Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bài học từ sinh hoạt hằng ngày của Đức Đạt Lai Lạt Ma

18/11/201420:17(Xem: 8685)
Bài học từ sinh hoạt hằng ngày của Đức Đạt Lai Lạt Ma
 
Bai Hoc Hang Ngay

Bài học từ sinh hoạt hằng ngày
của Đức Đạt Lai Lạt Ma


Victor Chan
Hằng Như dịch




VICTOR CHAN, người viết chung với ngài Dalai Lama cuốn “The Wisdom of Forgiveness” (Trí tuệ của sự tha thứ), có được cơ hội quý báu trải qua một khoảng thời gian riêng cùng ngài Đạt Lai Lạt Ma. Dưới đây là lá thư ông viết cho các con của mình và kể lại những gì ông học được trong buổi sáng đặc biệt ấy.


Lina và Kira yêu quý,

Bây giờ, các con đã 16 và 19 tuổi rồi, bắt đầu hoạch định cho cuộc sống của chính mình. Thời gian qua là chuỗi ngày dường như vô tận, chúng ta chỉ mải mê ngồi đó và tán gẫu suốt ngày. 
 
Cha tiếc thời gian chúng ta hoang phí rong ruỗi ngoài bãi biển và những chuyến đi chơi dài ngày trong lần đi cắm trại ở Westfalia của gia đình mình trong khi các con chỉ ngoan ngoãn làm theo những gì cha bảo.

Một câu chuyện cha muốn chia sẻ với các con là về buổi sáng cha có dịp sống với ngài Đạt Lai Lạt Ma. Đây là một sự trải nghiệm có ý nghĩa sâu sắc của đời cha. Mấy tiếng đồng hồ cùng ngài đã cho cha hiểu rõ cách ngài sử dụng thời gian cho riêng mình đằng sau ánh hào quang của ngài. Ngài hầu như không nói gì nhiều với cha trong buổi sáng hôm ấy, nhưng những gì ngài làm đã nói thay ngài rất nhiều và có liên quan đến tất cả chúng ta. Do đó, cha quyết định viết thư này chia sẻ với các con.
Thời điểm ấy, khi đang viết bản thảo cho cuốn The Wisdom of Forgiveness (Trí tuệ của sự tha thứ), cuốn sách cha viết chung với ngài Đạt Lai Lạt Ma, ngài mời cha đến cùng ngài trải qua một buổi sáng tại tịnh thất của ngài ở Dharamsala, Ấn Độ. Cha đã từng cùng ngài đi qua bốn châu lục và nhiều lần thực hiện phỏng vấn cùng ngài, nhưng cha chưa bao giờ có được cơ hội vào nơi tịnh thất của riêng ngài. Chỉ một lần thôi, cha không ngại thức dậy vào lúc nửa đêm, với cha, có thể nói như vậy, lúc nửa đêm các con ạ.
Lúc 3:45 sáng, cha đang ngồi trên một tấm thảm nhỏ đặt trên nền nhà ở trong phòng hành thiền của ngài Đạt Lai Lạt Ma. Không gian nơi đây thật yên tĩnh và kỳ diệu, trang nhã, nhẹ nhàng. Trong phòng, có bài trí một chiếc bàn, một góc dành để ngồi thiền và một khu vực nhỏ để ngồi và dùng bữa. Có nhiều chiếc kệ trưng bày các loại pháp khí bằng đồng đủ các kích cỡ lớn nhỏ và nhiều giá sách đựng các tập kinh viết bằng chữ Tây Tạng. Những tấm rèm dày che cửa sổ buông dài từ trần nhà đến sàn và trong ánh sáng mờ mờ trước  lúc rạng đông, cha có thể thấy thấp thoáng ảnh hiện dãy núi Hy mã lạp sơn.
Vào thời điểm mà chỉ có những chú chó không chủ ở ngoài đường phố thức dậy, ngài Đạt Lai Lạt Ma đã bắt đầu một ngày của mình bằng việc lễ lạy. Từ tư thế đứng, ngài buông dài người ra sàn nhà, với chỉ một tấm đệm mỏng trải trên tấm ván đủ cho phần thân mình. Hai tay ngài đưa thẳng lên khỏi đầu, lòng bàn tay tựa vào miếng vải vuông, tạo nên một góc với các ngón tay đang chỉ thẳng lên trần nhà.
