Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tư lương về Tịnh Độ

24/12/201404:25(Xem: 6991)
Tư lương về Tịnh Độ

duong ve tinh do-4

Vị khách Tăng được mời đến đạo tràng Thọ Bát Quan Trai của chùa Linh Thứu trong khóa tu mùa đông năm nay, không ai xa lạ, đấy là Thầy An Chí đến từ xứ Na Uy nơi biệt danh là xứ lạnh tình nồng, lạnh đến nỗi chỉ ăn kem ngoài trời mới cảm thấy ấm áp mà thôi.

Đây là lần thứ tư hay năm gì đó Thầy đến truyền giới (vì hình ảnh lưu trữ trong trang web của chùa Linh Thứu bị dán đoạn ở năm 2008, nên tôi chỉ đếm được từ năm 2007 đến 2011 có bốn lần), hóa ra Thầy là vị khách Tăng thuộc diện “đến hẹn lại lên“, cứ trời sắp lạnh cóng hay đổ tuyết là các giới tử đã lo sửa soạn hành trang túi ngủ thật dày lên chùa Thọ Giới. Lần này số giới tử tham dự vượt chỉ tiêu trên 70 vị ngồi chật cả Chánh Điện, đặc biệt là các em bé nam nữ rất dễ thương trong chiếc áo tràng, cười nhe cả hàm răng sún.

Phần tôi chắc tích lũy được nhiều phước đức từ bao đời trước, nên lần Thọ Bát nào do Thầy hướng dẫn cũng có mặt tôi. Mặc dù lần này tôi đã vượt qua hai chướng ngại là cảm cúm trước một tuần và từ chối buổi tiệc liên hoan tất niên với các bạn bè cũ. Nếu phải lựa chọn cuộc vui ngoài đời ta nên chọn sự tu tập. Ôi, bài bản này sao Thầy nào cũng cho vào điệp khúc!

Trước khi đi vào đề tài chính “Tư lương mang theo về Tịnh Độ“ một bài Pháp sôi nổi, xen lẫn những chất liệu ma quái vô hình làm nổi da gà những giới tử vẫn còn nhận ma làm bạn cỡ… như tôi. Xin được sơ qua vài dòng về “thân thế và sự nghiệp“ của thầy An Chí. Thầy xuất thân từ vùng đất của anh hùng áo vải Nguyễn Huệ và môn võ Bình Định lừng danh, nhưng do nghiệp duyên lành dẫn dắt Thầy đi thẳng vào cửa Không lúc còn trẻ, không ngang dọc chốn giang hồ nên người ít lấm bụi trần. Sự nghiệp của Thầy bắt đầu từ lúc sang định cư cùng sư phụ tại Na Uy. Vị sư phụ của Thầy là một Cao Tăng thuộc hàng Pháp Sư - hàng tà ma trừ yêu quái, chuyên niệm Thần Chú và bắt ấn trừ tà. Tôi đã được tham dự nhiều buổi chuẩn tế trên thuyền vớt vong của sư phụ Thầy ở Oslo (1999) và ở Chùa Hannover (2000), nên rất tin vào những lời giảng mang nhiều tính chất huyền bí trong thế giới tâm linh.

Thầy An Chí đang theo bước chân của sư phụ mình để hóa độ những hương linh được ký tự tại Chùa hay những vong hồn uổng tử vất vưởng mọi nơi, mau chóng được vãng sanh. Thôi, tôi phải đi ngay vào bài Pháp nói về cái nhìn trung thực của pháp môn Tịnh Độ mà Thầy muốn gửi gấm cho các giới tử của chùa Linh Thứu, nổi tiếng siêng năng niệm hồng danh A Di Đà Phật. Độ người sống cho họ tu hành tinh tấn, đi đúng đường niệm Phật thù thắng để tiến thẳng về Tây Phương.

duong ve tinh do

Bài giảng của Thầy tất cả đều dựa theo giáo pháp của Đức Phật, tôi chỉ là người sao chép lại tuy chưa dám dùng câu Như thị ngã văn, nhưng cũng cố gắng trình bày thật đơn giản và thâu gọn ý chính cho các bạn cùng theo.

