khó thành, nhưng nay có phương pháp giản đơn khiến chúng ta có cơ hội lợi ích chúng sinh, độ người đến nơi cứu cánh sau cùng, đồng thời cũng thành tựu công đức vãng sinh sau này của chính mình. Đó không đáng để chúng ta dốc sức nỗ lực sao?”

          Pháp trợ niệm thực là pháp môn thù thắng bao hàm cả tinh thần nhập thế độ sinh và xuất thế giải thoát, đáng được mỗi vị hành giả hành Bồ Tát đạo chú tâm phụng hành và thực hiện.

 

Bảng thống kê trợ niệm của Tịnh xá Nặc Na Hoa Tạng tại Đài Loan,

2010 - 2013

Năm

2010

2011

2012

2013

Số người trợ niệm (người)

25441

27203

28780

30374

Số người mất (người)

10246

10907

11262

11348

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
21/10/2014(Xem: 9092)
Tôi may mắn có mặt trong buổi tối quý giá mà đông đảo Phật tử và thanh niên Hà Nội đã được học hỏi từ Sư bà Thích Nữ Giác Liên, một vị ni sư có 2 dòng máu Ấn – Việt, và là tác giả của cuốn “Đường về xứ Ấn”, tại nhà sách Thái Hà (119 C5 phố Tô Hiệu, phường Nghĩa Tân, quận Cầu Giấy, TP Hà Nội). Sư bà Thích Nữ Giác Liên sống ở Bồ Đề Đạo Tràng, Ấn Độ đã 7 năm, đã đi giảng Pháp tại nhiều nước trên thế giới. Sư bà cũng là tác giả của nhiều bản đạo ca nổi tiếng.
21/10/2014(Xem: 6808)
Đối với người đời, không có phước đức nào lớn cho bằng vợ đẹp, con khôn, của cải đầy kho, quyền thế, danh vọng, ăn ngon mặc đẹp… Thế nhưng bạn ơi, -Biết bao nhiêu ông thủ tướng, tổng bộ trưởng bị tù đày vì tham nhũng, gian trá, lạm quyền…thậm chí buôn lậu, dâm ô. Biết bao nhiêu ông tổng thống bị ám sát, lật đổ cũng chỉ vì tranh giành quyền lực. -Ông bố đốt tờ giấy bạc mà người nghèo có thể mua bao gạo để tìm một món đồ cho cô đào cải lương đánh rơi trong phòng trà…vài chục năm sau ông con lại sống như kẻ ăn mày. -Ông bố cặm cụi làm việc suốt đời tao dựng gia tài khổng lồ. Ông con trở thành “công tử” ăn chơi phung phí, bao gái, đua đòi, ném tiền qua của sổ…chẳng mấy chốc phá nát sự nghiệp của cha ông.
20/10/2014(Xem: 21714)
Đây là một trong những câu hỏi mà phóng viên tờ Mandala đã phỏng vấn bác sĩ Alan Molloy, một thành viên lâu năm của Viện Phật học Tara ở tiểu bang Melbourne, Úc, một người đã chứng kiến sự phát triển của đạo Phật tại quốc gia này từ cuối thập niên bảy mươi đến nay.
20/10/2014(Xem: 7641)
Là tín đồ Phật giáo từ năm mười bảy tuổi, đạo hữu luật sư Christmas Humphreys (1901-1983) không thuộc bất cứ một giáo phái nào của Phật giáo. Ông tin vào Phật giáo thế giới, và ông nghĩ rằng: “chỉ trong sự phối hợp của tất cả các tông phái người ta mới có thể thấy trọn vẹn sự vĩ đại của tư tưởng Phật giáo” (only in a combination of all schools can the full grandeur of Buddhist thought be found). Để làm cho quan điểm của mình được Phật tử trên thế giới chấp nhận, ông đã trình bày Mười hai nguyên tắc của Phật giáo (Twelve Principles of Buddhism) nổi tiếng của mình vào năm 1945, được dịch ra 14 thứ tiếng và được nhiều tông phái Phật giáo trên thế giới chấp nhận. Mười hai nguyên tắc ấy có điều giống với Mười Bốn Nguyên Tắc của Đại Tá Olcott giới thiệu trong tác phẩm Phật pháp vấn đáp (Buddhist Catechism) của ông, được xuất bản vào cuối thế kỷ thứ 19.
