Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Câu chuyện Dì Sáu

18/09/201405:32(Xem: 8237)
Câu chuyện Dì Sáu

 

Niem Phat-2

 

Câu chuyện này tôi đã viết trên mạng. Nay xin phép đăng lại trong Trang Nhà Quảng Đức mời Quí Vị đọc cho vui (có sửa đổi một chút và viết thêm đoạn cuối)

 

Dì Sáu là một người đàn bà rất đáng phục. Sinh trưởng ở miền nam Việt Nam, lúc nhỏ chắc học hành cũng chẵng bao nhiêu. Sau 1975 di tản sang tây, không biết một tí tiếng Pháp nào, vậy mà lại một thân một mình sống được yên hàn từ mấy chục năm nay tại xóm La Tinh, ở ngay trung tâm thành phố Ba Lê hoa lệ.
 
1. Gặp Dì Sáu. Chúng tôi gặp Dì lần đầu khoảng trước đây đã mấy chục năm. Khi đó vùng Ba Lê còn ít người Việt, và họ phần lớn sống ở ngoại ô. Trong xóm La Tinh có môt tiệm bán thức ăn Việt Nam rất nổi tiếng. Tôi ở ngoại ô, mỗi cuối tuần là lái xe chở vợ và hai con nhỏ vào xóm La Tinh mua thức ăn Việt. Một ngày nọ, mua hàng xong, tôi vừa mở cửa xe cho hai cháu lên, thì bỗng có một bà người Việt, tuổi cỡ trên năm mươi, quần áo đen, xách một cái thúng lớn xô hai đứa con tôi, chen vào ngồi trốn trong xe. Nhìn phía sau xe, tôi thấy có hai người cảnh sát đang rảo bước tới. Tôi không khỏi lo sợ, vì nghĩ bà đã làm điều gì bất chính, bị cảnh sát rượt. Nào ngờ khi hai người cảnh sát đến nơi, thì họ chỉ ghé đầu vào xe, trừng mắt nhìn bà một cách nghiêm khắc, rồi quay nhìn nhau tủm tỉm cười rồi bỏ đi. Bà chui ra, cảm ơn tôi, rồi xách thúng ngồi ở một cái ghế dài bên lề đường. Thì ra là bà làm món ăn Việt Nam, rồi mang tới bán (không có giấy phép) ở trước cửa hàng kia.
Sau đó ít lâu, chúng tôi cũng dọn vào ở xóm La Tinh, tình cờ gần nhà bà, thành ra chúng tôi là hàng xóm và tình bạn với bà kéo dài mấy mươi năm, tới khi bà tự nhiên mất tích, nhưng đó là chuyện về sau.

 

2. Một thân một mình từ Rạch Giá đến Ba Lê. Dì Sáu người miền nam, sinh trưởng ở Rạch Giá, con thứ năm một gia đình chuyên làm nước mắm. Vì là con thứ năm, nên chúng tôi gọi bà là dì Sáu. Dì Sáu hồi nhỏ cũng chỉ học cho tới biết đọc biết viết, rồi lớn lên đi buôn bán chút đỉnh, chờ ngày lấy chồng sinh con đẻ cái như nhiều con gái trong làng thời bấy giờ. Nhưng khi đó, chiến tranh đã tới lúc khốc liệt, con trai trong làng đi lính hết, quân Mỹ càn quét, dân tình ta, nhất là ở vùng quê, hết sức khổ sở. Sau năm 75, gia đình bà ở lại. Trong cảnh sống cùng cực, bà được chứng kiến nhiều vụ người ta vượt biển, vì nhà bà ngay ở bờ biển. Trước nhà là đường cái, sau vườn là ra cửa biển. Có người lạ không biết là ai, vào nhà bà, chạy chui ra sau, lên thuyền đã đỗ sẵn, rồi rông tuốt. Một ngày kia, bà thấy nhiều người chạy qua nhà mình lên thuyền phía sau nhà. Hình như có công an rình rập, bà hốt hoảng chạy theo người ta lên thuyền. Không ai dám phản đối. Rồi người ta đưa bà đi. Thời cuộc xô đẩy, bám theo hết nhóm này rồi đến nhóm kia, không hiểu thế nào sang đến đất Pháp, vào một trại tị nạn ở gần Ba Lê. Rồi một ban từ thiện tìm cho bà được một căn nhà bỏ hoang, ngay tại xóm La Tinh, như đã nói ở trên.

