Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Kẻ gánh cỏ khô trên đường thiên lý

14/10/201408:45(Xem: 8097)
Kẻ gánh cỏ khô trên đường thiên lý

ganh co kho

 

 

          Con đường ấy, khởi bước, ngỡ không mấy khó và chắc cũng chẳng có chi dài, vì nương theo sự chỉ bảo của các vị Đạo Sư, các bậc thiện tri thức giảng giải lời Phật dạy, thì sự giải thoát, giác ngộ có bao xa! Tùy căn cơ người nghe, lời giảng dạy chỉ gom về một mối, là muôn kinh, vạn kệ, hằng hà pháp môn cũng chỉ để giúp ta nhận ra, rằng mỗi chúng sanh đều có Phật Tánh sáng chói như nhau, nhưng nếu không thấy, chỉ bởi vô minh che lấp mà thôi. Nhận ra, và xóa sạch được bụi vô minh thì chúng sanh “sẽ thành Phật” đó, lập tức là “Phật đã thành”.

 

Không phải vô cớ mà Đức Phật khai thị Hội Pháp Hoa bằng lời xác định một sự thật mới mẻ như thế. Sự thật này là kinh nghiệm của chính bản thân Đức Phật khi ánh sao mai canh ba hiện lên rực rỡ, chiếu sáng cả khu rừng mà sa môn Gotama đã ngồi thiền định dưới gốc cây bồ đề suốt bốn mươi chin ngày đêm.

Đó là phút giây kỳ diệu của sự chứng ngộ.

Cũng khu rừng đó, gốc cây đó, con người, đó, ánh sao đó, nhưng tất cả đều hoàn toàn mới mẻ, vì con người đó vừa bứt phá được mọi gông cùm xiềng xích phiền não bằng thanh gươm trí tuệ. Phải nhận ra cội rễ khổ đau mới có thể chặt đứt chúng để trở thành con người tự do, tự tại, vốn sẵn tiềm ẩn nơi mỗi chúng sanh.

Nhưng ở không gian và thời gian đó, sự thật này lại khó tin đến mức khiến hơn năm ngàn vị Thanh Văn Duyên Giác hốt hoảng đứng dậy, rời Pháp Hội, xuống núi!

          Làm sao tin nổi là mọi chúng sanh, bất kể sang hèn giầu nghèo, khi nhận ra được là trong hình hài phàm phu này, có một vị chân nhân, thì kẻ đó đang là Phật! Và, nếu chịu tin như thế rồi, việc còn lại chỉ là ân cần chăm sóc và quán sát cái thân tâm phàm phu này, hăng hái lau chùi bụi bậm đi, tẩy rửa uế nhiễm đi, sẽ thấy được vị chân nhân bên trong.

 

Nhưng vị chân nhân đó, dung mạo ra sao, già trẻ thế nào, để có thể thấy hay không thấy? Dùng cái thân tướng phàm phu giả tạm, do kết hợp từ đất, nước, gió, lửa, để đi tìm cái không hình không tướng, không biết từ đâu đến và chẳng biết sẽ về đâu thì có dễ không?

Chắc là không, vì cõi ta-bà, muôn “Phật sẽ thành” vẫn nổi trôi trong biển khổ, hoặc phó mặc trầm luân, hoặc nhọc nhằn cầu học. Kẻ phó mặc trầm luân, ví như đã an phận theo dòng sinh tử, còn người cầu học mới phải khổ công nhọc trí, bôn ba tìm thầy, nương pháp để chỉ cho cách tìm ra cái “đang ở trong ta”.

 

Một vị giảng sư, mỗi lần đăng tòa thuyết pháp, đều nhắc nhở đại chúng: “Ngoài đời-thường, học vị nào, công việc nào cũng có lúc hoàn tất. Đạt kết quả rồi, người đó có thể nghỉ ngơi, hưởng thụ công trình của mình, bằng cách này hay cách khác. Nhưng với người cầu sự giác ngộ giải thoát thì không có phút nào được ngưng nghỉ, bởi phút nào giải đãi, phút đó mất ngay chánh niệm; mất chánh niệm thì thân, tâm, ý, theo vọng mà hành xử ngay!”

 

Đây là lời nhắc nhở rất quan trọng cho những ai thực tâm cầu đạo. Lời nhắc này cũng nói lên sự dễ, hoặc khó, trong việc lau bụi vô minh, hiển lộ Phật Tánh. Loại bụi này chẳng phải chỉ bám vào một nơi, một chốn, cũng chẳng phải chờ gió, chờ mưa nó mới di chuyển, lây lan. Để cho một ý bất thiện khởi lên mà không kịp nhận diện, nó có thể biến thành hành động, nhanh như tia chớp. Tác hại hơn, nếu nó còn mưu lược phác họa chương trình, rồi thân tâm ý cùng hỗ trợ nhau tích cực hành động thì chẳng bao lâu, giọt nước sẽ biến thành sóng thần, thành cuồng phong bão tố! Nhân vật Hitler chỉ không ngăn được thành kiến không ưa một chủng tộc, mà dẫn đến việc sát hại hơn sáu triệu dân Do Thái vô tội trong những lò hơi ngạt!

