Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Sống đạo giữa đời thường

03/09/201406:35(Xem: 8092)
Sống đạo giữa đời thường

lotus_54



Sống đạo giữa đời thường

Hòa thượng Thích Thánh Nghiêm

Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng




Lời giới thiệu


Hằng đêm, chúng ta thường tụng bài kệ khai kinh:

Phật pháp rộng sâu khó nghĩ bàn

Trăm ngàn ức kiếp khó tìm cầu

Nay con thấy nghe xin trì tụng

Nguyện rõ Như Lai nghĩa nhiệm mầu.

Nghĩa nhiệm mầu ấy nay được Hòa thượng Thánh Nghiêm trình bày rất ngắn gọn, súc tích nhưng rất dễ hiểu và dễ ứng dụng trong cuộc sống hằng ngày. Chúng con chưa có duyên tu, nhưng lại có may mắn được tiếp xúc và thực hành lời dạy đó. Mới nhận ra mình như có được những viên ngọc sáng trong bầu trời Phật pháp. Thật an lành và hạnh phúc biết bao khi chúng con được tiếp xúc với Pháp, với chư Hiền thánh Tăng để nhận rõ chân tâm và gieo trồng những hạt giống từ bi, trí huệ những hạt giống của tình thương yêu và sự hiểu biết đến muôn loài.

Đức Đạt-lai Lạt-ma nhận định, dịch thuật là một công việc rất khó, nếu không nói là một nghệ thuật và hẳn nhiên người dịch chỉ với một tâm nguyện duy nhất là được góp phần lan truyền ý nghĩa nhiệm mầu vi diệu của chư Phật, nên công việc này vô cùng cần thiết để truyền bá chánh pháp giữa các dân tộc và các nền văn hóa trong thời kì hội nhập.

Chuyển ngữ đã là khó và càng khó hơn khi chuyển ngữ tuyển tập các bài viết về hành đạo do Hòa thượng Thích Thánh Nghiêm chấp bút. Nội dung tuyển tập trải rộng, từ các vấn đề cá nhân, gia đình, hôn nhân, sự nghiệp, công việc, bệnh tật trong cuộc sống hằng ngày,… đến các vấn đề quan hệ giữa người với người trong cuộc sống hiện đại hàm chứa không ít thị phi.

Trong quá trình sư cô Viên Thắng chuyển ngữ, chúng con thỉnh thầy Nhuận Châu (Tịnh thất Từ Nghiêm–Đại Tòng lâm) đọc lại bản thảo và chú thích những điểm cần thiết. Và xin tri ơn sư cô Viên Hạnh đã đem bản Hán từ Đài Loan về. Thay mặt cho Nhóm thực hiện, chúng con chân thành tri ân thầy Nhuận Châu, sư cô Viên Thắng và sư cô Viên Hạnh đã giúp cho chúng con thực hiện tuyển tập có giá trị như thế này.

Kính thưa chư vị Tôn Đức, cùng các vị đồng tu gần xa! Mặc dù hai vị đã cố gắng hết sức nhưng khó mà tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Chúng con rất mong quý vị hoan hỷ niệm tình bỏ qua cho.

Nam mô Hoan Hỷ Tạng Bồ-tát Ma-ha-tát.

.

Kính ghi,

Nhóm thực hiện

Lời tựa

Quyển sách nhỏ này là tôi thu hoạch bất ngờ gần một năm.

Ban đầu là do cô Đặng Mỹ Linh đặt ra đầu đề cho tôi; sau đó cô thu thập, ghi chép thành bản thảo. Những bài viết trang đặc biệt Người hành đạo, một phụ bản trên báo Tự do dành cho tôi. Cô là nhà văn, nên biên tập lại lời văn của tôi rất trong sáng và lưu loát.

Trang đặc biệt này, in ra được hai mươi chín bài thì dừng; không phải vì không được độc giả đón nhận, mà do cô nhận làm chủ biên cho tờ phụ bản báo hằng ngày, nên công việc rất bận rộn, không thể làm thêm được nữa.

Tổ biên tập ngành xuất bản văn hóa Pháp Cổ, cảm thấy số bài của quyển sách này quá ít, nên không thể in thành một quyển. Nếu như không tập hợp thành sách thì trải qua thời gian sợ rằng sẽ thất lạc, rất là đáng tiếc. Cho nên, có người làm trong nguyệt san Nhân sinh tìm đến, họ đem những bài ghi chép bản thảo mà tôi giảng đáp cho xí nghiệp, giảng cho giới nhân sĩ cùng phần vấn đáp; rồi chia đoạn, trích ra viết thành ba mươi bài ngắn, rồi cho xuất bản quyển sách này.

Văn chương quyển sách này số lượng tuy ít, nhưng nó có giá trị. Sách này nói về người hiện đại trong hoàn cảnh hiện đại. Từ cá nhân, gia đình, hôn nhân, sự nghiệp, công việc, tật bệnh trong cuộc sống hàng ngày; cho đến chính trị, tôn giáo và vấn đề quan hệ giữa người với người đã gặp phải, nêu ra bốn mươi mốt đáp án bằng tri thức và cảm tính rất rõ ràng, cung cấp cho bạn tham khảo khi gặp việc khó xử.

Trong quyển sách nhỏ này không có dùng những danh từ Phật học thâm thúy khó hiểu, chỉ truyền bá tôn giáo, tín ngưỡng đến bạn, nhưng nó thật sự có chất trí tuệ và từ bi của Phật pháp, làm thành người bạn mà mọi người đều có thể tiếp nhận.

Ngày 18, tháng 11, năm 1998, Thánh Nghiêm tự thuật, viết ở Thiền tự Đông Sơ, Nữu Ước, nước Mỹ.

I. Khởi tâm động niệm đều là tu hành

1. Quán sát thiên chấp của chính mình

Nếu như chúng ta không phát giác thiên chấp của mình, thì sẽ bị những điều tốt xấu che lấp, cũng chính là cố chấp giá trị tiêu chuẩn của mình là đúng, nên không sợ gì, không cần suy xét hoàn cảnh bên ngoài.

Con người sống ở đời thường có rất nhiều phiền não. Tinh thần căn bản của Phật pháp là phải dạy mọi người đoạn trừ phiền não. Đoạn như thế nào? Có rất nhiều phương pháp. Khi chúng ta truy cứu nguồn gốc phiền não thì sẽ phát hiện có một loại phiền não, chính là theo lập trường chủ quan của mình, không thể đổ thừa hoàn cảnh bên ngoài, hoặc người chung quanh đồng ý. Mỗi người đều hi vọng được người khác tiếp nhận, thậm chí hay khống chế người khác; nhưng có rất ít người bằng lòng tiếp nhận ý kiến của người khác, lại không nói được lí do khống chế người khác. Như thế, sẽ xảy ra sự mâu thuẫn, xung đột giữa người với người, giữa người với hoàn cảnh.

Có một cặp vợ chồng, sau khi kết hôn nhiều năm, sống rất hạnh phúc với nhau, nhưng vẫn phải li hôn. Khi họ làm thủ tục li hôn, cả hai người đều rất buồn, ngay bản thân họ cũng nghĩ không ra, rõ ràng tình cảm của hai người còn rất sâu nặng, làm sao có thể đi đến tình cảnh này? Nguyên nhân sức khỏe người vợ rất yếu không chịu được gió; cho dù thời tiết rất nóng chị cũng không chịu được một chút gió, chị không chịu được máy lạnh, cũng không chịu được quạt máy, ngay cả cửa sổ chị cũng không dám mở. Nhưng ngược lại, người chồng thì rất sợ nóng, không có máy lạnh thì không ngủ được. Cho nên, mặc dù tình cảm vợ chồng vẫn còn sâu nặng, nhưng họ không thể sống chung với nhau; cuối cùng, đành phải chia tay mỗi người mỗi ngả. Đây là bi kịch của đời người, cũng là việc bình thường của con người.

Khi Đức Phật ở trong hội Lăng-nghiêm thuyết pháp cho đại chúng, Ngài đưa cánh tay lên hỏi Tôn giả A-nan:

- Này A-nan! Ông xem tay của Như Lai thẳng lên hay là chúc xuống?

Tôn giả A-nan ỷ mình đa văn, nhưng sau khi bị Đức Phật quở trách mấy lần, nên lần này cũng không dám trổ tài, chỉ trả lời mơ hồ:

- Bạch Đức Thế Tôn! Theo người bình thường ở thế gian đều cho rằng bàn tay đưa xuống là chúc xuống, con cũng không biết rốt cuộc thế nào là thẳng lên? Thế nào là chúc xuống?

- Này A-nan! Cánh tay là cánh tay, làm sao có chuyện thẳng lên hay chúc xuống nhất định? Chỉ vì người thế gian cố chấp đưa tay lên là thẳng, duỗi tay là chúc xuống. Đây là cách nhìn mê chấp, chưa giác ngộ.

Vì thế, theo cách nhìn tinh tường của Đức Phật, những điều thấy ở thế gian có rất nhiều tiêu chuẩn giá trị, đều là do chấp trước, vọng tưởng, thị phi, thiện ác của con người vốn không có tiêu chuẩn tuyệt đối. Cũng một người, nhưng người này nhìn theo góc độ nào đó thì cho họ là kẻ xấu; nhưng cách nhìn của người kia thì cho là người tốt. Những tiêu chuẩn này đều do con người xác định ra, chưa chắc gì phổ biến ra đều đúng.

Nếu như chúng ta không thể phát giác thiên chấp của mình thì sẽ bị những điều tốt xấu che lấp, cũng chính là cố chấp giá trị tiêu chuẩn của mình là đúng nên không sợ gì, không cần suy xét hoàn cảnh bên ngoài. Do đó, khi hợp tiêu chuẩn với mình thì khởi tâm ưa thích, còn không hợp tiêu chuẩn thì khởi tâm chán ghét. Tâm phân biệt này chính là nguồn gốc của phiền não. Kì thực, căn bản cảnh giới bên ngoài là giống nhau, cũng giống như cánh tay của Đức Phật, chẳng phải thẳng lên, chẳng phải chúc xuống; nhưng do cách nhìn của mọi người khác nhau, nên có đánh giá và phản ứng không giống nhau. Nếu như chúng ta thường xét lại thiên chấp của mình thì đối nhân xử thế sẽ rất viên dung.

Có một bà mẹ nói với tôi, ở trường con của bà đứng đầu việc đánh lộn với bạn học; kết quả bị thầy giáo xử phạt con bà rất nhiều lần. Thật sự học sinh này đánh lộn với bạn đồng học, là do nó vốn học giỏi, lại không chịu hình phạt của thầy. Thầy giáo không hỏi nguyên do mà quở trách con bà, cho các học sinh kia là tốt, còn con bà là học sinh dở.

Kì thực, học sinh cầm đầu đánh lộn vốn có thành tích không được tốt. Mọi người hãy xem, rõ ràng phạm lỗi giống nhau, nhưng học sinh có thành tích xấu thì vô sự, thành tích tốt thì bị phạt. Thầy giáo dựa vào thành tích tốt, xấu mà đánh giá tiêu chuẩn đức hạnh. Chúng ta thấy sự sai lầm rất rõ ràng, nhưng thầy giáo này hoàn toàn không biết. Trên sự thật, nhiều khi chúng ta cũng như thế, hoàn toàn không biết sự sai lầm của mình.

Do đó, Phật pháp chỉ dạy chúng ta thường quán sát ý nghĩ nhỏ nhặt của mình, đừng bị nó che lấp; bất luận cảnh giới bên ngoài thay đổi như thế nào, nhưng tinh thần vẫn không bị lay động. Như thế thì chúng ta đoạn trừ được phiền não.