Rồi với một động tác điêu luyện, ngài trượt hai tay xuống dần đến đùi để lấy đà chống đỡ, gấp người về vị trí quỳ trên gót chân, rồi đứng thẳng lên. Ngài đặt lòng hai bàn tay lên đỉnh đầu, nhẹ nhàng đưa dần xuống ngực và trượt người nằm dài trên sàn trở lại. Thế rồi ngài tiếp tục quy trình như vậy nhiều lần.
Cha quên đếm một lát, nhưng cha ước chừng ngài lạy theo cách như vậy ít nhất là 30 lần.  Ngài Dalai Lama đã lạy như thế hầu như mỗi ngày trong suốt cuộc đời ngài, và nếu có ai đó đếm số lần ngài lạy, cha đoan chắc rằng, phải hơn một ngàn lần lặp đi lặp lại như thế trong suốt hơn bảy chục năm qua.
Sau khi lạy xong, ngài đến máy đi bộ (máy tập thể dục) đặt ở góc cửa sổ. Ngài treo xâu chuỗi niệm Phật trên một thanh nắm cạnh cái khăn choàng và bắt đầu bước nhanh trên thanh trượt của máy tập đang di chuyển. Hầu như ngay tức khắc, ngài nhắm mắt lại theo điệu nhạc phát ra từ máy và cứ thế, ngài thực hành thiền khi đang tập thể dục. Điệu nhạc dành cho thiền hành có tiết tấu nhanh hơn.
Sau khi tắm, ngài Đạt Lai Lạt Ma đưa cha đi vòng bên ngoài tịnh thất của ngài. Những rặng núi bao quanh vẫn còn chìm trong màn đêm, hầu như mặt trời chưa chạm tới. Những làn khói mỏng cuộn tròn bay lên từ những ống khói ẩn khuất đâu đó từ từ lan nhẹ trong làn sương lạnh. Xa xa dưới thung lũng Kangra, lác đác những tia sáng từ các phố thành Ấn Độ có thể nhìn thấy ẩn hiện từ xa. Còn quá sớm, chim vẫn chưa cất tiếng gọi đàn.
Ngài Đạt Lai Lạt Ma bắt đầu từ đằng xa, hòa mình vào không gian yên tĩnh, để tất cả các căn của ngài hòa quyện vào sự thanh tịnh đến huyền diệu của môi trường xung quanh. Ngài thật bình an trong hiện tại, không hề dao động mảy may với sự hiện diện của cha bên cạnh. Khi quan sát ngài, cha đứng đó trong tĩnh lặng, một tay nhẹ chạm vào rào chắn bằng kim loại sơn màu xanh, sự thanh thoát không bút mực nào có thể tả được đã chạm vào trái tim cha.
Trời lạnh nên ngài và cha không ở lâu bên ngoài tịnh thất. Ngay sau khi trở lại phòng, ngài lập tức ngồi thiền. Ngài ngồi trên tấm tọa cụ trải sau chiếc bàn, có một tấm pa-nô bẵng gỗ gụ nhũ vàng hình tròn đặt phía sau lưng ngài. Ngài gỡ đôi kính ra khỏi mắt, thần thái thanh thoát, hiện thân của sự sống viên mãn nhất, được thể hiện trọn vẹn nơi ngài. Có vết thâm quầng ở dưới mi mắt ngài và những nếp nhăn chạy dài từ hai má đến cằm. Khuôn mặt ngài thật bình thản, nghiêm trang và đầy trí tuệ.
Khi ngài Đạt Lai Lạt Ma hành thiền, ngài luôn rung lắc thân mình, nhịp nhàng như cái máy. Đôi mắt ngài khép hờ, nhưng cha có thể thấy thỉnh thoảng con ngươi ngài di chuyển nhẹ trong hố mắt. Có những lúc con ngươi đưa lên, cha có thể thấy tròng trắng trong mắt Ngài. Hai bàn tay ngài đặt trên đùi, các ngón tay ngài gõ theo một cách nhịp nhàng. Cha cảm thấy không thoải mái, có cảm giác như sự hiện diện của mình đã xâm phạm vào không gian vô cùng riêng tư này.
Một điều chắc chắn rằng ngài Dalai Lama đi vào một trạng thái sâu lắng và vô cùng đặc biệt. Sau đó, ngài có chia sẻ với cha rằng, khi hành thiền, tâm ngài không hoàn toàn tĩnh lặng theo cách nói của các thiền sư. Một cách năng động, tâm ngài định hướng những mong muốn, hoạch định ngài sẽ làm trong ngày, ngập tràn với ý niệm làm thế nào để tâm từ bi phát triển sâu rộng hơn. Ngài mong ước đem tâm từ trải đến mọi người và giúp họ vơi đi nỗi khổ bằng bất cứ cách nào ngài có thể. Sự phân tích hợp lý trong lúc này giúp ngài nuôi lớn trí tuệ để thấy rằng, bằng cách trải tâm từ đến người khác, bản thân ngài vẫn có được lợi ích là tâm trở nên an tịnh.