Lịch sử nhân loại từng chứng minh vô vàn sự bi thảm, mà Đức Phật đã cảnh giác: “Không tỉnh thức nhận diện để kịp ngăn chặn những bất thiện ý, thì cũng như coi thường một con rắn nhỏ, có thể khiến ta mất mạng, coi thường một đốm lửa nhỏ, có thể thiêu rụi thôn làng”.

Suy ra từ lời dạy này, cũng chớ coi nhẹ điều thiện nhỏ, mà không làm, vì dù sự việc điều thiện đó có nhỏ, nhưng khởi được ý-thiện và hành động theo ý-thiện đó thì kết quả có thể vô lượng.

 

Trong sáu căn, Ý là kẻ chỉ đạo, rồi với sự hợp lực và tuân theo của năm căn kia, Ý nào khởi lên cũng có thể thành hành động. Chính vì thế mà chúng ta tìm thấy trong Tạp A Hàm, riêng sự quan trọng về việc hộ trì sáu căn đã được lồng vào câu chuyện về tỳ-kheo Vangisa, suốt mười ba kinh. Câu chuyện dẫn cho thấy những tiến trình nguy hiểm khi sáu căn được thả lỏng. Thầy Vangisa là vị tỳ-kheo xuất sắc trong nhiều lãnh vực nghệ thuật, từng được Đức Thế Tôn ngợi khen tài sáng tác thi kệ, nhưng vì không dành đủ sự quan tâm tới sáu Căn khiến khi chúng đối trước Trần, đã dễ nẩy ra Thức ngã mạn, rồi mất chánh niệm đến nỗi suýt bi lụy vì nữ sắc. May nhờ có nội lực tu tập, thầy sớm nhận ra, bèn tìm tới Ngài Ananda, xin giúp đỡ.

Do việc này, một lần, Đức Thế Tôn đã nghiêm túc dạy rằng:

- Này các thầy tỳ-kheo, sáu căn của các thầy, mỗi căn là một đại dương mênh mông, sâu thẳm. Trong mỗi đại dương đó đều có vô số loài thủy quái sống giữa những dòng xoáy ngầm vô cùng hung hãn. Các thầy chỉ là những chiếc thuyền nan, bập bềnh trên biển cả, nếu không cẩn trọng trong từng phút giây, thuyền sẽ bị sóng ngầm và thủy quái nhận chìm, tiêu diệt ngay!

 

Quả là một thí dụ gợi hình, đầy linh động, khiến kẻ lơ mơ như tôi mà qua lời cảnh giác quý báu này, tôi đã bật nhớ, trong một lần giảng pháp, giảng sư đã viết lên bảng một câu, bằng Hán tự:

“Phù vi đạo giả, như thị càn thảo, hỏa lai tu tỵ”

Nghĩa nôm na, tôi hiểu đại ý là “Người cầu đạo, ví như kẻ đang gánh cỏ khô, thấy lửa, phải tránh xa.”

Lửa ở đây, tạm nhận diện là những tư duy và hành động sai lầm, từ mười sử tiêu biểu, gồm tham, sân, si, mạn, nghi, thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ, giới thủ. Mười sử này khai triển thành tám vạn bốn ngàn trần lao, cuốn ta trôi lăn trong dòng phiền não, sinh tử luân hồi. 

Lửa tinh vi và mênh mông vô hình vô tướng như thế, lúc nào cũng vây quanh đời sống, ẩn hiện dưới muôn hình vạn trạng, làm sao mà sự chểnh mảng chẳng khiến ta dễ dàng bị đốt cháy!

 

Vừa chợt nhớ lại ví dụ này, tôi tưởng như gánh cỏ khô trên vai đang được ai đó chất cho đầy hơn, nặng hơn, vì nó mang theo một thông điệp không thể không đáng sợ : “Này, thân mạng đang vùi trong cỏ khô, hãy nhìn cho rõ, những gì là lửa nhé!”    

 

Trên đường thiên lý hôm ấy, gió đi theo, và cùng cất tiếng hát với đoàn người gánh cỏ:

“Nhờ ơn Thầy chỉ dạy,

Cám ơn gánh cỏ khô

Vì cỏ, ta tránh lửa,

Xa lửa, gần Chân Như…” 

 

                                          Huệ Trân                                               

                               (Cuối hạ,Cốc Thảnh Thơi )

                   

 

 

   