2. Phiền não nổi lên như sương mù che mây

Chúng ta học Phật là học trí tuệ của Đức Phật, biết rõ nguyên nhân phiền não khởi lên mà đối diện nó, tiếp nhận nó, xử trí với nó, buông bỏ nó.

Thế giới chúng ta đang sống, đều là thế giới chính mình được thể nghiệm, chưa chắc gì người khác cũng có kinh nghiệm giống nhau. Thế nên, ông nói, ông cho là có lí; bà nói, bà cho là có lí. Nếu như mỗi người đều chấp ý kiến của mình, ai cũng không chịu nhường nhịn; như thế sẽ chống đối nhau mãi mãi không ngừng. Có rất nhiều sự xung đột, tranh chấp là do như thế. Chúng ta cần biết rõ tính yêu thích chủ quan của mình, chính là do tâm phân biệt, hễ có tâm phân biệt thì có chấp trước, phiền não liền theo.

Chúng ta suy nghĩ những thứ phiền não này đều chẳng phải từ hoàn cảnh bên ngoài, mà hoàn toàn là do chính mình chuốc lấy. Giống như mây mù, mưa móc đều giăng khắp mặt đất, nhưng bầu trời xanh ẩn trên tầng mây, không bị khí hậu ở mặt đất làm thay đổi, gây trở ngại, mãi mãi trong xanh. Trí tuệ thanh tịnh, tâm từ bi của chúng ta, giống như bầu trời trong xanh. Nhưng chúng ta bị hiện tượng hoàn cảnh bên ngoài mà sinh ra tâm phân biệt, tâm sân hận, giống như mây mù giăng khắp mặt đất, che lấp trí tuệ thanh tịnh, tâm từ bi vốn có của chúng ta.

Theo cách nhìn thông thường của mọi người, dường như những gì phiền não gây ra không thuận lợi đều do người khác tạo thành. Như có một người đang đi trên đường bình yên, bỗng bị người kia lái xe đụng vào bị thương tích, ngã té nhào thì người ấy có đúng không? Người kia có nghĩ đến lỗi mình không? Người bị xe đụng té, thân thể đã bị thương tích. Nếu như người này vẫn oán trời trách người, khiến cho phiền não giày vò mình thì ngay lúc ấy tâm lí cũng bị thương tổn. Như thế chẳng phải liền bị gục ngã đó sao? Cho nên Phật pháp dạy chúng ta phương pháp đoạn trừ phiền não, chính là dạy chúng ta đừng bị ảnh hưởng hoàn cảnh thay đổi. Vô duyên, vô cớ bị xe đụng gây thương tích, thì hãy nhanh chóng đi khám bác sĩ, vẫn phải báo liền với công an. Mục đích chúng ta báo cho công an biết không phải báo thù, mà là dựa vào tâm từ bi; người đó phạm sai lầm, cần phải bị luật pháp trừng phạt, không thể để họ chạy trốn, để tránh việc họ biết sai mà không sửa, lần sau vẫn đụng người khác; vả lại, chính họ sớm muộn gì cũng sẽ bị người hại. Chúng ta xử sự như thế, tuy thân thể bị thương tích, nhưng trong tâm không có căm giận oán thù, tâm lí không có tổn thương, phiền não không khởi; tai bay vạ gió này chỉ nhỏ nhặt không đáng kể.

Có rất nhiều người nói, tôi là người tốt, vì sao tôi vẫn gặp nhiều khổ nạn như thế? Chúng ta phải biết, có thân vật chất thì có quả báo, có chướng ngại, giống như có đất đai, sông, núi thì có gió, mưa, mây, sương mù. Bậc chân tu cũng phải chịu quả báo. Đức Phật từng bị Đề-bà[1] xô tảng đá văng bị thương, cũng từng mắc bệnh nặng. Mặc dù chịu quả báo và chướng ngại, nhưng tâm các ngài không bị phiền não đau khổ. Bậc chân tu khác với phàm phu ở chỗ này.

Có rất nhiều đến than thở với tôi. Họ nói, bản thân ăn chay, niệm Phật, hết lòng giúp đỡ mọi người, nhưng trong nhà vẫn xảy ra tai nạn bất hạnh. Do đó, họ cho rằng ăn chay, niệm Phật làm việc thiện đều vô ích. Hàng phàm phu gặp khổ nạn thì tín tâm liền thoái chuyển. Bậc chân tu buông xả tự ngã, không bị phiền não làm chướng ngại. Chúng ta học Phật, là phải học tập trí tuệ của Phật, biết rõ nguyên nhân phiền não khởi lên mà đối diện nó, tiếp nhận nó, xử trí với nó, buông bỏ nó. Phật pháp rất dễ, nói tới nói lui đều là những đạo lí này, chỉ cần chúng ta thực hành thật sự thì được an lạc.

3. Phước đức, trí tuệ đời đời bền vững

Dùng nhân sinh hư huyễn, mượn giả tu chân, mưu cầu hạnh phúc cho mọi người, sáng tạo tương lai tốt đẹp cho mình. Đây mới là phước đức, trí tuệ chân thật và đời đời bền vững.

Chúng ta nhìn Phật pháp bằng trí tuệ thì tất cả pháp thế gian, bao gồm vợ con, nhà cửa đều là có tạm thời, chỗ nương tựa huyễn ảo. Nhưng là phàm phu, chúng ta không thể không có tìm kiếm để có chỗ nương tựa. Dựa vào chỗ tạm thời thì thế nào cũng không có chắc chắn. Vả lại, mong muốn bình thường của cuộc sống thế tục, là khuyến khích mọi người hãy nỗ lực hướng thượng; bằng không thì trong cuộc sống sẽ mất đi nguyên nhân và động lực.

Điều này giống như một người sắp chết chìm, họ đang ở giữa biển cả mênh mông mờ mịt, nhìn xa thấy một chùm cỏ trôi dập dềnh, ánh sáng chiếu lại, giống như một chiếc thuyền con. Sau khi, người này nỗ lực bơi về phía trước thì mới phát hiện chân tướng sự thật. Cho dù như thế, nhưng niềm hi vọng muốn sống thúc đẩy bạn không ngừng nỗ lực, nên có sức sống vô hạn. Nếu như, chúng ta bắt đầu bỏ đi niềm hi vọng thì chỉ có ngồi chờ chết.

Thế nên, đối với người phàm phu mà nói, hi vọng là một ảo ảnh xinh đẹp. Mọi người nỗ lực tìm kiếm, sau khi được rồi thì mới phát hiện đó chỉ là mộng huyễn, ảo ảnh. Có những người tỉnh ngộ điều này, nhưng có người vẫn tiếp tục chạy theo ảo ảnh. Một đời người là đang tìm cầu giữa huyễn diệt và tỉnh ngộ, chúng ta muốn biết thì phải tìm kiếm theo ý nghĩa tôn giáo. Do đó, Phật pháp không phản đối mọi người tìm kiếm các thứ thành tựu. Chỉ là từ xưa đến nay, bất cứ người nào phát minh sáng tạo để lại danh tiếng vang dội; hoặc là gặp phải tình cảnh gian truân thê thảm, đều chỉ là ghi lại một đoạn nhân sinh không có sự sai biệt tuyệt đối ‘tốt’ hay ‘xấu’.

Trí tuệ Phật pháp là nhắc nhở mọi người tu học. Chúng ta thành tựu ở thế tục, nghĩa là chỉ vào đời làm những việc thiện thế gian; nếu như chúng ta chấp huyễn cho là chân, bất chấp tất cả liều mạng mà làm thì chỉ có rơi vào tình cảnh kiệt sức mất mạng mà chẳng được gì. Do đó, chúng ta ‘tùy thuận tất cả tướng mà lìa tất cả tướng.’ Nỗ lực xây dựng nhân sinh mà chẳng đắm trong thành tựu, không cần lo được, lo mất; lại không nên do đó mà hại người, hại mình. Trong xã hội có rất nhiều người thể hội việc này, nên họ có thể giảm bớt rất nhiều về sự tranh chấp, cấu xé, gây nhiều phiền não ở thế gian. Chúng ta cũng dùng phương hướng này thì mới thể điều chỉnh mình, nỗ lực thực hành; dùng nhân sinh hư huyễn, mượn giả tu chân, mưu cầu hạnh phúc cho mọi người, là sáng tạo tương lai tốt đẹp cho mình. Đây mới là phước đức, trí tuệ chân thật và đời đời bền vững.

4. Tùy tướng mà li tướng

Thuyền chạy trên nước không để vết, chim bay không để lại hình bóng; thành, bại, được, mất đều không làm tâm lay động, đó chính là bậc đại trí tuệ tự tại, giải thoát.

Chúng ta sống ở thế giới này, trong một ngày làm việc và nghỉ ngơi, nhất định phát sinh mối quan hệ qua lại giữa người và sự vật ở bên cạnh. Có mối quan hệ qua lại rồi thì thế nào cũng xảy ra các thứ tình cảm vui buồn, mừng giận; khi hài lòng thì hớn hở vui mừng; lúc nản chí thì chán ngán buồn rầu. Đây là tâm lí phản ứng chung của mọi người. Nhưng nếu chúng ta có trí tuệ, suy nghĩ thấu suốt về nguồn gốc vui buồn, mừng giận này, chẳng qua chỉ là phần thô, phản ứng tâm lí bề ngoài; biết rõ như thế thì tinh thần của chúng ta thì không dễ gì bị những hiện tượng bên ngoài làm lay động.

Trí tuệ Phật pháp dạy chúng ta, khi xử lí các việc lớn nhỏ trong cuộc sống, chỉ cần tự hỏi mình đã hết sức trừ bỏ thành kiến tốt xấu của cá nhân chưa? Đồng thời, cũng phải nỗ lực hết mình, chọn lựa việc làm thích hợp nhất thì được yên lòng. Còn về việc thành bại, được mất sau khi lựa chọn, không cần lo lắng. Đây gọi là ‘tùy tướng mà li tướng’.

Thế nên, tôi đặc biệt nhấn mạnh ‘cố gắng bài trừ thiên kiến tốt, xấu của cá nhân.’ Bởi vì, người bình thường rất dễ theo lập trường tốt xấu của mình để nhận xét sự việc nào đó. Do đó mà không tránh khỏi giữa chọn lọc và đối đáp, dẫn đến rất nhiều phiền não. Dựa vào thiên chấp tốt của mình và thói quen để nhận xét, thường là một loại kích thích, thiếu thời gian xét lại mình, thông thường cũng không chú ý là có di chứng hay không, đương nhiên sẽ là mối lo về sau vô cùng.

Do đó, trước khi chúng ta làm việc phải yêu cầu ‘đem hết sức người mà làm việc,’ chính là tùy tướng, cũng chính là tùy duyên. Chúng ta đã đem hết sức rồi, thành hay bại là ở trời; thắng không kiêu, bại không nản, cũng không cần tranh công lao hay từ chối, như thế là ‘li tướng’. Thuyền chạy trên nước không để vết, chim bay không để lại hình bóng; thành bại, được mất đều không làm cho tâm lay động. Đây là bậc đại trí tuệ tự tại, giải thoát. Vì thế, tùy tướng cần phải có trí tuệ, li tướng cũng phải có trí tuệ.

Nhưng cảnh giới tu dưỡng này, chẳng phải trong thời gian ngắn mà có thể đạt được. Đối với người bình thường, phần đông mọi người đều theo vui buồn lẫn lộn ở hoàn cảnh bên ngoài. Nếu chúng ta đặt mục tiêu tùy tướng mà li tướng để tu dưỡng thì có thể thường nhắc nhở mình. Như thế, bất cứ là vui hay buồn, cũng không bị đắm chìm quá mức; cho dù chúng ta vấp ngã, cũng sẽ đứng lên nhanh chóng, không đến nỗi ngã một lần thì không đứng dậy được.