Theo Thầy, Tịnh Độ không có xu hướng cá nhân. Nếu ta chán ghét thế gian này, quay lưng vào nó rồi chỉ chuyên tâm Niệm Hồng Danh A Di Đà Phật thì theo kinh điển, Phật cũng sẽ rước thôi, nhưng chúng ta đã đánh mất Bồ Đề Tâm.

Khi chưa phát Bồ Đề Tâm, chưa tin nhân quả, chưa học hạnh Bố Thí, chưa tụng kinh Đại Thừa là chúng ta chưa đủ tư lương để đem theo về Tịnh Độ, vật chất không có trí tuệ cũng không, lấy gì cho ai hay độ được ai?

Để các giới tử khỏi hoang mang, Thầy đem câu chuyện Đức Phật giới thiệu cảnh giới Tây Phương cực lạc cho bà Hoàng hậu Vi Đề Hi nương theo để thoát khổ, thoát cảnh trần ai khi nhìn thấy đứa con yêu ngỗ nghịch, vua A Xà Thế giết cha để đoạt ngôi báu. Đức Phật khuyên bà Vi Đề Hy phải hiếu dưỡng cha mẹ, kính thờ Sư trưởng, bố thí phát bồ đề tâm và tin sâu nhân quả. Như thế mới đầy đủ tư lương để đem theo về Tịnh Độ.

Thầy đưa ra một thí dụ điển hình có thật tại Na Uy, năm ngoái có một Phật tử đến tận Chùa nhờ sư phụ Thầy chữa bệnh. Bà ta mắc một căn bệnh kỳ quái không một bác sĩ nào biết được, đó là phát tâm ma chỉ nghĩ lời phỉ báng chính vị Phật bà ta cầu vãng sanh niệm hồng danh ngài một ngày 7 tiếng. Những câu chửi kém tao nhã luôn phát ra trong đầu khiến bà ta muôn vàn đau đớn. Hỏi ra mới biết bà ta không đi Chùa, không làm một tí công đức nào, chỉ nghe băng giảng của Pháp sư Tịnh Không, nắm chặt câu Niệm Phật nằm lòng, bỏ mặc sự đời đằng sau lưng mà ra công niệm gấp ngày đêm. Để rồi kết quả lại đưa đến tình trạng bi đát như thế. Trường hợp hy hữu này không biết có được dùng 4 chữ tẩu hỏa nhập ma hay không?

Đoán được ý nghĩ các giới tử, Thầy giảng ngay về những đạo tràng Huân tu tịnh độ trong đó mọi người cùng nhau niệm Phật từ sáng đến tối ròng rã suốt 7 ngày, có bị phản ứng phụ hay không? Chắc chắn là không, vì đạo tràng đã được thần lực của Chư Phật che chở. Thầy An Chí cũng đánh tan những tư tưởng sai lầm của một thiểu số người, chỉ cho pháp môn Niệm Phật của mình là tối thượng thừa, nâng đỡ một Pháp để chà đạp các Pháp khác việc làm ấy nguy hiểm vô cùng. Cũng như ngày xưa xuất hiện loại Thiền cực đoan có một thời làm mưa làm gió, rồi đổi sang Tịnh Độ với trăm hoa đua nở, nhưng vạn Pháp đều quy về một Pháp.

Trong 24 giờ thọ giới, chúng tôi được nghe đến 3 thời Pháp, nghe một cách say sưa hay nghe như một thùng nước lạnh dội khắp cả toàn thân, đấy là tùy theo căn cơ của từng người. Các bạn ạ! Đến đoạn Thầy giảng về hạnh Bố Thí, về những việc làm từ thiện của các Bồ Tát sơ địa “tơ lơ mơ“ như chúng ta từ trước đến nay, nếu không có chứa Bồ Đề Tâm trong việc làm ấy thì cũng chỉ thu được chút ít phước đức hữu lậu mà thôi. Phước hữu lậu cũng nguy hiểm, có nguy cơ bị đọa trong đời thứ 3, vì đời thứ 2 sẽ hưởng phước giàu sang quyền quí cho đến khi cạn vốn. Nếu bố thí có trí tuệ sẽ phát sinh phước vô lậu đưa đến bờ giải thoát.

