Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tu theo tánh của mỗi người

04/01/201519:25(Xem: 8134)
Tu theo tánh của mỗi người
lotus_5


Như đã đề cập ở một bài viết trước, chúng sanh có sáu tánh là tánh tham, tánh sân, tánh si, tánh tầm, tánh tín và tánh tuệ; chúng đi suốt trong dòng sống (bhavaṅga) của mỗi người. Tuy nhiên, chúng ta xem tánh nào vượt trội thì tạm gọi là tánh ấy, chứ chúng thường trộn lẫn tánh này và tánh khác khó nhìn ra chân tướng.




Trong đời sống tu tập, tôi thường chiêm nghiệm mình và người, nhất là những tôi quen hoặc những người tu học xung quanh tôi. Suốt mấy mươi năm qua, bây giờ tôi có thể đưa ra một vài tâm tánh đặc biệt, vài nhân vật đặc biệt, muốn chia sẻ đến những người tu học, để ai cũng có thể tự soi chiếu lại mình, âu cũng là những bài học giác ngộ cho tất cả chúng ta.

Bây giờ tôi xin kể về “hành trạng” của một người, mà theo tôi, đây là trường hợp tánh tầm (Vitakkacarita) cộng với tánh trí (Ñāṇacarita). Anh ấy là một nhà thơ khá lớn, một thời là bạn của cố thi sĩ B.G. Nhà thơ của chúng ta sống lãng đãng phong trần, lang thang vô trụ xứ, ăn gì cũng được, ngủ đâu cũng được. 
 
Tiếng đàn ghi-ta của anh rất hay; và giọng ngâm thơ thì lạ lùng vô kể. Khi hứng lên, giọng ngâm của anh lê thê buốt giá, nó xúc động đến cả tầng sâu vô thức; nó mang nỗi buồn thiên cổ, nó chuyên chở cả hư vô và cả muôn tình cỏ cây hoa lá, trăng sao và cả cỏ rác bụi bặm nhân gian. Anh như một “hài nhi tóc bạc” sống giữa cuộc đời, rong chơi là chính, không toan tính, mặc cả, không mưu đồ lợi danh! Quả thật là tuyệt phải không?!

Vào khoảng năm 1979-1980, khi tôi đang ở chùa Huyền Không, Nham Biều, bên sông Bạch Yến, nhà thơ lãng đãng ghé chơi. Vốn quen biết nhau đã lâu nên tôi mời anh ở lại, tạm gác giang hồ, nghỉ ngơi tịnh dưỡng môt thời gian. Thuở ấy, chúng tôi lao động tay chân nương vườn để có cái ăn, thấy việc gì là anh cũng ra tay làm giúp. Chừng mươi hôm sau, anh xin tôi cho anh được cạo đầu xuất gia. Tôi nói:

- Anh tu thì tốt rồi, quý hoá rồi. Nhưng anh tu ở đâu thì được nhưng ở đây thì không được đâu.

Anh cười:

- Tui tu được mà!

- Tôi biết anh đọc rất nhiều kinh sách, sử truyện, nghiên cứu thiền, cả tu thiền nữa; nhưng “cái mệnh của anh là mệnh đi”, có ngồi yên một chỗ được đâu! Muốn tu thì phải làm giới tử, làm công quả, suốt vài ba năm không được đi đâu. Nó “bó chân” khó lắm đó!

Thấy anh cứ nằng nặc đòi tu cho bằng được, tôi bèn đưa ra một “thách thức”:

- Ở kia có cái phòng. Anh chỉ cần ở đấy, đọc kinh, đọc sách, hành thiền, ngủ nghỉ gì tuỳ ý. Cơm ăn hằng ngày có mấy chú mang giúp cho. Nếu anh ở yên đấy được một tuần, tôi sẽ làm lễ cho anh nhập chúng tu học ngay!

- Đồng ý! Sư hứa đó nhé!

- Vâng!

Thế rồi, nhà thơ của chúng ta thua cuộc. Mới ở được ba bốn hôm gì đó, thì anh đã hành lý tay nải bỏ đi lúc nào không ai hay biết. Tôi quen tính khí của anh nên biết anh đi đâu. Có thể anh thèm một vài hơi rượu cho khí nó bốc lên. Có thể anh thèm đám đông, thèm ca hát, thèm ngâm thơ trước một nhóm bạn nào đó, tăng hoặc tục, thi hữu hoặc văn hữu. 
 