5. Biết nhiều và sự chướng ngại từ tri thức

Chúng ta phải tận hưởng lợi ích của Phật pháp, vẫn phải xác thực theo lời Phật dạy để nỗ lực thực hành thật tu, thật chứng. Chúng ta thực hành một phần thì có thể nghiệm một phần.

Đối với người bình thường, phần đông là nói hay mà làm dở. Họ nói được, nhưng làm không được; người thông minh và phần tử tri thức đặc biệt là như thế. Những người này đọc sách nhiều, nên tư tưởng hiểu biết rộng, có cơ hội biết rất nhiều người; lại thêm thông minh, có khả năng học một biết mười, có thể nói họ giỏi hơn người khác. Nhưng chúng ta kiểm tra việc làm của họ, thường nói một đường, làm một nẻo. Tuy họ khẳng định tôn giáo, đối với xã hội có ý nghĩa giáo hóa thấu tình đạt lí, nhưng chính họ không tin tôn giáo. Họ cho rằng tôn giáo là một hiện tượng xã hội, cũng chính là một hiện tượng tâm lí.

Nhưng nói theo phần đông mọi người các tầng lớp trong xã hội thì tôn giáo có khả năng an ủi mọi người, ổn định xã hội; cho nên, tôn giáo là công cụ giáo hóa rất tốt. Nhưng họ cho rằng tự mình có một tiêu chuẩn đạo đức để yên thân gửi phận, không cần sự hướng dẫn và giúp đỡ của tôn giáo. Hiện tượng này có thể nói là ‘sở tri chướng’ hoặc ‘tri kiến chướng’.

Sở tri chướng là bị tri thức học vấn che lấp bản tính thanh tịnh của mình, sinh ra quan niệm vào trước là chủ. Sau đó, đóng khuôn quan niệm này để phê bình, phủ định tôn giáo, gây trở ngại đạo đức thực tiễn và thể nghiệm trong tâm về tín ngưỡng tôn giáo. Họ tự cho mình đứng trên lập trường hoàn toàn khách quan. Thực ra, người trong cuộc có thể không khách quan, nhưng người ngoài cuộc bình luận không rốt ráo thì cũng chưa chắc là khách quan. Chỉ sợ mình hiểu biết hạn hẹp mà tự cho mình cái gì cũng biết, không những đối với mình hình thành sự chướng ngại mà còn hướng dẫn người khác sai lầm, trở thành chướng ngại tín ngưỡng tôn giáo.

Nói chung, phần tử tri thức của Trung Quốc học văn khoa đều có khuynh hướng lập trường không có tôn giáo, dường như mọi người tiếp nhận tư tưởng chủ nghĩa nhân văn thì dễ dàng, cho rằng tín ngưỡng tôn giáo và hiện thực nhân sinh đều không phù hợp; đặc biệt họ có rất nhiều thiên kiến về Phật giáo. Có người ngoài việc đối chiếu những quy tắc công trình khoa học, họ còn phải giữ vững quan điểm lịch sử duy vật, nhưng họ lại dễ dàng tiếp nhận tôn giáo. Cho nên, cũng có thể nói người học vấn cao thì có sở tri chướng, nhưng có rất nhiều người học rộng, vẫn chọn một tôn giáo để nương tựa suốt đời. Những năm gần đây, phong tục vẫn giống như thế, nhưng người trong nước hay ngoài nước, phần tử tri thức tin Phật, học Phật ngày càng đông.

Trong kinh Lăng-nghiêm có một đoạn Tôn giả A-nan tự thuật: “Tuy có đa văn, nếu không chịu tu hành, không nghe pháp thì giống như người nói ăn, nhưng không bao giờ no được.” Tôn giả A-nan là một vị học vấn giỏi nhất trong chúng đệ tử rất đông của Đức Phật. Nhưng Tôn giả phát hiện mình chỉ dừng lại ở trình độ ‘hiểu rõ’ Phật pháp, vẫn không thể cảm nhận thực tế cuộc sống để thể nghiệm được diệu dụng Phật pháp thật sự. Thế nhưng, Đức Phật thường khen Tôn giả A-nan là đa văn đệ nhất; cho nên đa văn cũng đáng được khen thưởng.

Nhưng mà đa văn vẫn phải thực tiễn, phải có kinh nghiệm hiểu biết nội dung. Người bình thường chỉ dừng lại theo thứ tự ‘biết’ và ‘hiểu’, giống như học giả khảo cổ khảo sát di vật văn hóa thời cổ, nhưng không thể trở thành cổ nhân. Cho nên, chúng ta phải tận hưởng lợi ích của Phật pháp, vẫn phải xác thực theo lời Phật dạy để nỗ lực thực hành thật tu, thật chứng. chúng ta thực hành một phần thì có thể nghiệm một phần. Bằng không thì trên phương diện tu hành thành tựu, cho dù là tiến sĩ Phật học, cũng chưa chắc bằng người không biết chữ.

6. Vô niệm không phải là đoạn niệm

Gọi là ‘vô niệm’ thì không có vọng niệm, tâm không có phiền não, cũng chính là ‘tâm không chỗ trụ.’ Thấy chỉ là thấy, nghe chỉ là nghe mà không khởi ý niệm tốt, xấu.

Có rất nhiều người tự cho mình hiểu Phật pháp, nhưng họ chỉ nắm được vài điều thông thường, hiểu biết lờ mờ, mà dám tùy tiện lí giải Phật pháp. Gần đây, tôi nghe họ thuyết pháp rất kì lạ. Họ nói: “Phật pháp dạy mọi người ‘đoạn niệm,’ khi gặp phiền não thì vứt bỏ nó, chẳng nghĩ đến thì phiền não không còn.” Thật ra, trong Phật pháp về căn bản không có danh từ ‘đoạn niệm.’ Tôi chỉ nghe nói: “Cảnh tâm hành dứt bặt, đường ngôn ngữ đoạn rồi.”[2] Ở đây, Phật pháp nói là ‘vô niệm.’ Gọi là ‘vô niệm’ thì không có vọng niệm, tâm không có phiền não, cũng chính là ‘tâm không chỗ trụ.’ Thấy chỉ là thấy, nghe chỉ là nghe mà không khởi ý niệm tốt, xấu. Bởi vì, trong tâm có phân biệt tốt, xấu thì sẽ có chấp trước; có ưa thích thì muốn chiếm hữu, có chán ghét thì muốn loại trừ; suy hơn tính thiệt thì phiền não nổi lên.

Vì thế, chúng ta dùng ‘đoạn niệm’ để đối phó phiền não; như thế là cái gì cũng không nghĩ đến, để cho đầu óc tạm thời nghỉ ngơi. Đây là nói người suy nghĩ nhiều rất mệt thì dễ có hiệu quả, nhưng hoàn toàn chẳng có phương pháp giải quyết căn bản phiền não. Chúng ta muốn đoạn trừ phiền não thật sự thì phải đối diện nó, tiếp nhận nó, xử lí nó, buông xả nó, nhưng không phải chạy trốn nó.

Có một nhà thơ nói: “Nếu như sinh mạng chỉ là một li nước trong, ta thà rằng xem nó như li rượu đắng.” Nhận xét này, nhìn theo lập trường Phật pháp là rất tiêu cực, bi quan. Có rất nhiều người cho rằng Phật pháp là tư tưởng trốn đời, giống với tư tưởng ở ẩn của Trúc Lâm Thất Hiền[3] vào thời kì Ngụy, Tấn nói nhập làm một. Kì thật, tư tưởng này chẳng phải Phật pháp chân chánh. Tất nhiên, hiện nay cũng có những Phật tử cho rằng tọa thiền thời gian dài, làm cho tâm yên tĩnh, chính là tu hành. Nếu chúng ta nghĩ như thế thì rất dễ sinh ra tư tưởng chán đời, cũng rất dễ xuất gia. Nhưng thật sự là Phật pháp rất tích cực đi vào đời. Lục tổ đàn kinh nói:

“Phật pháp ở thế gian

Không lìa thế gian giác.”

Trong kinh Duy-ma-cật cũng nói: “Ví như vùng đất cao nguyên không mọc hoa sen, chỉ ở nơi thấp đất bùn, hoa này mới mọc.” Nghĩa là hoa sen mọc ở đất bùn mà không mọc ở núi cao. Ở trong phiền não của chúng sinh mà quán tưởng nhân duyên mà hiểu rõ tất cả hiện tượng ở thế gian rõ ràng đều là huyễn hóa, thì ngay lúc đó tức là không; cho nên không còn khởi phiền não.

Đạo lí này có rất nhiều người đều hiểu rõ, nhưng họ không biết ứng dụng. Phật pháp khó được nghe, Phật pháp khó thực hành; nhưng Phật pháp không có huyền bí khó hiểu. Cho dù người bình thường có nghe được, cũng xem Phật pháp chỉ là lí luận nói được mà không làm được. Kì thật, Phật pháp rất đơn giản, nói đi nói lại chỉ có vài câu, quí ở thực hành thật sự. Từ nhỏ, tôi cảm thấy Phật pháp rất có ích; cho nên, tôi một lòng hoằng pháp, tín tâm kiên cố.

7. Thế nào là tu hành?

Tu hành chính là sửa đổi triệt để thói quen của chính mình, để cho mình làm một người có lí tính, có trí tuệ. Sửa đổi mình là tâm thái an nhiên khi đối diện mọi hoàn cảnh.

Có rất nhiều người cho rằng ăn chay, tụng kinh, lạy Phật sám hối, làm công tác từ thiện; thậm chí, tu thần thông, tu đạt được năng lực không cần đoán cũng biết; hoặc khai thông khí mạch trên thân, gọi đó là tu hành.

Thật ra, nói về tu hành rất đơn giản, chính là sửa đổi sự sai trái hành vi, ngôn ngữ của chính mình, thông qua bất kì phương pháp nào mà đạt được mục đích này, đó là tu hành.

Vì thế, trên đây nói tụng kinh, lạy sám, ăn chay, niệm Phật; tu những pháp này thật sự giúp cho thân tâm chúng ta được an lạc, yên ổn. Do đó, nó cũng là một phương pháp tu hành, nhưng không phải mục đích của sự tu hành. Việc này, chúng ta phải hiểu rõ rồi mới thực hành. Còn về tu thần thông, theo Phật giáo chỉ chủ trương nhân duyên, quả báo. Tất cả mọi việc đều do nghiệp lực trong đời quá khứ lôi kéo mà chịu quả báo hiện tại; chúng ta muốn tương lai thoát khỏi thì cũng phải dựa vào sự nỗ lực của chính mình mới dần dần chuyển biến tốt đẹp. Nếu chúng ta dựa vào thần thông thì chẳng giúp được gì.

Có rất nhiều người hát Phạm bái[4] rất hay; họ tụng kinh, trì chú cũng rất thành thạo; như thế, tất nhiên là rất tốt, nhưng đây chỉ là bước đầu vào cửa tu hành, đó gọi là: “Tụng kinh không bằng hiểu kinh, hiểu kinh không bằng thực hành theo kinh dạy.” Kinh điển dạy chúng ta phương pháp tu hành. Chúng ta biết phương pháp, hiểu rõ phương pháp, vẫn phải từng bước thực hành chính xác thì mới đạt được lợi ích tu hành. Nếu như trong cuộc sống hàng ngày, trong lúc làm việc mà chúng ta vẫn giống như trước đây, động một tí thì oán trời trách người, càu nhàu suốt ngày. Như thế thì biểu hiện ăn chay, tụng kinh chỉ là công phu bề ngoài; còn về sửa đổi thói quen, hành vi của mình và quan niệm thì không có chút mảy may nào.