Tôi ngồi xếp bằng bên dưới chăm chú nghe, nhưng người xem như cứng đơ thấy lạnh cả toàn thân. Không biết bao năm nay mình đã bỏ nhiều công sức, tiền của để làm từ thiện, nào là chương trình xe lăn, cứu lụt, đào giếng xây cầu… hễ chỗ nào kêu cứu là mình sẵn sàng móc túi. Cứ tưởng làm thế là công đức là niềm vui, nhưng bây giờ hiểu rồi. Cứ vẫn tiếp tục làm nhưng phải trộn thêm một ít bồ đề tâm, tặng cho người nhận một câu niệm Phật để họ tự giải nghiệp mà vãng sanh.

Trong đề tài giảng về Bồ Đề Tâm, Thầy đem ngay thí dụ điển hình ngôi chánh điện mới của chùa Linh Thứu và Ni Sư trụ trì cùng các Sư Cô trong chùa. Đứng về phương diện tu học Phật Pháp thì Ni Sư không cần phải xây chùa lớn, muốn được giải thoát và vãng sanh chỉ lo nhập thất chuyên tu cho riêng mình. Nhưng đây Ni Sư phát Bồ Đề Tâm muốn độ nhiều chúng sanh, tạo điều kiện cho họ tu tập, cũng có chúng sanh sẽ thành Phật trước cả Ni Sư nhưng người cam tâm ở lại khách trọ Ta Bà, chịu đựng thêm phiền não và bệnh tật để duy trì ngôi Tam Bảo. Phần các Sư Cô trong chùa cũng chẳng khá gì hơn, thấy các công việc họ phải làm hằng ngày, Thầy cũng lắc đầu ngao ngán cho đường tu của các Sư Cô. Nhưng vì 3 chữ Bồ Đề Tâm tất cả đều được!

Nghe đến đây tôi cũng rơm rớm nước mắt, hứa với lòng sẽ nỗ lực làm công quả thêm nhiều nữa. Không còn nhiều thời gian để ngồi chuyện phiếm phân tích lý giải đúng sai. Ngôi chánh điện của chùa Linh Thứu nhất định phải hoàn thành trong thời gian gần nhất. Tôi tin là thế!

Bước sang đến đề tài Thọ Giới và Giữ Giới. Phải có phước lắm ta mới giữ được Giới, giả như lỡ sinh vào gia đình của Diệu Thủ thư sinh nghĩa là có bàn tay nối dài ăn trộm ba đời thì sẽ vì miếng cơm manh áo mà phạm giới. Hay thông thường hơn là làm con của Cô Tư bán cháo gà thì khó lòng giữ được Giới không sát sanh. Nhìn đi rồi nhìn lại, hơn 70 giới tử ngồi Thọ Giới và Giữ Giới trong chánh điện của chùa Linh Thứu hôm nay có quá nhiều phước đức. Họ vừa được tụng kinh, vừa được Niệm Phật đi kinh hành, rồi nghe Pháp Phật và tập phong cách Tứ oai nghiêm, đi đứng nằm ngồi thật đoan trang. Ai bảo thế giới Ta Bà này đáng ghét, nơi nào còn có Phật Pháp là còn có chỗ để nương theo.

Ở đoạn đầu tôi có nhát ma các bạn, có nhiều người rất sợ ma nhưng lại rất thích nghe kể chuyện ma. Vậy các bạn hãy nghe thầy An Chí kể về những con ma Thầy vớt được trong những đàn tràng chuẩn tế. Ở Oslo có một em bé 14 tuổi người Na Uy, có khả năng tiếp cận được với người cõi âm. Em tìm đến chùa Khuông Việt và làm công việc truyền thông với các oan hồn uổng tử không rõ họ tên. Chính các oan hồn nhờ Em cầm hộ bài vị với pháp danh thầy An Chí đặt cho. Thầy bảo, trong những lúc mình ngồi thọ bát hay tụng kinh niệm Phật, các hương linh được ký tự trong Chùa cũng ra ngồi cạnh để tu theo. Coi chừng đấy! Nếu ta ngồi nghiêng ngả hay ngủ gật là biết bao con mắt cả âm lẫn dương đều phiền lòng.