Cũng có thể anh đang lang thang từ chùa này sang chùa khác, luận bàn triết lý, tư tưởng Đông Tây; hoặc nói về thơ, yếu tính của thơ, sự bất lực và trò chơi của ngôn ngữ, tính mệnh của ngôn ngữ! Đôi khi, anh kể về những tháng ngày ngủ đình, ngủ miếu, ngủ chợ, ngủ chùa, ngủ tại đại học Vạn Hạnh cùng BG. Mà ở đâu, anh cũng được quý thầy hay một số bạn bè nhà thơ yêu mến và đón tiếp.

Bẵng đi một thời gian, tôi nghe tin anh đã xuất gia với một phái thiền tông; và tôi cũng nghe thầy tu hành rất“kịch liệt”. Sở dĩ tôi nói vậy là vì, có vài ba lần gặp thầy ở Sài Gòn, và Huế. Lần thì thầy say sưa nói về pháp môn “biết vọng không theo”. Lần khác thì thầy nói, “cái biết” nó trật rồi! Tại sao vậy? “Cái biết!” Lúc nào cái biết cũng xuất hiện, khi ăn, khi ngủ, khi đại tiêu tiện, khi cử động chân tay, khi đi lui, đi tới. Mệt quá! Nó ù lì ở đó, trong óc! Dường như cái biết ấy nó làm chủ mình, mình nô lệ bởi nó, thoát ra không được! 
 
Thế rồi, lần khác nữa, thầy nói, tui bỏ rồi, tui bỏ cái biết ấy rồi, người tui giờ khoẻ re! Tuy nhiên, tôi biết, trước thầy cũng kẹt, mà sau, thầy cũng kẹt, khó trở về “Bình thường tâm thị đạo” của lão sư Nam Truyền, khó trở lại quê nhà “Thân, thọ, tâm pháp” như thực được! Sư huynh của tôi, thiền sư VM - cố gỡ giúp hai cái kẹt ấy nên có làm tặng thầy một bài kệ:

- Vô minh hà biệt minh,
Ly trần hựu đồng trần;
Bất tri vân hà đạo,
Vi thánh diệc vi nhân.

Rồi đặt luôn cho thầy một biệt danh, hy vọng là đúng “chân dung” như người: Minh Trần Đạo Nhân! Sau khi đọc lại bài kệ thơ trên cho tôi nghe, thầy nói: “Tui thấy rồi! Không đi đâu nữa, mà cũng không đến đâu nữa. Tất cả đều đại toàn ở đây và bây giờ!”

Tôi mừng cho thầy nhưng tự trong thâm tâm, tôi vẫn “cố chấp”, vẫn nghĩ: “Chưa đâu! thầy vẫn còn đi đấy! Lang thang vẫn là cái mệnh của thầy mà!” Sau này, gặp thầy vài ba lần nữa, mà cái câu của đức Phật, định nói, mà tôi vẫn quên chưa nói được với thầy: “Không bước tới, không dừng lại, Như Lai ra khỏi bộc lưu!”

Tính, mệnh của thầy là “dòng sông”, còn trôi, còn chảy; đúng như bài thơ “Chén trà nhớ những dòng sông” của thầy. Và thuở đó, tôi vẫn nhớ thầy, thương thầy nên có làm một bài thơ đáp lễ, có mây câu đầu:

- Thương anh đội mộng lên đàng
Để ta lặng lẽ trăng vàng non quê
Mải đi, bóng nhỏ không về
Kiếp như mây bạc còn mê dặm hồng
“Chén trà nhớ những dòng sông”
Chân cầu ở lại, thu phong lạnh lùng
Dẫu sương khói vẫn vô cùng
Dẫu quan cách vẫn tình chung một trời...

Đại khái là vậy. Sau này nhiều lần gặp thầy trong hình tướng đầu tròn, áo vuông. Thầy dịch kệ thiền của chư tổ thiền tông. Thầy viết những tập sách nhỏ. Và đi đâu đó, hội chúng nào đó, thầy dạy thiền cho người ta. Đệ tử của thầy nơi này và nơi khác đủ sức giúp thầy ăn cơm gạo lức muối mè. Nhưng lang thang vẫn là cái mệnh. Không ở đâu lâu được. Có lần thầy nói, sau này, sư cho tui một cái cốc, chắc tui về đây ở thôi. “Đáo đắc hoàn lai vô biệt sự mà!” Rồi thầy cười ha ha! Tuy nhiên, tôi cũng biết, đó chỉ là “cái hẹn của mây gió phiêu bồng” mải rong chơi thiên nhai hải giác! Sau này thầy mất tại Hà Nội - thì cũng đang trên đường!