 

3. Lẻ loi trong Xóm La Tinh. Bà tìm ra một nghề là làm món ăn Việt Nam, rồi bán cho hàng xóm hay ra đường bán rong một cách kín đáo. Khi vào Ba Lê, chúng tôi hay tò mò đứng xa nhìn, thì quả nhiên thấy thỉnh thoảng có mấy bà đầm tới mua hàng của bà. Tôi đã thấy ngay là bà không biết tiếng Pháp, vì người khách nào khi mua cũng đưa tiền rồi tự tay cầm cái túi tiền của bà để lấy tiền thối lại, một cách rất tự nhiên, không nói một lời nào với bà cả. Hai bên có vẻ đã quen nhau từ trước, họ chỉ cười với nhau một cái, rồi người khách bỏ đi. Chắc bà bán tại đây từ lâu rồi. Bán như thế là không có giấy má, không trả thuế, và cạnh tranh với cửa hàng chung quanh. Dĩ nhiên là nhà hàng Việt Nam biết, nhưng bà đâu có bán được bao nhiêu, thành họ cũng bỏ qua. Còn cảnh sát thì quá biết. Nhưng bà hiền lành không gây rối trật tự công cộng gì, nên cảnh sát cũng làm ngơ.

Dì Sáu người lùn tịt, lúc nào cũng mặc quần áo đen. Tóc đã hoa râm, mặt đầy vết nhăn nheo vì đã quá nhiều gian khổ. Nét mặt đều đặn, mũi cao miệng nhỏ, hồi còn con gái chắc cũng xinh xắn. Da mặt bóng loáng vì bao năm làm bếp đầy dầu mỡ. Chân tay bà gầy guộc nhưng cứng cát vì sáng tối làm việc. Không những đêm phải làm món ăn, ngày còn phải vác thúng đi bán, như đã nói ở trên. Trời nóng ran hay rét cóng cũng vậy. Nhiều người sống chung quanh đã biết ngày giờ sinh hoạt của bà. Họ tới mua, còn tới đặt hàng, thành bà không những sống thoải mái, còn có chút tiền để dành nữa.

4. Căn nhà kín đáo. Quen nhau ít lâu, chúng tôi khi có khách, đến đặt nhờ bà làm những món ăn riêng. Nhà Dì ở tầng hai, trong một chung cư đồ sộ mặt ngoài tường cao cửa lớn đầy chạm trổ. Ngày xưa chắc chắn là nhà rất đẹp, nhưng vì xây từ đầu thế kỷ, nay đã nhiều mục nát, rỉ sét. Vừa vào cửa, theo hành lang, chưa đi lên lầu, đã biết là có bà con ta ở, vì mùi xào nấu nước mắm phảng phất. Hơn nữa lại nghe âm thanh tiếng cải lương rề rề hay tiếng tụng kinh gõ mõ nhè nhẹ. Sau này tôi biết nhiều người ở chung cư ta thán. Người ta cắt nghĩa cho bà thì bà không hiểu, hoặc có hiểu nhưng làm như không. Nhà bà có hai căn buồng. Một căn để ngủ, có giường và hai cái nệm trải trên sàn nhà. Căn kia là bếp, để đầy nồi niêu xoong chảo, một máy ướp lạnh đồ sộ, thức ăn chật cứng. Cửa nhà ngày đêm không bao giờ khoá. Đẩy cửa vào là thấy bà, tay mặt đầy dầu mỡ mồ hôi, hối hả ra chào đón.