Ngày xưa còn bé tôi rất sợ ma, sợ đến nỗi ban đêm không dám thò chân xuống giường để đến nỗi mang bệnh Dấm Đài. Nhưng từ khi biết Phật Pháp tôi không còn sợ ma nữa, vì nơi đâu có Phật là ma phải lui ngay. Bây giờ giữa ma và người, tôi sợ người hơn ma.

Trước khi kết thúc bài viết, tôi xin được kể sơ qua vài dòng về những chuyện sau bức màn lam (màu áo tràng). Thật ra tôi không có ý định viết bài sau mỗi khóa tu, năm nào chùa cũng tổ chức bao nhiêu là khóa tu, các bạn biết đấy!

Thế nhưng định mệnh đã an bài, lúc tôi đến chào thầy An Chí, định chúc Thầy thượng lộ bình an và hẹn năm sau cũng vào giờ này nếu còn sống sẽ đến chùa Thọ Bát. Vì nghe đâu cuối năm 2012 sẽ tận thế theo lịch của người Maya. Thầy nhìn tôi cười cười, hỏi xã giao:

-        Sao dạo này cô Hoa Lan có cho ra tác phẩm gì mới không?

Tôi giật mình nói đại cho đỡ quê:

-        Dạ có tuyển tập tựa đề “Email cho Phật A Di Đà“, nhưng chưa thể tặng Thầy được, vì thiếu bài viết về khóa tu này.

Thầy cười thật tươi, sốt sắng đặt luôn tựa đề cho bài viết là Tư lương đem theo về Tịnh Độ, tôi sợ tốn mực và chỗ của tờ báo Viên Giác nên cắt bớt hai chữ, có thể làm tựa đề không được rõ nghĩa lắm, mong các bạn thông cảm.

Chúc các bạn một ngày vui.

 

Hoa Lan.

Mùa đông 2011.

 