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/11/2010(Xem: 8553)
aukhi D.T. Suzuki qua đời, hội Phật giáo Hoa kỳ góp nhặt các bài viết cuối cùng củaông để in thành sách với tựa đề "Lãnhvực của Thiền học Zen" (TheField of Zen, 1969) và bốn mươi năm sau quyển sách này được dịch sang tiếngPháp với tựa đề "Những bài viết cuốicùng bên bờ của cõi trống không" (DerniersÉcrits au bord du Vide, 2010). Dưới đây là một trong số các bài được tuyểnchọn trong quyển sách này.
31/10/2010(Xem: 9150)
Đức Phật dạy có năm sự khéo léo trong giao tiếp đem đến nhiều kết quả tốt đẹp. Theo ngài Xá Lợi Phất, không tuân theo năm cách xử sự này sẽ đem đến những hậu quả...
31/10/2010(Xem: 9939)
Bài nầy do Chân Văn dịch từ Chương Bốn trong quyển "Living Buddha, Living Christ" của Thích Nhất Hạnh, Riverheads Book xuất bản 1995. Quyển sách gồm nhiều bài giảng bằng Anh ngữ của Thầy, được ghi âm, chép lại và nhuận sắc. Ðây là một quyển sách đã bán được rất nhiều trong loại sách về tôn giáo và tâm linh ở Hoa Kỳ. Theo lối quen dùng trong các sách Việt ngữ của Thầy, từ "Buddha" được dịch là "Bụt", một từ trong tiếng Việt cổ dùng để phiên âm "Buddha" khi đạo Phật được truyền vào Việt Nam vào đầu kỷ nguyên Tây lịch. Về sau, từ khi người Việt dùng kinh sách chữ Hán, từ "Phật" hay "Phật Ðà" (tiếng Hán Việt) được dùng thay từ "Bụt". Bài dịch nầy đã được đăng trên tạp chí Thế Kỷ 21, California, Hoa Kỳ, tháng 11-1995
31/10/2010(Xem: 9767)
Tham sống sợ chết, đó là sự thật của người đời. Thế nhưng tại sao lại giết hại, cắt đứt sự sống của chúng sanh khác? Trong bài viết ngắn này chúng tôi sẽ đề cập đến vấn đề "Không sát sanh" hay "tôn trọng sự sống" như là thái độ sống của một người Phật tử.
29/10/2010(Xem: 8224)
Linh hồn sẽ tồn tại sau khi chết có hay không ? Sau đây bài viết “Linh Hồn và Cõi Âm” của GS TS Bùi Duy Tâm (sống tại Francisco, CA 94122, USA). Từ chỗ chưa có cơ sở để tin cậy vào sự tồn tại vong linh của con nnep song daogười, GS Tâm đã kiên trì tìm hiểu vấn đề tâm linh và cuối cùng đã rút ra kết luận chắc chắn rằng : sự sống sau cái chết là có thực !
29/10/2010(Xem: 9174)
Có người cho rằng chữ niệm ở trong vô niệm cũng giống như chữ niệm ở trong chánh niệm. Không phải vậy!Chữ niệm ở trong vô niệm có nghĩa là một tư tưởng, một cái tưởng, một tri giác (perception), một ý niệm (idea), một quan niệm (notion). Vô niệm tức là vượt thoát những tư tưởng, những ý niệm, những tri giác đó. Tại vì mình có những tư tưởng, những ý niệm, những tri giác đó, và đôi khi mình đồng nhất nó với sự thật tuyệt đối. Vì vậy mình phải vượt thoát ý niệm đó thì mình mới có thể tiếp xúc được với sự thật.
28/10/2010(Xem: 8474)
Córất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sựphóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏitâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm, nênchúng ta vẫn coi chúng như những thể tách rời và khác biệt.Tâm chúng ta cứ hết sân hận, ganh tị rồi lại mừng vui,phấn khích - đủ mọi cung bậc thăng trầm của cảm xúc.Thực sự chúng ta chưa hiểu được mình đang trải nghiệmnhững gì, ta thực sự là ai, ai đang thực sự sân giận hayvui vẻ, ai đang nản lòng hoặc tràn trề hứng khởi: điềugì đang thực sự diễn ra? Trên thực tế
28/10/2010(Xem: 7854)
Kính lễ Kim Cương Thượng Sư Tôn! Đấng Pháp Vương Drukpa tôn quý, Ngài là chủ hết thảy Đạo sư, Mang phúc lợi nhiêu ích hữu tình. Dưới gót sen cao quý quang vinh, Dốc lòng thành con nguyện quy kính! Đức Long Thọ Bồ Tát dạy rằng: “Giới luật, giống như căn bản của thế và xuất thế, là nền tảng của hết thảy trí tuệ”.
28/10/2010(Xem: 8270)
Chủ nhật vừa qua tôi hết sức vui mừng vì đã thuyết bài Pháp đầu tiên tại Singapore. Ðương nhiên khi nhìn thấy số thính chúng nhiệt tình mộ đạo như vậy và khi trông thấy giảng đường chật kín, có số người còn đứng tràn ra ngoài, tôi vô cùng phấn khởi, sau đó tôi bắt đầu tìm hiểu nguyên nhân nào đưa đến một số thính chúng tham dự đông đảo nồng nhiệt như vậy.
27/10/2010(Xem: 7141)
Cuộc đời là những mâu thuẫn, ở đây tôi không nói những gì cao siêu mà nói về những kinh nghiệm sống của người Phật tử. Chúng ta sống như thế nào để cuộc đời được an lành tự tại, không bị đau khổ làm ray rứt.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]