17/10/2014(Xem: 7275)
Bài viết “Phật trên hè phố Oakland” của nhà báo Trần Khải, tiếp tục được tải truyền rộng rãi trên các website. Bài viết ghi lại đại cương sự kiện phóng viên Chip Johnson kể lại trên báo SFGate.com về một pho tượng Phật đã đem lại sự bình an, sạch sẽ cho một khu phố nhiều tội ác và rác rưởi trước đây. Chi tiết đặc biệt đã thu hút người đọc, là pho tượng Phật Thích Ca bằng đá, chỉ cao khoảng 2 feet, được đặt ở góc đường 11 và đường 19, trong khu Eastlake, thành phố Oakland , là do một người vô thần, tình cờ nhìn thấy tại một tiệm bán vật liệu xây cất.
16/10/2014(Xem: 14255)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đại mà con người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh. Tuy nhiên theo lời Phật dạy, Phật từ tâm, tâm sinh Phật, để đưa đến giải thoát giác ngộ. Do đó nếu đã là Phật tử rồi thì nhất định phải tin lời Phật dạy, hơn nữa Kinh Hoa Nghiêm còn nói: “niềm tin là mẹ của công đức”.
14/10/2014(Xem: 9165)
Bạn chưa từng ghé thăm mà không gọi trước. Vậy mà lần này, mở cửa, chưa nhìn thấy người đã thấy hoa và trái. Mấy bó cúc đại đóa vàng tươi che kín mặt, chưa đủ, tay kia còn chĩu nặng một giỏ, vừa hồng dòn, vừa soài xanh, mận chín. Tôi toan đỡ một thứ, bạn đã bước nhanh qua cửa, đi thẳng vào bếp, đặt quà xuống, và líu lo: - Hên ghê, mình vừa đến tiệm là xe chở hoa và trái cây phân phối các chợ cũng vừa tới. Xem này, thiệt là tươi. Mình mua ngay. Khách hàng đầu tiên đấy!
14/10/2014(Xem: 8445)
Con đường ấy, khởi bước, ngỡ không mấy khó và chắc cũng chẳng có chi dài, vì nương theo sự chỉ bảo của các vị Đạo Sư, các bậc thiện tri thức giảng giải lời Phật dạy, thì sự giải thoát, giác ngộ có bao xa! Tùy căn cơ người nghe, lời giảng dạy chỉ gom về một mối, là muôn kinh, vạn kệ, hằng hà pháp môn cũng chỉ để giúp ta nhận ra, rằng mỗi chúng sanh đều có Phật Tánh sáng chói như nhau, nhưng nếu không thấy, chỉ bởi vô minh che lấp mà thôi. Nhận ra, và xóa sạch được bụi vô minh thì chúng sanh “sẽ thành Phật” đó, lập tức là “Phật đã thành”.
14/10/2014(Xem: 8791)
Mỗi tuần, tôi có một ngày để làm hai việc tuyệt vời. Đó là, thứ nhất: làm thinh, thứ hai: không làm gì cả! Hôm nay đang là phút giây tuyệt vời đó. Sau những ngày lạnh bất thường, nắng sáng nay rất đẹp, vàng óng và ấm áp. Cây cỏ hoa lá rộ lên niềm vui. Mọi cánh cửa mở rộng để nắng ghé vào, mang hương thơm của đất trời chuyển hóa. Không mùi hương nhân tạo nào so sánh được với hương gió núi mây ngàn. Ít nhất, chủ quan tôi như thế.
14/10/2014(Xem: 7527)
Từ Tào-Khê tịnh thất lên ngôi chùa hoang vắng nằm sâu trong rừng thông miền đông bắc Hoa Kỳ, hành trang tôi đã nhẹ. Rồi từ ngôi chùa hoang vắng đó về lại tịnh thất, hành trang lại càng nhẹ tênh! Cái giầu có nhất trong gia tài tôi, chỉ là kinh và sách, nhưng sau chuyến “lên rừng độc cư”, nay từ ba kệ lớn, chỉ còn một kệ nhỏ, khi thực hiện lời phát nguyện “Tặng hết những gì có, tới những ai ngỏ lời xin” (trừ những cuốn có chữ ký và thủ bút của Thầy Tuệ Sỹ)
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]