 

5. Một tấm lòng vàng. Dì Sáu nghèo nàn, nhưng lại có một tấm lòng vàng. Chúng tôi thường nói : “Người này ít chữ nghĩa, nhưng giầu lòng Phật”. Ra đường hễ thấy người Á Châu trông dáng nghèo đói đi lang thang là bà tới hỏi thăm, và cho thức ăn. Nếu là đàn bà, thì đem về cho ở nhờ. Vì thế gần như lúc nào trong nhà Dì cũng có người tá túc. Bà nói: “Có người ở dăm ba ngày, có người ở cả tháng. Tôi nuôi cho ăn, rồi còn cho chút đỉnh tiền xài. Có người cũng làm bếp giùm tôi, có người cả ngày chỉ nằm ngủ”. Điều rất mầu nhiệm là những người ở nhờ toàn là dân nghèo khổ, thế nào cũng có kẻ bất lương, nhà bà thì đồ đạc hở hang, vậy mà chưa một ai lừa đảo trộm cắp của bà một thứ gì. Tấm lòng Phật của bà đã cảm hoá được những người nghèo khổ, dù họ rất dễ bị lôi cuốn vào con đường gian giảo.

Niem Phat

 

6. Người con của Phật. Dì Sáu ngoài tiếng Việt còn nói được tiếng Miên và tiếng Tầu. Hình như bà gốc gác là người Trung Hoa. Bà ít chử nghĩa nhưng lại thuộc kinh làu làu. Nhất là kinh tiếng Phạn, như Chú Đại Bi, Bát Nhã Tâm Kinh. Có hiểu gì đâu, vậy mà bài nào bà cũng thuộc lòng. Nhiều lần tôi đến thăm đứng lại hành lang nghe bà tụng kinh Phổ Môn, tiếng chuông mõ rất nhịp nhàng. Vấn đề là bà để băng nhạc cải lương suốt ngày không ngừng. Ngay lúc tụng kinh bà cũng để băng cải lương. Bà nói : “Cải lương tôi đã thuộc lòng, có nghe gì nữa đâu, nhưng để nhạc cho đỡ lẻ loi”. Trong buồng bà có một cái lò sưởi đã xây sẵn đục vào tường, bà dùng làm bàn thờ. Có lọ hoa, lư hương, chuông mõ, môt đĩa nhỏ trái cây, nhiều tranh và tượng Phật. Bà rất hãnh diện có một bức hình Phật Bà Quan Âm hiện ra trên trời ở Sài Gòn trong năm Pháp nạn 1963, nghe nói  do một phi công bay lên chụp được. Bức hình này rất nổi tiếng ở Sài Gòn vào dạo đó.

Dì Sáu biết rất nhiều sự tích về đức Phật. Không bao giờ thấy Dì than phiền về đời sống vất vả. Lúc nào cũng thấy bà tươi cười. Nếu gặp trắc trở thì coi là kiếp trước làm tội nay phải trả. Luôn luôn lo làm phước, nói là để phúc cho đời sau. Dì tin là ai cũng tốt. Dì trả tiền thuê nhà rất sòng phẳng. Đi chợ, Dì cứ đưa túi tiền ra, người ta móc lấy đúng tiền mua. Tôi biết là dân bán hàng ở đây nhiều lúc lạm dụng du khách, nhưng tôi chắc là chưa ai lừa đảo Dì Sáu một lần nào. Thì ra lòng thành thật của Dì đã vun xới lòng thành thật của mọi người chung quanh.

 

7. Dì Sáu đi đâu?. Một ngày nọ, chúng tôi đến thăm, thấy đầy thợ đang tu sửa lại hai căn buồng của bà. Dì Sáu đã đi đâu mất. Những người thợ nói là bà đã dọn đi. Họ cho tôi địa chỉ mới của bà, nhưng tới đó, chỉ thấy một căn nhà cũ kỹ, kín cửa cao tường, không một bóng người. Vì lý do gì bà bỏ đi thì có ai biết đâu!