Sau 4 tiếng đồng hồ, đã đến lúc cha chào ngài ra về. Ngài nắm chặt tay cha và đưa cha đến một căn phòng nọ. Từ đây, ngài lấy ra một viên đá nhỏ màu xám có khắc một ngôi tu viện Ấn Độ được trang trí bởi cái tháp ở phía trên cùng của một cái bục có hai tầng. Bốn ngọn tháp nhỏ an trí ở bốn hướng. Ngài nói “Tháp ở Bồ-đề đạo tràng đây, riêng dành tặng anh”.  
Ngài đưa cha ra cửa thì  dường như có một ý tưởng lóe lên trong đầu ngài. Ngài hướng cha đến một cái thùng chứa đầy các vật thể đẹp. Ngài vui mừng reo lên “À đây!”. Ngài cẩn thận lấy ra và trao cho cha một mảnh gỗ gụ có khắc một ông già râu dài đến tận thắt lưng. Đó là biểu tượng cho sự hoàn hảo ở một vị thánh Trung Hoa.
Ngay lúc đó, Paljior la, thị giả của ngài Đạt Lai Lạt Ma, nhẹ nhàng bước vào phòng. Vị này dâng lên ngài Đạt Lai Lạt Ma một phong bì nhỏ màu đỏ để Ngài trao cho cha. “Một bao lì xì đỏ dành cho anh, theo phong tục của người Trung Hoa. Tạm biệt anh”. Ngài nói trong sự chân tình, ấm áp. Bên trong bao lì xì là một xấp tiền đô-la Mỹ. Cảm giác ngại ngùng lan tỏa khắp khuôn mặt cha. Cha cảm thấy xấu hổ. Quá bất ngờ khi ngài Đạt Lai Lạt Ma cho cha những món quà, kể cả những vật quý giá với lai lịch đặc biệt của chúng. Và biết rằng cha khá eo hẹp, ngài còn cho tiền nữa.
Khi cha bước ra khỏi phòng thiền, ngay giây phút ấy, cha chạm phải ánh nhìn vô cùng hoan hỷ của ngài Đạt Lai Lạt Ma. Khuôn mặt ngài rạng ngời. Dường như khi cho cha những món quà ấy, ngài rất hài lòng. Điều này thể hiện trên nét mặt rạng rỡ của ngài. Vài nếp nhăn dọc theo hai gò má ngài dường như căng ra, vầng trán như bớt nhăn đi và bọng nước dưới mi mắt ngài dường như bớt thâm quầng. Tất cả toát lên vẻ bình yên và an lành nơi ngài.
Lina và Kira, từ kinh nghiệm cá nhân của mình, các con đã biết ít nhiều về những lợi ích của sự cho đi. Gia đình chúng ta đã từng sống ở Ấn Độ một năm khi Lina lên 7 và Kira lên 9. Các con có lẽ còn nhớ thời gian vài tuần đầu, chúng ta khổ như thế nào. Các con đã phải khổ sở với sự khác biệt quá lớn về văn hóa khi phải đối đầu với đói nghèo và khổ sở bao vây. Các con cảm thấy thật khủng khiếp. Rồi các con biết được những học sinh đường phố ở Dharamsala và rất vui khi được chăm sóc các bạn.
Cha còn nhớ rất rõ hai con đã bò qua những rãnh nước hôi hám dơ dáy để mang thức ăn và nước uống cho các con vật nhỏ. Rồi khi chúng bắt đầu chết vì sự lan tràn của vi rút gây bệnh, các con lại dấn thân vào việc kêu gọi mọi người chung tay để mua thuốc phòng bệnh cứu chúng. Hành vi chăm sóc, đặt lợi ích của người khác lên trên bản thân mình đã khơi dậy và làm cho tinh thần các con phấn chấn đáng kể.
Như tôn giả Tịch Thiên (Shantideva), một vị Thánh người Ấn vào thế kỷ XIX và chủ trương học thuyết của vị này ảnh hưởng sâu sắc đến ngài Đạt Lai Lạt Ma, từng viết rằng: “Tất cả niềm vui mà thế gian này chứa đựng đến từ mong ước người khác có hạnh phúc”. Cũng như ngài Đạt Lai Lạt Ma thường nói rằng “Nếu bạn muốn người khác hạnh phúc, hãy thực hành tâm từ. Nếu bạn muốn bản thân mình hạnh phúc, hãy thực hành tâm từ”.