Trở lại vấn đề tâm tánh. Nếu thuần là tánh tầm thì xấu. Tánh tầm là tâm luôn lao xao phóng dật, luôn tìm kiếm từ đối tượng này sang đối tượng khác không ngừng nghỉ. Đêm nằm, tâm trí cũng cứ chạy nhảy không yên. Tâm viên, ý mã đích thực là cái tánh tầm này, đồng thời nó hay ức đoán, phê phán, đánh giá nọ kia. Thường không nỗ lực một hướng đi trọn vẹn, một mục đích trọn vẹn; không có việc gì chu đáo, trọn vẹn. Dễ hoà mình với đám đông, thân thiện với đám đông, đôi khi không có đám đông thì buồn, không chịu được.

Tuy nhiên, “nhà thơ và vị tỳ-kheo” của chúng ta, tánh tầm này có cộng với tánh trí  nên dù lao xao, không ở yên, luôn tìm kiếm, luôn ra đi nhưng vẫn nằm trong quỹ đạo hướng thiện, chơn chánh. Và giải thoát của thầy là không có chân trời nào cả, một cõi nào cả; và ngay chính thế gian bụi bặm ngũ trược này nó vẫn là “ly trần hựu đồng trần!” kia mà!

Đấy là giải mã của tôi, có lẽ là không lệch lạc bao nhiêu về “chân dung” một người đã ra đi, mà hồn sương, hồn khói, hồn thơ, hồn thiền còn dập dờn, lãng tử phiêu bồng ở đâu đó nơi những chân cầu, nơi những dòng sông, nơi những quán trọ... cùng tinh hà nhật nguyệt... Mà vấn đề “Tử sinh đại sự” đã giải quyết xong chưa thì tôi vẫn không dám trả lời, sợ tụt lưỡi, vì người mê nói giác thì cái giác ấy cũng là mê vậy!

(Tôi sẽ còn hầu chuyện với mọi người về nhân vật khác, tâm tánh khác)