Chúng ta phải sửa đổi hành vi và quan niệm, đó chính là sửa đổi những thói hư tật xấu như tham, sân, si, mạn, nghi v.v…Khi sống chung với mọi người, không những chúng ta phải dùng tâm từ bi bao dung, tha thứ lỗi lầm của người khác, mà còn phải phát huy thông minh, tài trí của mình thì mới đem thành quả cống hiến cho mọi người. Bất cứ chỗ nào, lúc nào, chúng ta thường vận dụng lí tính và trí tuệ để giải quyết các loại phiền não. Cho nên, một người tu hành có định lực mạnh mẽ, chẳng những đối với mình có lợi ích mà hành vi, cử chỉ của họ cũng nhất định làm lợi ích cho người khác.

Trước đây, có chị vợ đến cầu xin tôi giúp đỡ, do chồng chị mê nhậu nhẹt, cờ bạc. Mỗi lần anh ta nhậu trở về nhà thì gây ồn ào, không những gà bay, chó chạy trốn mà ngay cả các con cũng sợ khi thấy ba về. Tôi hỏi:

- Vậy chị có muốn li hôn không?

Chị nói:

- Dạ, con hi vọng tìm cơ hội để cứu vãn cuộc hôn nhân và mái ấm gia đình.

Tôi đề nghị chị hãy chí thành tụng hai chục nghìn biến chú Chuẩn đề thì có khả năng chuyển biến tốt. Kết quả, chồng chị vẫn nghiện rượu như ngày nào, chẳng có thay đổi chút nào; ngược lại, chính chị thay đổi. Chị nói, sau khi tụng hai chục nghìn biến chú Chuẩn đề thấy tâm mình an ổn, tâm hoàn toàn yên tĩnh thì tâm từ bi và tâm trí tuệ giống như nước suối tuôn ra. Suốt ngày, chị không còn trách mắng chồng nữa, cũng không than thở số phận hẩm hiu, gặp phải ông chồng hung hăng, cờ bạc. Lúc này, chị hết lòng nuôi dưỡng ba đứa con, vẫn bảo các con chấp nhận sự không biết hối cải, ngu si đáng thương của ba.

Do đó, mỗi lần chồng chị uống say xỉn về, chị và các con không chạy trốn, cũng không cãi nhau; cả bốn mẹ con ân cần chăm sóc, sự quan tâm xuất phát từ đáy lòng họ. Dần dần, chồng chị biết hối cải, cảm thấy hổ thẹn khi gây ồn ào trong nhà. Bầu không khí trong gia đình chị cải thiện từ từ.

Thế nên, tu hành chính là thay đổi tận gốc thói quen của chính mình, để mình làm một người có lí trí, có trí tuệ. Thay đổi mình là tâm thái an nhiên khi đối diện hoàn cảnh. Như thế, khi gặp hoàn cảnh xấu, chúng ta cũng bình thản đối phó. Làm được như thế, không những giúp cho thân tâm chúng ta được an lạc, mà còn giúp cho người thân mở rộng trí tuệ, đạt được thân tâm an lạc. Đây chính là tu hành.

8. Thân thể của bạn có phải của bạn chăng?

Khi có tình huống tâm chẳng phải do mình, cho dù tâm không thể điều khiển thân, hoặc thân không chịu sự chỉ huy của tâm; như thế, không phải tự tại thật sự. Nếu bỏ mặc thân thì là sai lầm.

Có một lần, chúng tôi đang tổ chức thiền thất. Khi ấy, có một vị tỉ-khưu đi kinh hành, mọi người đều đi chậm thong thả, chỉ có tỉ-khưu này đi cứng đơ, hình dáng rất buồn cười, giống như tượng gỗ. Tôi đi qua nhìn thầy, mắt thầy đang nháy. Tôi nhìn thầy, thầy cũng nhìn tôi. Tôi hỏi:

- Thầy đang nhập định phải không?

Thầy nói:

- Dạ, con không nói được.

Điều này chẳng phải có chút kì lạ? Rõ ràng thầy đang nói mà thầy bảo nói không được. Tôi hỏi:

- Như thế, chẳng phải thầy đang nói đó sao?

- Dạ, con không được động?

- Chẳng phải miệng thầy đang động?

- Thân con không được động, con cảm giác nó không phải con, chẳng phải thân thể con. Hiện tại con là người tự do, cho dù thân thể bỏ mặc con, con cũng chẳng quan tâm đến thân thể.

Đây là cảm giác sai lầm, không phải thân, nên thầy không nhận sự quan tâm, là tâm của thầy cố ý không quan tâm đến thân của thầy. Thầy cho rằng thân và tâm tách ra. Kì thật, thân tâm của thầy đều không có tách ra. Có rất nhiều người, cho dù không còn công phu tu hành, nhưng cũng có kinh nghiệm như thế, giống như thân không chịu tâm chỉ huy, không nghe tâm sai khiến; dường như thân tâm tách rời, mạnh ai nấy làm.

Nếu như bạn có ảo giác như thế thì chứng tỏ công phu tu hành của bạn sai lầm. Bởi vì công năng tu hành là phải làm thân tâm hợp một. Bất cứ lúc nào, nơi nào cũng luôn nhắc nhở, buông xả. Khi thân bị đau ốm, tâm vẫn phải tự tại, không nên vì thân đau ốm mà tâm buồn phiền. Như thế, không gọi là thân tâm tách rời, là thân tiếp nhận sự ảnh hưởng và chỉ huy của tâm, thân tâm hòa hợp nhau; tâm muốn thân làm gì thì nó làm thế đó. Vì thế, có những bậc chân tu có năng lực làm chủ thân tự do tự tại, hiện ra các thứ thần thông, đó chính là thân làm theo tâm.

Tôi không có thần thông, công phu tu hành của tôi cũng không giỏi; cho nên tôi thường hay mỏi mệt, rất suy yếu; ngay cả lúc bị bệnh, tôi vẫn thuyết pháp, khai thị cho mọi người; hoặc tiếp khách như thường. Đợi đến khi giảng kinh xong, khách ra về, tôi phải nằm nghỉ liền, thân như không có xương. Tôi đợi đến có việc khác đến thì lập tức ngồi dậy.

Năng lực này là gì? Là năng lực của tâm. Năng lực này, mỗi người đều có thể hiểu rõ nhờ công phu luyện tập tu hành. Tôi không có năng lực mạnh mẽ, nhưng có thể làm được, nên tôi tin người bình thường chỉ cần luyện tập thì cũng có thể làm được.

Tôi nghĩ mọi người đều tin nguyên lý tướng từ tâm sinh, tướng theo tâm mà thay đổi. Một người có thể tu dưỡng tính tình từ bên trong, và thay đổi hình dáng và tướng mạo bên ngoài. Do đó, một người tu hành tâm thanh tịnh, ít muốn, nghiêm trì giới luật, có tâm từ bi thì hình dáng và tướng mạo của họ liền thay đổi, khiến cho mọi người nhìn thấy họ liền sinh tâm hoan hỉ.

Cho nên, khi bạn phát giác thân mình không nghe theo tâm, nhưng có tình huống tâm không do mình, cho dù tâm không thể điều khiển thân, hoặc thân không chịu sự chỉ huy của tâm; như thế thì không phải tự tại thật sự. Nếu bỏ mặc thân thì là sai lầm, chúng ta phải cẩn thận phân biệt.

9. Nghiệp báo của cá nhân thì cá nhân tiêu trừ

Sinh tử phiền não của mỗi người đều phải dựa vào sự tu hành của chính mình mà được giải thoát. Cho dù thân như cha mẹ, anh em cũng không thay thế được; giống như ăn cơm, mình ăn thì mình no, không có ai có thể ăn giúp ai được.

Tôi thường nghĩ xã hội ngày nay thật là không thể nghĩ bàn, việc gì cũng diễn ra rất nhanh chóng, ngay cả việc tu hành cũng không ngoại lệ. Có rất nhiều người đều cho rằng tìm đến một vị Đại sư, sẽ có một phương thuốc bí truyền thì có thể thành Phật lập tức. Làm sao có việc tùy tiện như thế? Tất nhiên, chúng ta cũng không thể trách mọi người có cách nghĩ như vậy.

Chúng ta xem trong kinh Lăng-nghiêm, thấy Tôn giả A-nan đệ tử của Đức Phật, sám hối trước Đức Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Con cho rằng ở bên cạnh Đức Phật thì sẽ được thời cơ rất thích hợp, Ngài sẽ ban cho con trí tuệ giải thoát sinh tử.” Kết quả là Đức Phật vẫn phải hết lời khuyên bảo, khéo léo dắt dẫn từng bước, chỉ đường giải thoát cho Tôn giả, giúp cho Tôn giả tự nhận ra bản tâm thanh tịnh, dựa vào giác ngộ nơi chính mình để thoát sinh tử.

Gọi là “sinh tử của cá nhân thì cá nhân biết, nghiệp báo của cá nhân thì cá nhân tiêu trừ.” Chính là nói, sinh tử phiền não của mỗi người đều phải dựa vào sự tu hành của chính mình mà được giải thoát. Cho dù thân như cha mẹ, anh em cũng không thay thế được; giống như ăn cơm, mình ăn thì mình no, không có ai có thể ăn giúp ai được.

Có lẽ mọi người đặt nghi vấn: “Tôi thường nói làm công đức hồi hướng cho bạn bè, người thân; vậy có mâu thuẫn không?” Thật ra, không có mâu thuẫn. Tôi nói thí dụ người thân qua đời; chúng ta trợ niệm giúp họ, đó là vì thần thức linh hồn của người chết vẫn còn, chúng ta niệm Phật, họ nghe thấy, nên họ cũng niệm Phật theo chúng ta. Cho nên, chúng ta có trợ giúp cho họ.

Cũng có người vì bạn thân gặp hoàn cảnh khó khăn, nên muốn giúp họ tiêu nghiệp, liền đi lạy sám. Điều này có tác dụng không? Tất nhiên là có tác dụng. Nhưng phải làm cho người đó bằng lòng tin tưởng thì hiệu quả mới mạnh; bằng không thì hiệu lực rất yếu. Đương nhiên, nguyên nhân lạy sám hối là có hiệu quả. Nhưng không phải nói, chúng ta lạy sám hối rồi thì quả báo, tội nghiệp của mình thì có thể đổ cho Đức Phật, Bồ-tát là xóa sạch hết cả. Các Ngài không thể chịu tội báo thay cho chúng ta, chỉ có năng lực giúp chúng ta là làm người đứng ra bảo đảm, cam kết nợ nần chồng chất của chúng ta, tương lai sẽ trả hết dần dần. Trước tiên giúp cho chúng ta tạm thời vượt qua cửa ải khó khăn, hiện tại không đau khổ như thế.

Chúng ta vẫn thường nghe nói: “Một người con xuất gia thì cửu huyền được siêu thăng.” Thật ra là chỉ sau khi người con xuất gia, có thể dùng nhiều phương thức để cầu siêu cho tổ tiên, thỉnh ông bà về cùng nhau nghe Phật pháp, tham gia hoạt động cộng tu; cho nên đạt được lợi ích từ Phật pháp. Giống như Đức Phật Thích-ca Mâu-ni sau khi thành đạo, Ngài lên cung trời Đao-lợi thuyết pháp cho vong linh mẹ, Ngài cũng về hoàng cung thuyết pháp cho cha, giúp cho song thân được giải thoát. Đức Phật có thần thông quảng đại như thế, vẫn không thể làm tiêu trừ nghiệp chướng thay cho cha mẹ, chỉ có hướng dẫn cha mẹ tu hành; huống gì chúng ta còn phàm phu tục tử?

Vì thế, chúng ta không thể chịu quả báo thay thế cho bất cứ người nào, cũng chẳng có người nào chịu quả báo thay cho chúng ta. Chúng ta phải dựa đôi chân của chính mình, nỗ lực từng chút trong đời sống tu hành thì mới đáng tin cậy, mới đạt được giải thoát thật sự.