Sau khi rời chỗ ở của ngài Đạt Lai Lạt Ma, cha đến một quán cà phê trong khu chợ ở Dharamsala. Ngồi nhâm nhi ly cà phê sữa ngon lạ, cha hồi tưởng lại những gì mình vừa trải nghiệm trong mấy tiếng đồng hồ qua. Cha thấy cuộc sống hằng ngày của ngài rất đơn giản, thậm chí bình thường. Ngài lạy, đi trên máy đi bộ, đi dạo vòng quanh tịnh thất, hành thiền và biếu quà cho cha. Không có việc nào ra ngoài quỹ đạo của cuộc sống bình thường cả, thật sự là như vậy. 
Khi nói với các con đây, cha vẫn còn cảm nhận được nguồn an lạc toát ra từ ngài. Cha đã từng gặp ngài, một người biết tự chăm sóc mình, cả về phương diện vật lý cũng như tinh thần. Cha biết công việc thường ngày trong mỗi buổi sáng của ngài cứ như thế, từ năm này sang năm khác, diễn ra một cách nhẹ nhàng. Nó diễn ra một cách có nguyên tắc, kiên trì và tự chủ, thức dậy lúc 3:30, thực hành tâm linh trong mấy tiếng đồng hồ trước khi bắt đầu những công việc đa đoan ở văn phòng. Ngài Đạt Lai Lạt Ma vẫn đều đặn thực hành như thế trong suốt mấy chục năm qua, ngay cả khi ngài đi xa với sự khác biệt múi giờ.
Ngài Đạt Lai Lạt Ma nhiều lần bảo cha rằng, ngài không thích tập thể dục. Thế nhưng, với cái đầu thiên về khoa học, không ngừng cập nhật những ưu điểm mới nhất trong lãnh vực sức khỏe, ngài hiểu rằng thể dục là quan trọng. Ngài ý thức rõ ràng về thời gian, sự tương đối và không phung phí nó. Khả năng của ngài là càng hoàn thiện sứ mạng giúp người càng tốt và tất cả đều phụ thuộc vào sức khỏe của ngài có cho phép hay không.
Cha cũng biết rằng ngài không phải là một học trò ngoan khi còn nhỏ. Ngài có tính khí thất thường và bốc đồng. Nguyên tắc tu viện (giới luật) như thiền định và học kinh điển không phải đến với ngài một cách tự nhiên. Trong một cuộc nói chuyện trước đây, với ánh mắt xen lẫn một chút tinh nghịch, ngài Đạt Lai Lạt Ma nói với cha rằng, “lúc khoảng lên 7 hay 8 tuổi, tôi không hề ham học. Chỉ thích chơi thôi. 
Thế nhưng có một điều: đầu óc tôi lúc đó vì còn nhỏ, nên sắc bén lắm, có thể học dễ dàng. Vì lẽ đó mà chủ quan sinh ra lười. Do vậy, mấy vị thầy dạy tôi luôn giữ cái roi bên mình, cái roi  màu vàng. Khi trông thấy cái roi màu vàng, cái roi thánh thiện dành cho cậu học trò thánh thiện Đạt Lai Lạt Ma, tôi học. Vì sợ mà học. Ngay cả khi đến tuổi có hiểu biết, khi tôi học, không có sự đau đớn thánh thiện nào”.
Mặc dù không mấy ham học khi còn nhỏ, ngài Đạt Lai Lạt Ma đã toàn tâm toàn ý thực hành mỗi buổi sáng. Với sự kiên trì và tự chủ, Ngài đã tập ngồi tĩnh lặng trong thời gian khá lâu. Dần dần, ngài có thể kiểm soát tốt hơn những bản năng sai lầm. Thiền định và học pháp trở thành quan trọng hơn việc chơi; không đáp ứng ngay những gì mình muốn thỏa mãn trở thành điều tất nhiên. Trong một thời gian dài, các nhà tâm lý học tập trung vào phương diện hiểu biết thuộc tri thức và xem đó là yếu tố quan trọng nhất để dự đoán sự thành công trong cuộc sống. 