Minh Đức Triều Tâm Ảnh
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/09/2020(Xem: 7030)
Thiền sư Minh Am Vinh Tây (明菴榮西), (1141-1215), Đạo hiệu Minh Am (道號明庵), Phòng hiệu Diệp Thượng Phòng (房號葉上房), Vị giai Quyền Tăng Chính (位階權僧正), Phong hiệu đại Hòa thượng Pháp Ấn (封號法印大和尚), Tôn xưng Thiền sư Vinh Tây (尊稱榮西禪師), Thụy hiện Quốc sư Thiên Quang (諡號千光國師), Trú tích tại Thánh Phúc Tự, Kiến Nhân Tự, khai sơn Kiến Nhân Tự, vị cao Tăng Phật giáo thời đại Liêm Thương tại Nhật Bản (1185-1333), Ngài được tôn vinh đệ nhất Tổ trồng Trà hay thủy Tổ Trà đạo, Thủy Tổ Thiền phái Lâm Tế tại Nhật Bản (是日本臨濟宗的初祖), là người có công truyền thừa dòng Thiền phái Lâm Tế vào Nhật Bản. Ngài kết hợp giáo lý đạo Phật với văn hóa bản địa Nhật Bản; Ngài củng cố mối quan hệ Trung-Nhật.
06/09/2020(Xem: 8532)
Trì danh “Quán Thế Âm Bồ-tát” (Nếu tâm hồn biết thầm lặng tự kết bạn với các nhà hiền triết tâm linh, thì điều mầu nhiệm sẽ xảy ra, là tâm hồn giảm bớt rất nhiều khổ đau-xấu ác-mê lầm) Trì danh Ngài Quán Thế Âm Trí-bi hội nhập Chân Tâm đất trời Vơi bao nghiệp chướng cõi đời Ngày về Tịnh độ tiếp lời Tâm kinh… Niệm thầm theo hơi thở thiền Tháng ngày an lạc như hiền triết xưa Trăng tâm lặng lẽ bốn mùa Hương trà thấp thoáng Chân Như vĩnh hằng.
05/09/2020(Xem: 6077)
Trước, lúc mà Cạp mỗ ngẫu hứng chĩa một ngón tay vào ngoáy rốn pho tượng ngài Bố Đại Hòa Thượng (được cho là hóa thân của đức Di Lặc Tôn Phật) ở một ngôi chùa miền quê thanh vắng, để cho người bạn chụp ảnh lưu niệm, xem lại ngay trên máy, liền bật cười và quất ngay mấy câu lục bát: Ta cười suốt tháng quanh năm Cười ba vạn kiếp số hằng hà sa Cù léc rốn, xức cù là? Dụng công chi rứa bởi ta vốn cười!
04/09/2020(Xem: 6777)
' Cha là Phật giữa đường trần Mẹ là Phật giữa vạn lần ngược xuôi.. Đêm đêm thắp ngọn đèn trời Cầu cho Cha Mẹ sống đời với con..''
04/09/2020(Xem: 6951)
Nam-mô Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni Phật! Kính bạch Chư Tôn Đức Tăng Ni! Kính thưa quý vị Phật tử! Nhân mùa Vu-lan năm 2020, con xin đảnh lễ, kính chúc chư Tôn đức Tăng Ni thêm một tuổi đạo, thành công hơn nữa trong các Phật sự, nhằm mang lại lợi ích và phúc lạc cho nhân sinh. Con kính chúc các bậc làm cha mẹ thêm một tuổi đời, làm nền tảng đạo đức và hạnh phúc cho con cháu trong gia đình và họ tộc. Con kính chúc tất cả các anh chị, các cháu thanh thiếu niên, đề cao đạo lý hiếu kính cha mẹ ông bà, thể hiện tinh thần tự lập, xa lánh các thói hư tật xấu, các thói quen nghiện ngập, hưởng thụ ăn chơi, để sống một cuộc đời hữu ích, và làm cho cha mẹ được hạnh phúc hiện tiền. Nhờ đó, có một tương lai tươi sáng.
04/09/2020(Xem: 8663)
Mật hạnh là pháp môn bất nhị tăng thêm phẩm hạnh, viên mãn đạo đức. Ví như ba ngàn oai nghi, tám vạn tế hạnh của Đức Phật; mỗi ngày cầm bình bát khất thực, rửa chân ngồi thiền, hành hóa thuyết pháp, khiến chúng sinh nhập Phật tri kiến, chính là mật hạnh; lại ví như La-hầu-la (Rāhula) sám hối sửa lỗi, giữ vững thanh tịnh giới hạnh, trở thành đệ nhất mật hạnh trong đệ tử Phật; Đại Ca-diếp trú ở xứ Lan-nhã, tịch tịnh thiểu dục, trên hội Linh Sơn1 diệu khế chân như pháp tính, cũng là mật hạnh; Tu-bồ-đề (Subhūti) quán không nghênh Phật, cũng là mật hạnh. Những việc làm nghĩa tình của người xưa như chia cháo cứu đói, xây cầu làm đường, đào giếng lấy nước, thắp đèn dâng trà, bố thí quan tài cho người chết, cứu trợ giúp đỡ, đều là mật hạnh gieo trồng phước đức. Gọi là “lân nga bất điểm đăng, vi thử thường lưu phạn” (vì thương những con thiêu thân không đốt đèn vào ban đêm, vì sợ chuột không có thức ăn thường để lại một ít thức ăn), tức là khắc họa (miêu tả) tốt nhất về lòng từ bi rộng khắ
02/09/2020(Xem: 6659)
Á hậu Trương Thị May lễ chùa, phóng sinh mùa Vu lan Chị em Á hậu Trương Thị May cùng mẹ và bà ngoại mặc đồ lam, áo dài đi lễ chùa, phóng sinh dịp Vu Lan.
02/09/2020(Xem: 7218)
Tổng bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước Tập Cận Bình đã phát ngôn kiên quyết kêu gọi về việc “Hán hóa” (Sinicization,漢化) Phật giáo Tây Tạng. Ảnh: hindustantimes.com Theo truyền thông quốc gia Trung Hoa đưa tin hôm thứ Bảy, ngày 29 tháng 8 vừa qua, Ngài Chủ tịch Tập Cận Bình đã phát ngôn kiên quyết kêu gọi về việc “Hán hóa” (Sinicization,漢化) Phật giáo Tây Tạng tại Tây Tạng.
30/08/2020(Xem: 7587)
Tựa bài không có gì mời gọi người đọc, nên có lẽ, chỉ vị nào đang rảnh rang lắm mới thử lướt xuống xem, viết cái gì vậy? Hay chỉ là thực đơn của tiệm bánh nào bay lạc vào? Xin nghiêm túc thưa, đây là lời mở đầu một lần giảng pháp của giảng sư, trong một mùa An Cư Kiết Hạ tại Nam Cali.
30/08/2020(Xem: 7972)
Ngày xưa, sau khi Đức Phật chứng Đạo, tại sao Ngài không mở trường Thiền để có thể dạy hàng ngàn, hàng vạn người cùng một lúc? Ngược lại, Ngài chỉ vân du từ nơi này sang nơi khác, tùy căn cơ khai thị cho những người hữu duyên Ngài gặp trên đường? Đơn giản vì trình độ, hoàn cảnh và cơ địa mỗi người một khác, nên đức Phật ngay nơi mỗi người khai thị pháp mà người đó đang trải nghiệm, và vì vậy chỉ người đó mới thật sự biết đức Phật đang chỉ dạy điều gì, người khác có nghe hay đọc lại kinh điển tường thuật thì cũng chỉ để tham khảo hay suy luận mà thôi.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]