Có rất nhiều người cầu thành tựu nhanh chóng, họ cho rằng tu hành cũng có thể đi đường tắt, hèn nào ngày càng đông người, tự phong mình là thầy, tự xưng mình có năng lực giúp cho mọi người khác khai ngộ, chỉ trong thời gian rất ngắn giúp cho mọi người đạt được mục đích thành Phật. Nếu như nói theo chánh tín Phật pháp thì đúng là dối mình, dối người. Chúng ta đừng đẻ mắc lừa nhé!

10. Giữ giới luật và tính không chấp trước

Tất cả danh lợi, tiền của, sắc đẹp ở thế gian, chẳng những người Phật tử chúng ta không bị đắm nhiễm mà còn phải tích cực cống hiến cho xã hội. Như thế mới là bộ mặt chân thật của Phật giáo.

Hòa thượng Nhất Hưu[5] uống rượu, ăn thịt; Hòa thượng Tế Công[6] cũng là một người xuất gia có nhiều truyền kì sắc thái như thế. Câu chuyện của hai vị này, khiến cho nhiều người cho là Phật pháp đã dạy mọi người không có chấp trước thì trong tâm không có chướng ngại. Như thế thì các vị cao Tăng ngộ đạo thật sự, cho dù không bị chấp vào những việc nhỏ nhặt, thân sống buông lung, nhưng cũng không bị ảnh hưởng đến sự tu hành thành tựu của các ngài.

Trên sự thật, chúng ta đọc qua câu chuyện của hai vị này, thật là xuất sắc, cảm động lòng người. Nhưng chúng ta nhìn hành vi một vị cao Tăng thì không thể cho là mẫu mực. Chúng ta phải biết Đức Phật là Đấng giác ngộ, giải thoát; nhưng Ngài vẫn nghiêm trì giới luật và chưa hề buông lung. Khi Đức Phật Thích-ca Mâu-ni còn tại thế, do có nhóm sáu tỉ-khưu[7], trước khi chứng quả A-la-hán, các thầy sống phóng túng, cho nên Đức Phật mới chế giới luật, mỗi giới để thúc liễm hành vi của họ.

Từ Ấn Độ, Trung Quốc, Tây Tạng đến Nhật Bản, các vị cao Tăng đều nghiêm trì giới luật. Những người như Hòa thượng Nhất Hưu, Hòa thượng Tế Công là trường hợp đặc biệt rất ít có. Bậc có trí tuệ không có nghĩa là không giữ gìn oai nghi. Tôi biết hiện nay ở Đài Loan có các môn phái công khai uống rượu, ăn thịt; quan hệ nam nữ cũng rất tùy tiện, mà tự cho mình là thánh nhân đã chứng quả thứ ba[8], quả thứ tư[9]. Theo truyền thống Phật giáo thì không thể chấp nhận hành vi này. Nhưng những người bình thường trong xã hội thì rất dễ bị họ lôi kéo, truyền thống Phật giáo thì bị họ cho rằng đó là phái bảo thủ cố chấp.

Kì thực, sự nhiếp tâm nghiêm trì giới luật vẫn rất an toàn. Vào khoảng năm 1980, ở nước Mỹ có rất nhiều người tự cho mình là Thiền sư, Thượng sư, đã được giải thoát tự tại, làm loạn quan hệ nam nữ và đồng tính luyến ái. Khi mới bắt đầu vẫn có một số thanh niên nước Mỹ tiếp nhận. Nhưng về sau, vị thầy của các tôn giáo này đều bị đam mê vào rượu ngon và gái đẹp; hoặc vì tham tiền và không làm rõ mối quan hệ đồng tình luyến ái, khiến xảy ra nhiều vấn đề rắc rối, nên các vị này đều bị đuổi ra khỏi đạo tràng. Từ đó, họ bị thất bại. Kết quả, trong thời gian này, Phật giáo ở Mỹ bị suy yếu, ngay cả hệ thống Phật giáo Ấn Độ và Tây Tạng cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng.

Hòa thượng Nhất Hưu và Hòa thượng Tế Công thật sự không có ăn chơi trác táng như các vị sư này. Hòa thượng Tế Công uống rượu, nhưng tuyệt đối không ăn thịt chó; huống gì gái đẹp ngài cũng không nhiễm. Trong xã hội có rất nhiều người chấp vào Phật pháp một chiều mà phỏng đoán bậy, lại cho rằng đó là đúng theo tinh thần của Phật pháp; cho nên mọi người phải chú ý phân biệt.

Phật pháp là đi vào cuộc đời giáo, hóa thế gian và làm cho xã hội tốt đẹp. Tôn giáo cao cấp là tích cực tham gia xã hội. Tất cả danh lợi, tiền của, sắc đẹp ở thế gian, chẳng những Phật tử chúng ta không bị đắm nhiễm mà còn phải tích cực cống hiến cho xã hội. Như thế mới là bộ mặt chân thật của Phật giáo.

11. Thế nào là hạnh Bồ-tát?

Hạnh Bồ-tát là ‘dừng ác, tu thiện, độ chúng sinh.’ Cụ thể thiết thực ngay trong cuộc sống hàng ngày, chính là phương pháp chung sống với người khác, với chính mình.

Chúng ta muốn hiểu rõ thế nào là ‘hạnh Bồ-tát?’ thì trước phải làm rõ thế nào là ‘Bồ-tát?’ Chúng ta thấy trong kinh điển ghi lại, Bồ-tát không có hình tướng nhất định. Trước khi, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni thành đạo, những đời sống kiếp trước, Ngài đã từng làm tỷ-khưu, làm vua, làm vương tử, cư sĩ, cho đến làm các loài động vật như: nai, trâu, voi, ngỗng v.v…đều được gọi là nhân hạnh thành Phật, cũng chính là giai đoạn tu hành đạo Bồ-tát. Các vị đại Bồ-tát như Bồ-tát Quán Thế Âm, Bồ-tát Địa Tạng cũng là như thế. Các ngài thị hiện rất nhiều hình tướng ở thế gian này để cứu khổ, cứu nạn cho chúng sinh. Khi chúng sinh cần Bồ-tát làm gì thì các ngài hiện ra thân hình ấy ở bên cạnh chúng ta.

Vì thế, Bồ-tát không phải là vị thần ngồi ở trên cao, mà là thường hiện thân tướng phàm phu, ở thế gian tu hành tùy duyên giáo hóa chúng sinh; cho nên, Bồ-tát chủ yếu giúp cho chúng sinh phát tâm Bồ-đề, nhưng không chấp vào hình dáng đặc biệt nào. Người nào phát tâm Bồ-đề là: “Nguyện đoạn tất cả điều ác, nguyện tu tất cả điều thiện, nguyện đoạn tất cả chúng sinh.” Lại nữa, hạnh Bồ-tát là phát nguyện tu học từ bi và trí tuệ. Do đó chúng ta đủ biết, ai cũng có thể trở thành Bồ-tát ngay hiện tại và thành Phật ở tương lai.

Hạnh Bồ-tát là ‘dừng ác, tu thiện, độ chúng sinh.’ Cụ thể thiết thực ngay trong cuộc sống hàng ngày, là một phương pháp chung sống với người khác, với mình. Cũng chính là nói, khi mình sống chung với người khác thường khởi tâm từ bi, tôn trọng, biết ân, bố thí; khi họ sống chung với mình thì thường khởi tâm tinh tấn và tâm thanh tịnh, biết hổ thẹn, sám hối, chính là bạn mới phát tâm Bồ-tát, tu học hạnh Bồ-tát.

Điều đặc biệt tôi phải nhấn mạnh là hổ thẹn khác với tự ti, sám hối khác với hối hận. Khi chúng ta xem xét lại tâm niệm và hành vi của mình; nếu như việc đáng làm mà chúng ta không chịu làm, liền cảm thấy hổ thẹn và biết khích lệ, quyết tâm lần sau cố gắng làm. Còn đối việc không đáng phạm mà phạm, thậm chí họ vừa phạm sai lầm, lại phạm nữa; nếu họ biết sám hối, một mặt có thể kịp thời tỉnh ngộ sửa đổi lỗi lầm, một mặt cũng đủ cam đảm chịu hậu quả, không chối cãi chạy tội, đùn đẩy trách nhiệm. Do đó, tâm hổ thẹn, tâm sám hối là hành vi tích cực, tự khuyến khích mình, tự xét mình và tự thẹn mình không bằng người, tự cho mình ở đâu cũng không bằng người. Nhưng có người không ngừng phạm sai lầm, lại liên tục hối hận là tuyệt đối không giống nhau.

Còn có một điểm cần nhấn mạnh là phàm phu chúng ta phát những nguyện Bồ-tát rồi, là hài nhi Bồ-tát mới phát tâm. Hài nhi thì phải đi chưa vững, té rồi lại đứng lên, đứng lên rồi lại té, phải học tập từ từ, trưởng thành dần dần. Cho nên, chúng ta không sợ phạm lỗi lầm, lại không nên sợ không đủ năng lực; chỉ cần xác lập phương hướng, tâm ý đã định, phát tâm ngày càng tiến bộ thì nhất định có ngày được thành tựu viên mãn. Chúng ta phải biết, mới phát tâm tuy khó, nhưng giữ vững lâu dài tâm không thay đổi lại càng khó hơn; phần đông mọi người phát tâm không kiên cố. Nếu chúng ta giữ được phát tâm lâu dài thì mới có tinh thần Bồ-tát thực tiễn.

12. Tín tâm không thoái chuyển

Chúng ta đều là phàm phu, nhưng nếu chúng ta có tâm học tập theo Đức Phật, Bồ-tát thì phải thường khuyến khích mình, lười biếng rồi phải tinh tấn lên.

Khi tham gia pháp hội có rất nhiều người vừa xướng bài Phát nguyện văn, hoặc bài Kệ sám hối thì không nén được liền cảm động rơi lệ. Đây là trường hợp đang cộng tu, do đại chúng tu hành mà tạo ra bầu không khí, hoàn cảnh như thế; hoặc là nội dung văn phát nguyện quá hay, làm cho mọi người cảm động. Đây là cảm động mình được hạnh phúc, nên phát đại nguyện như thế, cũng là vì cảm nhận được tâm từ bi vĩ đại của Đức Phật, Bồ-tát mà cảm động. Tình cảm này chưa hề qua lí tính suy xét, có những người khóc đầm đìa nước mắt, nhưng trong tâm lại rất bình tĩnh, khi theo học Phật thời gian đã lâu; hoặc là sau đó trải qua suy xét bình tĩnh, tình huống này sẽ mất đi.

Không chỉ là Văn phát nguyện, hoặc Kệ sám hối có năng lực xúc động như thế, mà còn những người đang trong sinh hoạt cộng tu, chỉ cần nghe luật thơ Phạm bối liền cảm động. Hiện tượng này nhìn bề ngoài là chảy nước mắt, nhưng đó là cảm nhận ôn hòa, vui vẻ mà không phải là đau buồn. Người có phản ứng này, nói chung đều có thiện căn. Khi họ mới bắt đầu học Phật khoảng vài tháng, thậm chí vài năm thì có phản ứng này là hiện tượng tốt. Có lúc tự mình ở nhà tu hành cũng sẽ như thế; điều này rất bình thường, không cần để ý đến nó.

Khi chúng ta ở trước Đức Phật, Bồ-tát cảm thấy mình nhỏ bé và yếu đuối. Đây là hiện tượng rất tự nhiên, người có tâm hổ thẹn như thế thì mới có thể khích lệ mình nỗ lực không ngừng. Biết rõ mình nhỏ bé, không làm được việc thiện lớn như vậy, nhưng vẫn phải không ngừng phát nguyện rộng lớn; trải qua một thời gian vẫn không làm được cũng là bình thường, có thể phát nguyện liên tục thì có mục tiêu và phương hướng để mình nỗ lực, để rèn luyện mình không ngừng cố gắng.