Ngày nay, phần đông đều nhất trí rằng chỉ số trí tuệ IQ phần lớn tùy thuộc vào khả năng tự chủ. Những đứa trẻ thông minh nhất không thể luôn luôn y cứ thuần túy vào khả năng của não bộ. Sự thành công lâu dài phụ thuộc vào khả năng tự điều chỉnh, làm giảm đi những bản năng không tốt và tăng cường những gì tốt đẹp cho cuộc sống.
Kira, cha nghĩ con có thể liên hệ đến vấn đề này. Suốt ngày ở trường, con cứ lao đầu vào mớ bài tập, cắm cúi cho đến phút cuối. Điều này nói lên rằng, con có khả năng tự chủ tốt, không đáp ứng ngay những thỏa mãn mang tính bản năng. Cha nghĩ con cảm nhận được khi làm xong trách nhiệm đúng lúc, con đã hoàn thành công việc. Điều này dỡ đi gánh nặng từ đôi vai con và để con rảnh rang làm việc khác, những công việc có lẽ đem lại nhiều niềm vui hơn. Cha rất vui khi con có thể rèn cho mình có thói quen hữu ích này, một việc quan trọng trong đời sống của con.
Ngài Đạt Lai Lạt Ma thường giảng về tầm quan trọng của tự chủ. Ngài tin rằng tự chủ là yếu tố cần thiết trong sự thực hành tâm linh. Nó cho chúng ta phương tiện để thực hành và nuôi lớn những đặc tính cần thiết quyết định cho cuộc sống. Nó cho phép chúng ta thẩm vấn những hành vi của mình và mở đường cho sự sửa đổi ngày càng tốt hơn. Nó ví cái tâm chưa được thuần hóa của chúng ta với con voi nổi loạn chưa được huấn luyện. Nếu có thể dần thuần hóa được nội tâm, chúng ta sẽ có cơ hội nuôi dưỡng tâm từ, nền tảng của hạnh phúc thuần chân một cách dễ dàng hơn.
Rõ ràng rằng đối với ngài Đạt Lai Lạt Ma, thiền định rất quan trọng. Ngài dành một khoảng thời gian lớn trong ngày cho việc hành thiền, và cha đã từng chứng kiến ngài được nạp thêm nguồn năng lượng sau thời khóa buổi sáng. Câu nói của ngài Dalai Lama được trích dẫn nhiều trong thời gian gần đây là “Nếu mọi đứa bé lên tám được dạy thiền, chúng ta sẽ chấm dứt bạo lực trên thế giới chỉ trong một thế hệ mà thôi”.
Càng ngày càng có nhiều người thực hành thiền. Nhưng điều cha lo ngại là mặc dù họ có thiện chí đó, nhưng được bao nhiêu người có thể kiên trì thực hành thiền trong cuộc sống của mình. Sớm muộn gì những công việc cấp bách cần giải quyết của đời thường sẽ làm trở ngại việc thực hành thiền hằng ngày của nhiều người.
Với ngài Đạt Lai Lạt Ma, việc hành thiền tự nhiên như việc đánh răng vậy thôi. Đó là một thói quen trong cuộc sống hằng ngày. Cha thử nhẩm tính, hẳn ngài đã dành ra hơn 100 ngàn tiếng đồng hồ để thực hành thiền. Và không nghi ngờ gì nữa, ngài là người hạnh phúc nhất mà cha từng biết. Sự hài hước của ngài, khả năng gây cười và niềm hoan hỷ trong cuộc sống của ngài thật là thần kỳ. 
Ngài Đạt Lai Lạt Ma đã chỉ cho cha một số cách đơn giản để ứng dụng thiền vào trong công việc hằng ngày. Đừng quá tham vọng làm điều gì to tát; hãy kềm chế sự nóng nảy. Lúc mới bắt đầu thực hành thiền, đừng ngồi quá lâu, mỗi lần chỉ nên ngồi chừng 10 đến 15 phút thôi. Có điều là cần thực hành thường xuyên, nhiều lần trong một ngày và duy trì để nó trở thành một thói quen thường xuyên trong cuộc sống.
Làm cho việc hành thiền trở thành một công việc nhịp nhàng như một thói quen  hằng ngày, đó là bí quyết để ngài Dalai Lama nuôi dưỡng suối nguồn bình an. Và trong những năm gần đây, khoa học cũng đã xác chứng sự liên quan mật thiết giữa thiền định và hạnh phúc thuần chân.
Ngài Đạt Lai Lạt Ma bảo cha “thế nhưng muốn tiến bộ, cần kiên trì với thời gian. Hành thiền không giống như mở công tắc bóng đèn, mà giống như nhen một ngọn lửa: bắt đầu từ một đốm lửa nhỏ, nó cháy to dần, mỗi lúc một to dần, sáng hơn, mỗi lúc một sáng hơn. Hành thiền là giống như vậy đó”.