 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/07/2011(Xem: 6385)
Khuyến Phát Bồ Đề Tâm Văn của Đại Sư Thật Hiền, Thật Hiền tôi là kẻ phàm phu Tăng bất tiếu ngu hèn, khóc ra lệ máu cúi đầu kính lạy, đau buồn khẩn thiết thưa với chư đại chúng hiện tiền, cùng với chư thiện nam tín nữ có đức tin trong sạch trong hiện đời. Cúi mong quý vị thương xót, lưu ý một chút mà nghe và xét cho.
27/07/2011(Xem: 5429)
Hỏi: Tại sao đạo Phật lại đề xướng ăn chay? Đáp:Người ăn chay thì dục niệm nhẹ. Kẻ ăn mặn thì dục niệm nặng nề. Có tôn giáo cho rằng động vật được sanh ra là để cho loài người ăn, cho nên ăn mặn là một việc hợp lý trời đất. Song le, Phật Giáo đề xướng tinh thần "mọi vật đều cùng một thể, đó gọi là Đại Bi," và xem mọi loài chúng sanh đều có Phật-tánh, đều sẽ thành Phật; cho nên chủ trương giới sát, phóng sanh.
27/07/2011(Xem: 5664)
Mỗi người đều có nhân quả báo ứng của riêng mình. Hễ tạo nghiệp gì thì chịu quả báo đó. Không những chỉ có loài người là phải chịu quả báo mà tất cả chúng sanh cũng vậy; tạo nghiệp từ xưa, ngày nay gặt quả. Điều đó không dễ hiểu đâu. Ví như bị đọa làm súc sinh hoặc ở nơi ác đạo thì rất khó khôi phục lại thân người; nên nói rằng:
26/07/2011(Xem: 5425)
Quyển “MỚI VÀO CỔNG CHÙA” ra đời trước, chúng tôi hướng dẫn độc giả vừa mới làm quen với mùi tương dưa, còn ngỡ ngàng khi bước chân vào cổng chùa. Đến quyển “VÀO CỔNG CHÙA”, chúng tôi nhắm đến những độc giả đã quen thuộc với những chiếc mái vốn cong, từng nghe tiếng mộc ngư nhịp đều buổi tối và tiếng chày kình ngân nga buổi khuya. Tuy nhiên vẫn còn là khách thấy nghe thân cận nhà chùa, chưa phải là người sống trong chùa.
24/07/2011(Xem: 6322)
Ngày nay, việc tổ chức đám cưới tại chùa có lẽ không mấy ai còn cho là lạ, nhưng đây là điều đã được mong muốn từ nửa thế kỷ trước, mà Ni trưởng trụ trì chùa Phước Hải hiện nay – ngày đó là sư cô Tịnh Nguyện, là một trong những vị tu sĩ mở đầu cho truyền thống tốt đẹp này. Một số người vẫn hình dung nhà thờ là nơi để tổ chức đám cưới với tiếng đàn Organ sang trọng, âm vang dưới mái vòm trang nghiêm phủ xuống cô dâu chú rể. Còn nhà chùa chỉ là nơi tổ chức đám tang, với những “vãng sanh đường” leo lét ánh nến, nhang khói mờ mờ, âm âm tiếng mõ trầm buồn.
22/07/2011(Xem: 4686)
Bạn bè là sự thể hiện sinh động cho mối quan hệ đặc thù giữa người với người. Mối quan hệ đó được thiết lập căn bản trên sự đồng đẳng hoặc bất đồng đẳng về giới tính, tuổi tác, chí nguyện, đam mê, sở thích,… là tiêu chí quan trọng để khẳng định nhân cách hoặc quan điểm sống của một con người. Với Phật giáo, sống là sống với. Do đó, bạn bè là một thuộc tính riêng có của các loài chúng sanh nói chung và của con người nói riêng, và là một trong những nhân tố quan trọng, có thể ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực lên bối cảnh sống cũng như khả năng thăng hoa tâm linh của một con người. Sống phải có bạn bè. Không có bạn bè, được xem là một trong năm điều bất hạnh đã được Đức Phật cảnh báo(1).
22/07/2011(Xem: 5266)
Bên cạnh sự ảnh hưởng trực tiếp của gia đình, trong cuộc sống chúng ta, mối tương giao với bạn bè cũng đóng vai trò rất quan trọng cho sự thành bại của mình. Trong mối quen biết ngoài xã hội, hay trong đoàn thể cùng sống chung, ta có nhiều loại bạn hữu; nhưng tìm được người bạn tốt, chân thật hiểu được ta, để có thể chia sẻ tâm tư là điều khó, huống chi là hỗ trợ ta vượt qua những khó khăn trong đời sống thì càng khó gấp bội phần.
22/07/2011(Xem: 4821)
Suốt ngàn năm bị nội thuộc Trung Quốc dân tộc Việt không ngừng nỗi dậy đấu tranh giành lại quyền độc lập, tự chủ. Năm 968 (Mậu Thân) Đinh Bộ Lĩnh dẹp yên nạn cát cứ 12 sứ quân, thống nhất non sông xưng là Đại Thắng Minh hoàng đế. Nhà Đinh đóng đô ở Hoa Lư (Ninh Bình), lập nên triều đại quân chủ đầu tiên của nước Đại Việt.
22/07/2011(Xem: 5121)
Có những biện giải Phật học mà đôi khi ý nghĩa thực tiển vượt thoát khỏi cái võ ngôn từ. Đó là khi hiện thực nương gá vào sự biện giải đó bị biến dạng theo lịch sử, thời gian. Gần gũi hơn, có những phạm trù, khái niệm mà khi vận dụng, ta vô tình quên mất nghĩa gốc ban đầu của chúng. Vấn dề Phật sự là một trường hợp như vậy.
16/07/2011(Xem: 5863)
Lúc này chúng ta hãy quan sát điều gì đang thực sự xảy ra trong thế giới; có bạo lực thuộc mọi loại; không chỉ phía bên ngoài mà còn cả trong sự liên hệ lẫn nhau của chúng ta.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567