Căn tánh phàm phu dễ sinh lười biếng. Chúng ta đều là phàm phu, nhưng nếu chúng ta có tâm học tập theo Đức Phật, Bồ-tát thì phải thường khuyến khích mình, lười biếng rồi phải tinh tấn lên. Có những người phát nguyện rất nhiều, nhưng đều làm không được; cuối cùng ngay cả phát nguyện cũng không hi vọng; đó chính là tự ruồng bỏ mình, thật đáng tiếc.

13. Đức Phật, Bồ-tát làm người bảo đảm

Lạy Phật, sám hối quả thực có trợ giúp tiêu trừ nghiệp chướng. Nhưng tác dụng của nó là nhờ Đức Phật, Bồ-tát thấy bạn thật có quyết tâm và thành tâm bỏ ác làm thiện, nên các Ngài đứng ra đảm bảo cho bạn.

Sám hối có hai công năng:

1. Xét lại lỗi lầm của mình, bỏ ác làm thiện, không làm việc ác nữa.

2. Bậc trượng phu dám làm, dám chịu, bình tĩnh thản nhiên, dũng cảm nhận tất cả trách nhiệm.

Lòng người rất sơ suất, đãng trí quên nhiều, đối với việc mình đã làm; đặc biệt là việc sai lầm, xấu xa, không thận trọng, nên quên rất nhanh. Thế nên, chúng ta là đệ tử Phật giáo phải nhắc nhở mọi người thường sám hối. Thế nào là sám hối? Sám hối những điều đã quên, vẫn chưa quên mất, xem xét lại lỗi lầm vẫn chưa xem xét. Cho dù lỗi lầm chồng chất trải qua thời gian dài nhiều đời, chúng ta cũng phải sám hối tất cả, hoan hỉ chấp nhận trách nhiệm.

Có rất nhiều người nói khoác mà không biết xấu hổ: “Tôi làm việc rất trong sạch, ngước lên không xấu hổ với trời, cúi xuống không hổ thẹn với đất, chẳng có việc gì mà phải sám hối.” Tất nhiên ở thế gian có rất nhiều người quân tử làm việc chính đáng, phong thái chính trực; nhưng không thể quên đi đời quá khứ mà không nói đến, chỉ biết khởi tâm động niệm ngay hiện tại.

Có lúc, chúng ta cũng thường bất giác phạm rất nhiều sai lầm phải không? Bởi vì, thói quen của chúng ta ẩn náu các căn bệnh như: tham, sân, si, mạn, nghi v.v… Khi chúng ta không để ý thì sẽ biểu hiện qua lời nói, hành động ngay hiện tại; không những làm tổn thương người thân bên cạnh mà còn làm tổn thương chính mình.

Có rất nhiều cha mẹ, tự cho là mình làm mọi việc đều là thương con; kết quả, do thường thương con, nên đưa đến hại con mà không biết. Trong lịch sử cũng có rất nhiều thí dụ người cố chấp chọn ‘thiện,’ cố chấp cho mình làm việc thiện, thuận theo ta thì tốt, chống lại ta thì chết, thực hành tàn bạo mà cho là làm thiện. Vì thế, ý nghĩa sám hối là đồng thời chúng ta vừa sám hối, vừa không ngừng nhắc nhở mình bỏ đi thành kiến, đứng trên góc độ bất đồng thì hãy kiểm điểm lời nói, việc làm của mình; phần đông mọi người nghĩ là do người khác.

Chúng ta thừa nhận chính mình từ đời quá khứ cho đến ngày nay, trong lúc bất giác phạm rất nhiều sai lầm thì hãy dũng cảm chấp nhận những hoàn cảnh hiện tại. Người bình thường khi gặp hoàn cảnh khốn cùng, thì thường oán trời trách người, trách ông trời không có mắt, không phân biệt thiện ác, không nhận rõ tốt xấu. Kết quả, họ mắc sai lầm mất hết niềm tin là oán ghét đời. Người chịu sám hối thì có thể chấp nhận tai nạn bình tĩnh thản nhiên; vả lại, dựa vào tai nạn mà họ rèn luyện tâm thái càng cung kính, càng khiêm tốn. Cho dù, họ nếm trải vùi dập rất nhiều, nhưng vẫn giữ được tín tâm và từ bi trong tính người.

Trong kinh nói: “Khi nghiệp báo đến, chẳng phải ở hư không, chẳng phải ở trong biển, chẳng phải trong hang núi, không có chỗ nào mà thoát khỏi quả báo, chỉ có lực sám hối mới tiêu trừ được.” Kinh nói rõ như thế, năng lực sám hối làm cho tội nặng thành tội nhẹ, chỉ cần mỗi ngày chúng ta lạy Phật, sám hối thì có thể tiêu trừ nghiệp chướng, chuyển hóa được nhân xấu đã tạo, không bị quả báo nặng, lẽ nào không tiện lợi? Lạy Phật, sám hối quả thực có trợ giúp tiêu trừ nghiệp chướng. Nhưng tác dụng của nó là nhờ Phật, Bồ-tát thấy bạn thật có quyết tâm và thành tâm bỏ ác làm thiện, nên các Ngài đứng ra đảm bảo cho bạn, giúp bạn tạm thời không bị quả báo nặng; hoặc là giống như bạn chia thời gian trả tiền, bạn trả góp dần dần. Việc này giống như một người mắc nợ chồng chất, chạy trốn nợ vào ở nhà giàu có; nhà giàu này đứng ra bảo lãnh với chủ nợ, xin cho người thiếu nợ đó một thời gian, cam kết chắc chắn họ sẽ trả nợ từ từ, xin chủ nợ đừng quá nóng nảy ép buộc. Đạo lí là giống nhau, Phật, Bồ-tát chỉ làm người bảo lãnh cho chúng ta, nhưng không trả nợ giúp chúng ta. Chúng ta mắc nợ thì phải tự mình trả góp từ từ.

14. Thật có địa ngục không?

Trong cuộc sống mỗi ngày của chúng ta, bất cứ lúc nào cũng có thể trong khoảnh khắc rơi vào địa ngục. Chỉ cần chúng ta khởi lên ý nghĩ phiền não, chấp trước, cảm thấy lo buồn, sợ hãi, đau đớn không muốn sống thì chẳng khác gì ở trong địa ngục bị hành hạ.

Chúng ta nhìn từ cơ bản Phật pháp thì địa ngục, thiên đường đều xuất phát từ trong tâm. Gọi là địa ngục, thiên đường theo cảm nhận trên tinh thần là có; nại hà tân, cũng gọi Tam đồ hà. Dòng sông ở địa ngục có 3 đoạn khác nhau. Trong kinh Địa tạng bồ tát phát tâm nhân duyên thập vương có thuyết Tam đồ hà, nghĩa là sau khi chết, tội nhân phải đi qua dòng sông Tam đồ ở địa ngục mới đến cõi u minh. Dòng sông này có 3 đoạn: Đoạn sơn thủy, đoạn vực sâu và đoạn có cầu bắc qua, tùy theo nghiệp đã tạo tác lúc còn sống mà tội nhân phải đi qua mỗi đoạn khác nhau.nói theo quả báo, cũng có địa ngục tồn tại, nhưng địa ngục không nhất định có phương hướng, nơi chốn trong thực tế. Còn về núi đao, chảo dầu, cầu Nại Hà[10], Thập điện diêm vương[11]. Những thứ này xuất phát từ truyền thuyết tín ngưỡng dân gian. Trong Kinh Địa tạng, Kinh Trường A-hàm và các kinh miêu tả Tôn giả Mục-kiền-liên cứu mẹ. Tuy có miêu tả cảnh tượng địa ngục, nhưng ấn tượng mạnh nhất đều là ở Trung Quốc dần dần diễn biến ra.

Nhưng tư tưởng địa ngục ở trong văn hóa tôn giáo của nhiều dân tộc đều có. Trước khi Đức Phật Thích-ca Mâu-ni chưa xuất thế thì ở Ấn Độ có nói địa ngục. Người Trung Quốc nói: “Dưới chín suối.” Cơ đốc giáo nói: “Sau khi chết không sinh lên thiên đường thì vào địa ngục.” Họ đều cho rằng trên thực tế có địa ngục tồn tại.

Thực ra, địa ngục chỉ là cảnh giới cảm nhận. Điều này giống như khi chúng ta đang ngủ gặp ác mộng, dường như đến một nơi rất đáng sợ; nhưng khi nằm mộng đẹp, dường như thân lên thiên đường. Khi chúng ta nằm mộng ý thức vẫn có cảm nhận như thế, lại huống gì thần thức sau khi chết? Cho nên tinh thần đang sợ hãi, trạng thái không tự do chính là địa ngục. Khi con người vẫn còn sống, mà bị những cảm nhận sợ hãi này là phản ứng từ dây thần kinh. Con người sau khi chết thì sự hoạt động của dây thần kinh ngừng lại, nhưng trạng thái thần kinh vẫn còn, những thể nghiệm này cũng có giống nhau.

Kì thực, trong cuộc sống mỗi ngày của chúng ta, bất cứ lúc nào cũng có thể trong khoảnh khắc rơi vào địa ngục. Chỉ cần chúng ta khởi lên ý nghĩ phiền não, chấp trước, cảm thấy buồn lo, sợ hãi, đau đớn không muốn sống thì chẳng khác gì bị hành hạ ở trong địa ngục. Chúng ta khởi niệm tham nghiêm trọng chính là rơi vào đường ngạ quỉ; có lúc tâm chúng ta sợ hãi cùng cực là rơi vào địa ngục nhân gian. Công việc đang ở phía trước, chúng ta cảm thấy bao vây mình bốn bề, không còn lối thoát; đó cũng là đến gần địa ngục.

Vì thế, thiên đường hay địa ngục là không ở bất kì một nơi nào, phương hướng nào mà chỉ ở trong tấc lòng của chúng ta. Chỉ cần chúng ta giác ngộ, không bị phiền não, sợ hãi ở thế gian quấy rầy, thì lúc đó xa lìa địa ngục.

15. Ma trong tâm và ma bên ngoài

Bất luận là ma trong tâm, hay ma bên ngoài, đều là cảm nhận vượt ngoài chủ thể sinh mạng, cũng chính là từ tâm lí bất an và chấp trước mà ra. Thực ra, không có thực thể bền vững mãi mãi.

Chúng ta gọi ‘ma trong tâm’ là chỉ cho ý nghĩ lo sợ, hoảng loạn, gian ác khởi lên trong tâm. Nếu như chúng ta không thể khống chế nó thì sẽ bị nó sai sử, làm rất nhiều việc phi lý tính, thậm chí làm những việc vô nhân đạo.

‘Ma bên ngoài’ là từ bên ngoài, nó có sức mạnh mà không biết lí do; nó quấy nhiễu, hoặc xâm phạm sự yên ổn của thân tâm chúng ta. Thực ra, ma trong tâm, hay ma bên ngoài thường phối hợp lẫn nhau. Khi người nào trong tâm bị yếu đuối thì ma bên ngoài rất dễ dàng ghé vào. Trái lại, nếu như trong tâm yên ổn, chẳng lo, chẳng sợ thì cho dù năng lực ma bên ngoài có mạnh mẽ như thế nào, cũng chẳng làm gì được bạn. Việc này, giống như đi đường bạn gặp con chó dữ đuổi theo bạn sủa càn; nếu như bạn sợ nó, nghĩ nhặt hòn đá ném lại nó thì nó càng sủa dữ dội hơn; còn nếu bạn giữ được bình tĩnh, không phản ứng lại thì nó gầm gừ một lúc, tự nó cảm thấy không có hứng thú sẽ lặng lẽ bỏ đi.