Đây là đôi điều cha học được trong buổi sáng hôm ấy. Hãy rèn luyện. Điều này tốt cho cả thân và tâm. Thiền định cũng rất tốt. Không có gì đáng ngạc nhiên ở đây. Cha không nói với các con điều gì mới mẻ cả. Thế nhưng cha ấn tượng với sự thấu hiểu hàm chứa trong công việc buổi sáng của ngài Đạt Lai Lạt Ma. Không có gì to tát cả, nhưng thật ý nghĩa khi chứng kiến những kinh nghiệm sống động như thế.
Đầu tiên là sự tự chủ và tất cả những gì nó hàm chứa: không đáp ứng ngay những gì mình muốn thỏa mãn, sống có nguyên tắc, bền bỉ kiên trì. Thứ hai là thói quen. Hình thành một thói quen hằng ngày một cách nhẹ nhàng giúp chúng ta có được sự kiên trì và thành công trong mỗi việc mình  muốn thực hiện. Thứ ba là chúng ta có được sự hài lòng từ sự cho đi, từ sự giúp đỡ người khác. Tất cả những điều này đều hiện thực, xác chứng những phương cách ta có thể sử dụng để làm cho cuộc sống mình thêm thành công và tươi đẹp hơn.
Hiểu biết sâu thẳm nhất đến một cách nhanh chóng với cha khi ở bên ngoài tịnh thất cùng ngài Đạt Lai Lạt Ma. Ngay cả lúc này, nó vẫn còn thoáng hiện trong tâm trí cha, tuy không được trọn vẹn như lúc đó. Cha không mong hai con có thể liên hệ đến việc ấy trong lúc này, nhưng các con nên lưu tâm điều này. Đó là khi ở bên ngoài tịnh thất hôm đó, cha đã cảm nhận một cách khái quát về sự duyên sinh và tầm quan trọng trong mối quan hệ tùy thuộc vào nhau trong cuộc sống này. 
Ngài Dalai Lama luôn sống với tâm ở trạng thái phản tỉnh, và ngài hầu như không nói gì với cha. Thế nhưng những khoảnh khắc ngắn ngủi trong sương lạnh trước lúc rạng đông trong buổi sáng hôm ấy đã đánh động mãnh liệt đến tâm thức cha một cách không ngờ. Cha trực nhận năng lực của ngài và sự liên kết rất thật với những gì quanh ngài, một sự kết nối làm thăng hoa ý tưởng.
Cha xin được nhắc lại trong một cuộc phỏng vấn ngài trước đó. Ngài đã nói với cha về nhiều điều ngài trải nghiệm lúc ngài hơn 20 tuổi. Bất cứ cái gì ngài nhìn – một chiếc bàn, chiếc ghế, hay một người nào đó – ngài đều thấy nó không có một thực thể, không thật tồn tại. Có một “cái không trong cái có hiện hữu”, ngài nói với cha như thế.
 Nhìn thấy cha bối rối chưa hiểu gì, ngài giải thích “những khoảnh khắc này giống như những bức tranh xuất hiện, giống như xem ti vi hay xem phim vậy. Đặc biệt rất giống như xem phim. Ta có cảm giác những  gì đang diễn ra là thật, nhưng đồng thời, trong khi mắt ta nhìn thấy các cảnh ấy, tâm ta biết đó chỉ là bức tranh. Chỉ là sự diễn xuất, không thật có”.
Cách nhận thức này, sự cảm nhận vi tế về thực tại này là nền tảng trong đời sống tâm linh của ngài Đạt Lai Lạt Ma. Ngài biết, trên phương diện tri thức cũng như phương diện trải nghiệm, rằng vạn vật đều chịu sự chi phối của luật vô thường và rằng sự tồn tại của mình tùy thuộc vào một mạng lưới phức tạp trong các mối quan hệ khác. Trên cơ sở này, các ranh giới cá nhân đều tan ra. Kết quả là, ngài cảm nhận được sự gắn kết quyến thuộc với tất cả vạn vật và mọi người.