Từ đó tôi mất tin Dì Sáu luôn. Người đàn bà từ đồng quê nước mặn xứ nghèo, theo xô đẩy của thời cuộc, đã đến tận kinh đô ánh sáng Ba-Lê, sống một thân một mình, rồi biến mất, không biết lưu lạc nơi nào. Dì sống như một nhà tu hành nhỏ phận, dấn thân ngoài đời, tự lập cánh sinh. Dì đã cảm hóa được những người chung quanh trong một khung cảnh thanh đạm, hiền hoà, từ thiện. Gặp người Pháp không nói được gì với nhau thì có khác chi hai bên cùng tịnh khẩu như trong một phép tu hành. Cũng như các nhà tu tịnh khẩu, họ dùng nụ cười chân thật thân tình làm giao thiệp.

Trước khi đăng lại bài này, tôi trở về địa chỉ mới của bà xem có tin tức gì không. Ôi, thời cuộc đổi thay, căn nhà đó đã hoàn toàn được sửa lại, bây giờ kiến trúc hiện đại trong sáng nguy nga. Thỉnh thoảng có người ra vào, ai cũng ăn mặc rất sang trọng. Tôi đi vòng quanh cả giờ, không thấy Dì đâu. Có thể Dì đã ra đi. Dì ở hiền gặp lành, được Phật độ và Phật sẽ không bao giờ bỏ Dì. Nếu Dì đã ra đi thì thế nào cũng đã được các Bồ tát đưa về nơi đất Phật….