Khi Đức Phật còn tại thế, cũng từng bị ma bên ngoài quấy nhiễu, nhưng Ngài không lay động; cuối cùng lại cảm hóa được bọn chúng. Người bình thường không có công phu tu trì như Đức Phật, khi gặp sức bên ngoài xâm phạm, không biết tại sao như thế; ngay cả bác sĩ tâm lí cũng không tìm ra chứng bệnh.

Tôi đề nghị mọi người hãy niệm nhiều Thánh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm; hoặc niệm Thánh hiệu Đức Phật A-di-đà. Dụng ý niệm Thánh hiệu Phật, Bồ-tát không phải nhờ năng lực của Bồ-tát hàng phục ma, mà là để cho tâm mình có nơi nương tựa. Khi tâm có chỗ quy hướng tất nhiên được thoải mái an lạc; cho dù, ma bên ngoài hiện thân, chúng ta cũng không sợ.

Ngoài ra, nếu như nhờ vào luyện tập tu hành, quán tưởng tất cả pháp đều do nhân duyên sinh, cũng gọi là: “Năm uẩn đều không.” Bất luận là ma trong tâm, hay ma bên ngoài, đều là cảm nhận vượt ngoài chủ thể sinh mạng, cũng chính là từ tâm lí bất an và chấp trước mà ra. Thực ra, không có thực thể bền vững mãi mãi. Như thế, chúng ta không thể chấp vào vật gì. Khi tâm chúng ta không chấp trước thì ma bên ngoài chưa đánh đã thua.

Đương nhiên công phu quán tưởng này phải luyện tập thời gian dài; người mới học chỉ cần chuyên tâm niệm Phật, cũng có hiệu quả giống nhau. Nhưng có lúc cũng sẽ xuất hiện các hiện tượng ảo thính, ảo giác quấy nhiễu, khiến cho bạn không niệm được liên tục. Thế nên, chúng ta niệm Phật phải niệm thường xuyên, niệm liên tục, làm cho danh hiệu Phật thâm nhập trong tiềm thức ý nghĩ.

Ngoài ra, chúng ta còn phải phát nguyện, bố thí, cúng dường, sám hối; việc này cũng có hiệu quả nhất định. Nhờ vào lực sám hối mà tiêu trừ sạch nghiệp chướng trong đời quá khứ, làm cho oan nghiệt được chấm dứt. Thế nhưng, quán tưởng và niệm Phật rất khó, cần có năng lực khá mạnh; còn sám hối, phát nguyện tương đối dễ, sức mạnh tất nhiên cũng yếu hơn. Nhưng bất luận thế nào, hàng ngày chúng ta phải nỗ lực tu tập không ngừng, khi có tai nạn xảy ra thì mới có khả năng chống đỡ.

16. Xin hãy nói về nhẫn nhục

Các loại hoàn cảnh của đời người đều là bài học cho chúng ta học tập. Có người giải quyết được nghịch cảnh, nhưng chưa chắc gì giải quyết được thuận cảnh.

Mỗi người dùng tâm thái như thế nào để đối diện hoàn cảnh của mình? Điều này thì phải xem bản lĩnh ‘nhẫn nhục’ của họ có làm được không? Tôi nghe nói tù nhân mỗi lần bị giam trong nhà tù là từ mười mấy đến hai mươi năm, có rất nhiều người ra tù rồi mà vẫn căm thù sâu sắc; cho nên, sau khi họ ra tù thường tệ hơn, phạm lại bản án càng nặng hơn.

Trong kinh Phật ẩn ý ‘nhẫn nhục’ rất phong phú. Khi chúng ta bị thất bại, trù dập tất nhiên phải nhẫn, mà khi thành công, vui sướng cũng phải nhẫn; gặp nghịch cảnh phải tiếp nhận, thuận cảnh đến cũng phải tiếp nhận.

Nhưng nói ‘nhận’ không phải bằng lòng tiếp nhận một cách bị động, mà dùng thái độ chủ động tích cực, chuyển hóa thoát khỏi hoàn cảnh, giúp cho mình từ trong cảnh này được cơ hội học tập mà trưởng thành. Người bình thường bị oan ức, thất bại, trong tâm lí thường căm giận bất bình. Nhưng vì căm thù khó hóa giải, cho nên làm cho họ đau đớn khổ sở cũng như bóng theo hình, không bỏ được oán thù. Nếu như họ chấp nhận sự trù dập để rèn luyện tâm tính, phẩm hạnh của mình. Thậm chí, xem người trù dập bạn là Bồ-tát đến hóa độ bạn, phải cảm ơn họ, giúp bạn rèn luyện mình, được cơ hội thử thách mình, trong tâm bạn không có oán hận, tất nhiên sẽ không còn cảm thấy đau khổ.

Có mấy vị phụ huynh của trẻ em mới lớn đến nói với tôi rằng: “Trải qua năm tháng đằng đẵng, chịu được gian khổ và khó khăn để chăm sóc con cái, dần dần họ hiểu tâm lượng của mình được mở rộng.” Họ đem tâm trạng tiếp nhận thử thách, vui vẻ chịu đựng. Thế nên, cho dù người ngoài cho rằng hoàn cảnh của họ là khổ không thể nói; ngược lại, họ thấy an lạc vô cùng.

Trong nghịch cảnh mà chúng ta chịu khổ nhục để gánh trọng trách, cố gắng tiến lên. Đạo lí này mọi người nên tiếp nhận. Khi chúng ta gặp thuận lợi mọi việc, như diều gặp gió cũng phải tu hạnh ‘nhẫn nhục,’ vì sợ rằng không dễ gì hiểu rõ.

Thực ra, các loại hoàn cảnh của nhân sinh đều là bài học cho chúng ta học tập. Có người giải quyết được nghịch cảnh, nhưng chưa chắc gì giải quyết được thuận cảnh. “Sau khi được làm quan, cưỡi ngựa đi trong mùa xuân, chỉ trong một ngày đã ngắm hết hoa Trường An.” Có rất nhiều người khi nản lòng vẫn thường chịu khó khuyến khích mình, nhưng một khi được thăng quan tiến chức thì sống buông thả, đắc ý vênh váo; lời nói, hành động, cử chỉ không có chừng mực, nên tai nạn theo đó mà đến rất nhanh. Cho nên, lúc bình yên phải nghĩ đến lúc nguy hiểm; thành công phải nhẫn, vui sướng cũng phải nhẫn.

Tôi thường nói, người tham thiền phải ngồi ở ngã tư đường; vì nơi đó có xe chạy qua, người đi lại, trong môi trường ồn ào lộn xộn, có kiểm soát được tâm mình và không bị mảy may trở ngại không? Nếu như hoàn cảnh bên ngoài, cơn gió nhẹ thổi đến làm động cây cỏ mà ảnh hưởng đến tư tưởng, hành vi của bạn thì tôi không dám bảo đảm phiền não không nổi lên. Lại có người cho rằng hoàn cảnh bên ngoài dù thuận, hay nghịch, tất cả đều do tâm tạo. Đây là nhận định chủ quan của phàm phu tục tử. Sự thật khách quan chưa chắc là như vậy. Do đó, để mình giữ được khách quan, tránh được tâm bị cảnh bên ngoài lôi kéo thì mới đoạn được phiền não, sinh trí tuệ.

17. Nhân duyên và chỉ theo ý mình

Chúng ta đã tiếp xúc tất cả sự vật đều ở trong nhân duyên, bất cứ sự việc nào chỉ cần nhân duyên thành thục thì được hoàn thành. Nếu như mọi việc đều đầy đủ chỉ thiếu gió Đông thì nhân duyên không thành thục.

Mấy năm gần đây, lực ảnh hưởng của tôn giáo đối với xã hội và trong nước ngày càng mở rộng; trong cuộc sống, việc làm thường có người nói đến ‘quán nhân duyên’ để đối diện tất cả chung quanh; hoặc dùng ‘quán nhân duyên’ để giải thích quan điểm của cá nhân, hoặc khởi tâm động niệm. Nhưng có rất nhiều người hỏi: “Quán nhân duyên đến cùng và chỉ theo ý mình có gì khác nhau?”

Muốn hiểu ‘nhân duyên,’ thực ra rất đơn giản, chúng ta đã tiếp xúc tất cả sự vật đều ở trong nhân duyên, bất cứ sự việc nào chỉ cần nhân duyên thành thục thì được hoàn thành. Nếu như mọi việc đều đầy đủ chỉ thiếu gió Đông thì nhân duyên đó chưa thành thục. Chỉ cần nhân duyên có một chút sai lầm, hoặc biến hóa thì kết quả lập tức thay đổi. Cho nên, con người hoàn toàn không có biện pháp điều khiển vận mệnh của mình; cũng không có cách nào điều khiển hoàn cảnh của mình. Bất luận hiện tượng nào đều không ngừng sự biến hóa của nhân duyên mà thay đổi. Tình hình ngày nay là như thế, nhưng ngày mai không nhất định sẽ giống nhau. Nhưng có những nhân duyên ở trong phạm vi dự đoán của chúng ta. Ví dụ chúng ta sản xuất dệt vải, thông thường là sau khi lên kế hoạch thực tiễn rồi mới thực hiện. Nhưng nếu gặp hoàn cảnh chuyển biến lớn mà mục tiêu cá nhân nhỏ thì vẫn phải thay đổi.

Còn chỉ theo ý mình là rất ngây thơ, tự mình cho là đúng, hoàn toàn dựa vào tưởng tượng vô căn cứ. Điều này khác với hi vọng vẽ tranh, kế hoạch vẽ trải qua rất tỉ mỉ; kế hoạch vẽ cần phải dựa vào một số sự thật. Nhưng tiến trình sự vật theo kế hoạch vẽ, cũng không nhất định đáng tin cậy hoàn toàn, cũng sẽ xảy ra tình huống ngoài dự đoán. Lúc này thì chúng ta phải chấp nhận nó; sau đó tìm cách xử lí nó. Bởi vì nhân duyên là như thế.

Vì thế, nếu như chúng ta mong đợi việc kế hoạch vẽ đẹp, trong quá trình vẽ xảy ra vấn đề ngoài ý muốn thì không cần phải đau lòng, cũng không cần thất vọng mà phải tiếp tục nỗ lực, thúc đẩy nhân duyên, vẫn còn có cơ hội thành công. Nếu như tiến trình cân nhắc kĩ càng, nhận xét nhân duyên không thể xúc tiến thì chúng ta cũng đành bỏ nó. Việc này hoàn toàn khác với chưa trải qua nỗ lực mà bỏ đi.

18. Động tĩnh không hai đều là thiền

Nếu như chỉ đóng cửa ngồi ở đó, động cũng không động thì gọi là tu hành. Như thế thì tảng đá, khúc gỗ cũng xem là tu hành; cho nên, tĩnh chưa chắc là thiền, động cũng chưa chắc là không thể học thiền.

Xã hội ngày nay, mọi người chạy theo năng suất, tạo thành mỗi người ngày càng sống vội, cạnh tranh ngày càng lợi hại. Do đó, có người hi vọng tu thiền để trợ giúp họ, để tìm an lạc trong tâm. Nhưng về phương diện khác thì họ cho rằng tu thiền chỉ là tạm thời trong hoàn cảnh giúp họ được an ổn, là lúc ngồi xếp bằng, một niệm không sinh; nhưng khi ra khỏi thiền đường thì đối diện với thế giới hiện thực biến đổi vô thường. Dường như họ cảm thấy phương pháp tu thiền không đủ lực chống đỡ. Tôi tin có rất nhiều người muốn vào cửa chùa tu thiền đều có nghi ngờ như thế.