Lina và Kira, cha khép lại những chia sẻ về những gì đi qua tâm trí cha về buổi sáng hôm ấy. Cha vẫn luôn nhớ về mấy tiếng đồng hồ quý báu cha có mặt cùng ngài Đạt Lai Lạt Ma. Ngài chẳng giảng cho cha những giáo lý cao siêu nào, cũng không phải theo cách thông thường. Hầu như trong mọi lúc, ngài không đoái hoài gì đến sự có mặt của cha. Nhưng các con có thể nói rằng, cha đã học được những điều quan trọng – những điều không dễ dùng ngôn ngữ mà diễn đạt được.
Yêu hai con nhiều,



Cha các con
Vitor Chan


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/02/2021(Xem: 5420)
Nhân đọc bài về tuổi già của Đỗ Hồng Ngọc Bác sĩ y khoa, tôi mỉm cười. Mình cũng thuộc tuổi già rồi đấy!! Các bạn mình cũng dùng chữ ACCC= ăn chơi chờ chết vì vượt qua ngưỡng tuổi 70 rồi. Vậy theo BS Ngọc là làm như vậy cũng thực tế đó nhưng có thật là hạnh phúc tuổi già không? Bạn có đủ hết, con cái thì hết lo cho chúng được nữa rồi, chúng tự lo lấy chúng. Tiền bạc thì hết lo được nữa rồi có bấy nhiêu thì hưởng bấy nhiêu.
14/02/2021(Xem: 4919)
Phật giảng thuyết có ba phương cách: a. Giảng trực tiếp như các kinh đạo Phật Nguyên thủy, b. Giảng bằng phủ định, từ chối là không và phủ định hai lần là xác định tuyệt đối. c. Giảng bằng biểu tượng, đưa câu chuyện cánh hoa sen hay viên ngọc trong túi người ăn mày để biểu tượng hoá ý nghĩa sâu xa của kinh. Phương cách thứ ba này là kinh Pháp Hoa. Có nhiều biểu tượng nhưng nổi bật nhất là cánh hoa sen là biểu tượng kinh Pháp Hoa.
10/02/2021(Xem: 9645)
Long Khánh là một thị xã ven Đô, Phật giáo tuy không sung túc như các Tỉnh miền Trung Nam bộ, nhưng sớm có những ngôi chùa khang trang trước 1975, do một số chư Tăng miền Trung khai sơn lập địa. Hiện nay Long Khánh có những ngôi chùa nổi tiếng như chùa Hiển Mật hay còn gọi là chùa Ruộng Lớn tọa lạc tại Thị xã Long Khánh, chùa Huyền Trang, tọa lạc tại ấp Bàu Cối, xã Bảo Quang,.…Nhưng điều đáng nói là một ngôi Tam Bảo hình thành trong vòng 5 năm,khá bề thế. Qua tổng thể kiến trúc và xây dựng, không ai ngờ hoàn hảo trong thời gian cực ngắn, đó là Tịnh xá Ngọc Xuân, do sư Giác Đăng,đệ tử HT Giác Hà, hệ phái Khất sĩ, thuộc giáo đoàn 5 của Đức thầy Lý.
08/02/2021(Xem: 5274)
Hình ảnh con trâu tượng trưng cho tâm ý của chúng sinh. Mỗi người ai cũng đều có một con “trâu tâm" của riêng mình. Và cứ như thế pháp chăn trâu được nhiều người sử dụng, vừa tự mình chăn vừa dạy kẻ khác chăn. Vào cuối thế kỷ mười ba, thời nhà Trần, trong THIỀN MÔN VIÊT NAM xuất hiện một nhân vật kiệt xuất. Đó là Tuệ Trung Thượng Sĩ tên thật là Trần Tung, ông là một thiền sư đắc đạo. Ông là người hướng dẫn vua Trần Nhân Tông vào cửa Thiền và có nhiều ảnh hưởng đến tư tưởng của vị vua sáng lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử này.
08/02/2021(Xem: 4285)
Sau khi đạt được Giác ngộ, Đức Phật nêu lên Bốn Sự Thật và sự thật thứ nhất là "Khổ đau". Khổ đau ẩn chứa trong thân xác, bàng bạc trong tâm thức của mỗi cá thể con người và bùng ra cùng khắp trong thế giới: bịnh tật, hận thù, ích kỷ, lường gạt, đại dịch, bom đạn, chiến tranh... Sự thật đó, khổ đau mang tính cách hiện sinh đó, thuộc bản chất của sự sống, gắn liền với sự vận hành của thế giới. Sự thật về khổ đau không phải là một "phán lệnh" hay một cái "đế", cũng không mang tính cách "kỳ diệu" gì cả, mà chỉ là một sự thật trần trụi, phản ảnh một khía cạnh vận hành của hiện thực.