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/11/2015(Xem: 11424)
Đây là bài Pháp luận có Chủ đề: Tại Sao Giới Trẻ Ít Đến Với Đạo Phật? do Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hoa Kỳ và Canada tổ chức trong KHÓA TU HỌC PHẬT PHÁP BẮC MỸ LẦN V tại San Diego, CA từ ngày 6 đến ngày 10, tháng 8 năm 2015. Thuyết trình đoàn gồm có Thượng Tọa Thích Hạnh Bình, Thượng Tọa Thích Nhật Trí, Ni Sư Thích Thiền Tuệ, Cư Sĩ Quảng Thành Bùi Ngọc Đường, và cá nhân tác giả. Đây là phần thuyết trình của chúng con / chúng tôi. Nếu có chút vụng về gì trong khi truyết trình hay viết thành văn, kính mong quý Ngài và quý vị niệm tình mà tha thứ cho.
12/11/2015(Xem: 10642)
Chiều ngày 30 tháng 10 năm 2015 (18/09 năm Ất Mùi) tại chùa Huyền Không Sơn Thượng, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế đã diễn ra buổi lễ hành chính dâng Y Kathina do Phái đoàn Đại diện Quốc Vương Thái Lan cúng dường. Phái đoàn Đại diện Vương Quốc Thái Lan có ông Prả-chuộp Chằy-yả-xán - Nguyên Bộ trưởng Ngoại giao, Chủ tịch Hội hữu nghị Thái - Việt, Đại diện Quốc Vương Phu-mí-phôn Á-đul-yá-đệt và Hoàng gia Thái Lan; cùng các thành viên, các Phật tử Thái Lan tháp tùng trong phái đoàn.
12/11/2015(Xem: 8252)
"...Các con hy sinh một chút xíu, dễ thương một chút, nhẫn nhịn một chút xíu thì ngay trong đời sống này các con đang tập luyện một đức tính của ngọc." Hôm nay Thầy sẽ nói chuyện với các con về đề tài "Đá biến thành ngọc". Sao gọi là đá biến thành ngọc? Thầy mới đọc một cuốn sách và chính cuốn sách đó gợi ý cho Thầy buổi nói chuyện với các con hôm nay. Trong đó, tác giả đưa ra một hình ảnh rất bình thường, cụ thể về một hòn đá sỏi, lăn lóc vô tri giống như là một hòn đá màu xanh mà mình đi đạp thường ngày và không ai để ý tới nó.
11/11/2015(Xem: 9715)
Đừng mất thì giờ phân định việc thị phi cho rành mạch đen trắng trong khi tất cả đều chỉ là tương đối trong tục đế mà thôi. Cái đúng với người này có thể sai với người khác, cái phải ở chỗ kia có thể trái ở nơi nọ, cái đang đúng lúc này không hẳn sẽ đúng về sau v.v...*
08/11/2015(Xem: 7187)
Một hôm, sau bữa ăn sáng, thầy Pháp Sứ hỏi tôi có bận gì chiều nay không. Tôi nói rằng không. Thế rồi thầy bảo “Quý thầy đợi chú lúc 15h ở bãi đỗ xe gần tăng xá”. Tôi gật đầu nhận lời.
07/11/2015(Xem: 9517)
Dưới đây là một bài thuyết giảng của nhà sư Ajahn Sumedho vào mùa kiết hạ năm 1994 tại ngôi chùa Amaravati do chính ông thành lập ở Anh Quốc. Ajahn Sumedho là một người Mỹ (tên thật là Robert Jackman), sinh năm 1934, và là đệ tử của vị đại sư Thái Lan Ajahn Chah (1918-1992). Ông hoằng pháp ở Anh từ năm 1977 và đã thành lập nhiều ngôi chùa tại Anh quốc.
07/11/2015(Xem: 8832)
Cách đây nhiều năm trong một chuyến công tác ở Moscow - Liên bang Nga, ông chú tôi, một quan chức trong ngành điện lực, sau cuộc hội thảo chuyên môn, giờ giải lao, một cán bộ cấp cao, một nữ phó tiến sĩ người Nga tâm sự: “Các anh may mắn hơn chúng tôi, các anh có niềm tin vào tôn giáo hay một thứ tín ngưỡng nào đó, còn chúng tôi, sau khi Liên Xô và khối xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Đông Âu tan rã, chỉ còn sự trống rỗng, hầu như chúng tôi chẳng biết tin vào điều gì bây giờ!”. Ở các nước phát triển, nhiều người tìm đến với Phật giáo vì đó là lối sống có thể ứng dụng mọi lúc mọi nơi, đem lại lợi ích thiết thực cho mình, cho người, cho môi trường..
06/11/2015(Xem: 12754)
Từ ngã ba trước trụ sở thị xã Ninh Hòa, rẻ về tay trái đi theo quốc lộ 26 hướng về Ninh Phụng, đi khoảng 3km đến quán Bảy Búa, rẻ phải theo hương lộ Ninh Phụng - Ninh Thân đi khoảng 500m nửa là đến chùa cổ tich Linh Quang (thôn Xuân Hòa, xã Ninh Phụng, Ninh Hòa).
05/11/2015(Xem: 8439)
Chuyến tàu chở chúng tôi từ Paris về ga Saint Foy La Grande đúng không sai một phút. Xuống tàu tìm mãi không thấy ai đón. Chúng tôi ra ngoài cửa ga đợi nửa tiếng vẫn không thấy ai. Thế là bắt đầu sốt ruột. Tìm lại trong người và hành lý thì hoàn toàn không có điện thoại của Làng Mai, không có địa chỉ. Nghĩ lại thấy mình thật là không cẩn thận, không chu đáo. Biết đi đâu bây giờ. Từ ngày rời Việt Nam tôi không hề dùng điện thoại, chỉ check email và vào facebook up tin một chút vào buổi tối mới mà thôi.
05/11/2015(Xem: 14555)
Chúng con, một nhóm PT mới dịch xong cuốn quotations "All You Need Is Kindfulness " của Đại Sư Ajahn Brahm. “Kindfulness” là danh từ mới do Ajahn Brahm đặt ra để chỉ “mindful” nghĩa là “sati”, tỉnh thức (hay thường được gọi là chánh niệm) với “kindness”- tâm từ ái. Ajahn luôn luôn nhấn mạnh rằng chỉ chánh niệm không thôi chưa đủ mà chúng ta cần phải thêm vào đó cái "nguyên tố kỳ diệu của tâm từ ái".
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]