07/02/2021(Xem: 5135)
Nhà thiền có danh từ Tọa Xuân Phong để diễn tả hạnh phúc khi thầy trò, đồng môn, được ngồi yên với nhau, không cần làm gì, nói gì mà như đang cho nhau rất đầy, rất đẹp. Danh từ đó, tạm dịch là “Ngồi Giữa Gió Xuân” Mùa Xuân chẳng phải là mùa tiêu biểu cho những gì hạnh phúc nhất trong bốn mùa ư? Hạ vàng nắng cháy, vui chơi hối hả như đàn ve sầu ca hát suốt mùa để cuối mùa kiệt lực! Thu êm ả hơn, nhưng nhìn mây xám giăng ngang, lá vàng lả tả, tâm- động nào mà không bùi ngùi tưởng tới kiếp nhân sinh?
07/02/2021(Xem: 5351)
Chú mục đồng chậm rãi bước xuống sông. Bên cạnh chú, con trâu lớn nhất đàn ngoan ngoãn xuống theo. Đôi mắt hiền lành của nó nhìn chú như mỉm cười, tin tưởng và thuần phục. Những con trâu bé hơn lại nhìn bước đi vững chãi, an lạc của con trâu đầu đàn mà nối nhau, cùng thong thả qua sông. Đây là khúc sông cạn mà chú đã dọ dẫm kỹ lắm. Đáy sông lại không có những đá nhọn lởm chởm có thể làm chân trâu bị thương. Bên kia sông, qua khu rừng có những cội bồ đề râm mát là tới đồng cỏ rộng. Mùa này, sau những cơn mưa, cỏ non vươn lên xanh mướt, đàn trâu gồm bẩy con mà chú có bổn phận chăm sóc tha hồ ăn uống no nê sau những giờ cực nhọc cầy bừa ngoài đồng lúa.
07/02/2021(Xem: 8147)
Khi những cơn bảo và áp thấp nhiệt đới hung hãn nhất vừa tạm qua đi, khí trời phương Nam cũng trở buồn se lạnh. Nhiều người cho đó là hoàn lưu của những cơn bão miền Trung mà tất cả con dân “bầu bí chung dàn” vẫn còn đang hướng về chia sẻ, nhưng ít người nhận ra rằng đó chính là cái se lạnh của mùa đông phương Nam, báo hiệu mùa xuân sắp đến nơi ngưỡng cửa của bộn bề lo toan hằng năm.
06/02/2021(Xem: 6282)
Mười bức “Tranh Chăn Trâu” trong phần này là của họa sư Nhật Bản Gyokusei Jikihara Sensei, vẽ vào năm 1982 nhân một cuộc thăm viếng thiền viện Zen Mountain Monastery ở Mount Tremper, New York, (Hoa Kỳ). Họa sư vẽ để tặng thiền viện. Các bài thơ tụng thời nguyên gốc của thiền sư Quách Am viết vào thế kỷ thứ 12. Thơ tụng được chuyển dịch ở đây bởi Kazuaki Tanahashi và John Daido Loori, sau đó được nhuận sắc bởi Daido Loori để mong tạo lập ra những hình ảnh và ẩn dụ cho thêm giống với phong cảnh núi sông ở quanh thiền viện Zen Mountain Monastery. Thiền sư Daido Loori là người lãnh đạo tinh thần và là tu viện trưởng của thiền viện này.
04/02/2021(Xem: 5726)
Hôm qua mình có giới thiệu cuốn sách Buddhism in America (Phật Giáo Mỹ) của Richard Hughes Seager. Có bạn hỏi thêm muốn tìm hiểu Phật Giáo Mỹ nên nhờ mình giới thiệu vài cuốn. Nghĩ rằng đây là câu hỏi hay nên mình xin viết giới thiệu 7 cuốn sách để nhiều người lợi lạc. 1. Cuốn The Faces of Buddhism in America (Diện Mạo của Phật Giáo ở Mỹ) do Charles Prebish 2. Buddhist Faith in America (Đức Tin Phật Giáo ở Mỹ) tác giả Michael Burgan 3. Buddhism in America của Richard Huges Seager (1999, tái bản 2012) 4. Buddhism in America của Scott Mitchell 5. Altered Traits: Science Reveals How Meditation Changes Your Mind, Brain, and Body, 2017 6. A Mindful Nation: How a Simple Practice Can Help Us Reduce Stress, Improve Performance, and Recapture the American Spirit, 2012, 7: American Dharma: Buddhism Beyond Modernity
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]