Trên sự thật động, tĩnh không hai. Theo phương pháp thiền, nếu chỉ ứng dụng trong tĩnh, mà không có ứng dụng trong động thì công phu này không cho là rốt ráo. Hoặc chỉ ứng dụng ở trong động mà trong tâm mình hoàn toàn không được yên tĩnh; như thế cũng không gọi là thiền.

Tổ sư của Thiền tông ở thời kì đầu không có chủ trương ngồi thiền mãi, thậm chí các ngài còn nói: “Ngồi thiền không thể thành Phật.” hay: “Khai ngộ không do ngồi thiền.” Nếu như chỉ đóng cửa ngồi ở đó động cũng không động thì gọi là tu hành. Như thế thì tảng đá, khúc gỗ cũng xem là tu hành; cho nên, tĩnh chưa chắc là thiền, động cũng chưa chắc là không thể học thiền.

Nhưng người tu thiền trước phải có nền tảng tĩnh, bằng không muốn tâm bất cứ lúc nào cũng yên tĩnh thì không thể được. Cho nên, người mới tu, trước phải luyện tập ngồi trong yên tĩnh. Dần dần mới có thể ứng dụng phương pháp thiền trong cuộc sống hàng ngày bất cứ lúc nào, nơi nào. Cuối cùng làm được bất kì tình huống nào cũng thể làm cho tâm mình an ổn. Đây là tu hành thật sự.

Người bình thường chúng ta không có thời gian luyện tập hàng ngày; cho nên ở tự viện có sinh hoạt cộng tu thiền thất, thiền tam. Nhưng chúng ta muốn tin cậy tu thiền bảy ngày, hoặc tu ba ngày thì tâm phải yên tĩnh, nhưng tính khả năng cũng không mạnh. Trong bảy ngày chỉ dạy bạn biết tâm của bạn đang động, hiểu rõ vì sao tâm không an. Chính vì biết tâm mình không an, biết tâm không an đến mức độ nào thì lúc ấy lại được an. Nếu chúng ta đạt được cảnh giới như thế thì được coi là rất tốt.

Đây là việc rất có ý nghĩa, khi chúng ta không biết tâm mình không an thì tâm bạn thật sự không an. Khi biết tâm mình không an, cũng hi vọng nó có thể an thì bắt đầu dùng phương pháp điều chỉnh tâm không an. Phương pháp rất nhiều, có thể niệm danh hiệu Đức Phật A-di-đà, Bồ-tát Quán Thế Âm, cũng có thể theo dõi hơi thở của mình, theo dõi cảm thấy hơi thở ra vào; hoặc nghĩ đi nghĩ lại một câu nói, xét lại ý nghĩ của mình vì sao bị ảnh hưởng? Vì sao đang động? Động như thế nào?

Có người đến học ngồi thiền với tôi. Nếu như từ đầu đến cuối tâm họ không an, có lúc tôi dạy họ sắp xếp vọng niệm theo thứ tự thì vọng niệm sẽ từ từ tiêu mất, tâm lăng xăng cũng sẽ an ổn. Đây cũng là một phương pháp.

Trên đây, tôi nói phương pháp trong tĩnh, còn về phương pháp trong động, là ở trong hoàn cảnh đối diện tất cả việc, biết rõ nó là gì. Khi người khác ca ngợi ta không cần phải mừng; khi họ mắng ta cũng không cần phải buồn. Bởi vì, đây là lập trường của họ, chẳng có liên quan đến ta. Chỉ cần ta biết việc này là tốt rồi. Còn về người bị họ mắng có phải là ta không? Đây là vấn đề khác. Nếu như họ mắng đúng thì ta phải hoan hỉ chấp nhận; còn nếu họ mắng sai thì người họ mắng hoàn toàn không phải ta; cho nên không cần phải bị ảnh hưởng do họ.

Cũng chính là nói, khi hoàn cảnh khiến cho chúng ta sinh ra hoang mang, bất an thì phải đối diện nó, nhưng không nên cho nó có liên quan đến mình; như thế, dù ở trong động mà vẫn an ổn.

19. Tôn giáo cũng có băng lừa đảo

Chúng ta chỉ nhắc nhở dân chúng hãy cảnh giác; khi có kẻ nào dùng thần thông mê tín đầu độc dân chúng; hoặc có quan hệ nam nữ bất chính; hoặc động một tí là yêu cầu cúng dường tài vật, đều phải chú ý đặc biệt.

Gần đây, tôi liên tiếp nghe vài tin tức vợ chồng li hôn, nói là do bà vợ tin theo Phật giáo mà bỏ bê gia đình, không quan tâm đến chồng con; khiến cho ông chồng không chịu nổi, đành phải li hôn. Lại có bà vợ, nhân dịp chồng đi công tác xa liền đem tài sản đến cúng dường chùa, dắt con nhỏ cùng xuất gia. Xảy ra việc như thế, khó mà tránh khỏi mọi người hiểu lầm là Phật giáo có vấn đề. Thực ra, đây là tín ngưỡng sai lệch của cá nhân; hoặc do họ gần gũi đoàn thể tôn giáo hoàn toàn không phải Phật giáo chánh tín, nhưng không phải tin theo Phật giáo có vấn đề.

Phật giáo rất chú trọng luân lí trong gia đình, không phải cho rằng mỗi người đều phải chấp nhận; hoặc xuất gia thích hợp. Vì thế, đệ tử Phật giáo phần đông là cư sĩ tại gia. Nếu như vợ chồng đều là đệ tử Phật thì tất nhiên rất có lí tưởng, là ‘bạn đồng tu’ rất tốt, được tôn trọng lẫn nhau, cả hai khuyến khích lẫn nhau và tin theo Phật giáo chính xác, cũng thật sự làm cho đời sống gia đình giảm bớt phiền não. Nếu vợ chồng tin theo tôn giáo khác nhau, khi tham gia hoạt động tôn giáo thì không thể có sự thông cảm của vợ hoặc chồng. Tôi đề nghị nên lấy gia đình làm đầu, tạm thời dừng hoạt động tôn giáo, tìm cách hàn gắn gia đình. Còn về nhân lúc chồng đi vắng mà đem của cải cúng chùa, dắt con đi xuất gia; cách làm này chẳng những pháp luật nhà nước không chấp nhận mà giới luật Phật giáo cũng không đồng ý.

Tuy giới luật tôn giáo nghiêm khắc hơn pháp luật nhiều, nhưng giới luật tôn giáo không có tác dụng như ‘chấp hành pháp luật.’ Cho dù trong Tăng đoàn có người phạm giới, họ không nghe lời khuyên bảo, không biết hối cải, cũng xảy ra tranh cãi nhiều lần mới bị mời ra khỏi chùa, nhưng không có hiệu lực và biện pháp ràng buộc cụ thể.

Vì thế, hiện nay có rất nhiều người mặc y của Tăng, Ni Phật giáo, nhưng sự hiểu biết về Phật pháp như đúng mà sai. Thậm chí, họ dựa vào nhân vật nổi tiếng trong tôn giáo và đoàn thể tôn giáo để dùng thủ đoạn mê tín để lừa đảo tiền của và lừa gạt tình cảm; khiến cho Phật giáo bị xúc phạm rất nặng.

Tôi rất mong đợi, có một ngày chính phủ và tôn giáo nghĩ cách xử trí những vấn đề này ổn thỏa tốt đẹp. Hiện nay, chúng ta chỉ nhắc nhở dân chúng hãy cảnh giác; khi có kẻ nào dùng thần thông mê tín đầu độc dân chúng; hoặc có quan hệ nam nữ bất chính; hoặc động một tí là yêu cầu cúng dường tài vật, đều phải chú ý đặc biệt.

Tất nhiên, một đoàn thể tôn giáo chính thống, cũng cần tín đồ cúng dường, nhưng sự quan tâm của tín đồ là sự dáp ứng vô điều kiện, vô cùng tận. Còn về việc có bằng lòng cúng dường hay không thì do bản thân tín đồ quyết định, không được dùng thủ đoạn thần kì linh nghiệm để ép họ cúng dường. Tôi chỉ dựa vào vài điểm này, tin rằng mọi người có thể phân biệt rõ.

20. Cầu nguyện cho mọi người đều có khả năng được độ

Cầu siêu có hiệu quả nhất, không quyết định ở pháp hội nào, tụng bao nhiêu kinh mà ở nội dung tinh thần Phật pháp, có thực tiễn trong cuộc sống thường ngày.

Mỗi khi xảy ra tai nạn nghiêm trọng thì mọi người chú ý đến liên quan thông tin Phật giáo, tổ chức lễ cầu siêu cho vong linh. Lâu ngày, mọi người đều cho rằng ‘lễ cầu siêu’ là nghi thức có liên quan đến cúng tế người chết. Thực ra, nhìn trên mặt chữ, ý nghĩa lễ cầu siêu rất đơn giản, đó là ý nghĩa ra khỏi và vượt qua; cũng chính là nói, khi có người gặp khổ nạn, họ tìm nơi an ủi và khuyến khích, có nghĩa là trong tuyệt vọng tìm ra hi vọng.

Bất kì tai nạn nào xảy ra, cho dù người chết và bị thương nặng nề bao nhiêu, nhưng để lại nỗi đau cùng tột vẫn là người sống. Do đó, sau khi xảy ra tai nạn hàng không ở Trung Quốc, Phật giáo chúng ta liền nghĩ đến phải đứng ra an ủi nỗi đau buồn của người nhà, vì tinh thần họ bất an. Cho nên, có rất nhiều đoàn thể Phật giáo trong Pháp Cổ Sơn, sau khi nghe tin, lập tức tự động đến hiện trường trợ niệm cho người chết và đưa người bị nạn về nhà tang lễ ở Bản Kiều, hi vọng thần thức của người mất được yên tĩnh trong tiếng niệm Phật, không còn hoảng loạn sợ hãi, thanh thản sinh về cõi nước của Đức Phật.

Theo nhân viên thiện nguyện ngày hôm ấy, họ quán sát hiện trường, nhờ niệm danh hiệu Phật mà có tác dụng an ủi rất mạnh. Họ ở đây niệm Phật liên tục, tinh thần của người nhà cũng ổn định rất nhiều so với lúc mới xảy ra tai nạn. Nếu người nhà vơi đi nỗi đau khổ thì người chết cũng dễ buông xả chấp trước thân tình, và được chư Phật, Bồ-tát hộ trì thì họ sớm vãng sanh về cõi nước Phật.

Vì thế, nghi thức cử hành lễ cầu siêu là ý nghĩa an ủi người sống, lại có tác dụng đối với người chết rất nhiều. Cho nên, chúng ta vừa cầu siêu cho người chết, cũng vừa cầu siêu cho người sống; đồng thời, chúng ta cũng đang cầu siêu cho mọi người trong xã hội bị dao động trong sự kiện này.

Sự kiện tai nạn hàng không lần này, ngoài người nhà chịu nỗi đau quá lớn, mà còn cả mọi người trong xã hội, khi xem đài truyền hình thấy cảnh tượng máu me dầm dề thì nhất định tâm lí họ cũng hoảng sợ vô cùng. Sinh tử vốn vô thường, người có tin theo tôn giáo, thường ngày đã biết rõ những điều này. Người không tin theo tôn giáo, có thể do đây mà cảm thấy lo lắng, bất an, không biết tai nạn khi nào ập đến.

Kì thực, tôn giáo giúp cho mọi người nhận biết được ý nghĩa và giá trị của mạng sống. Nhận biết điều này thì thoát khỏi nỗi hoảng sợ và lo lắng về sinh tử vô thường. Do đó, khi chúng ta cử hành nghi thức lễ cầu siêu, không chỉ đối với người chết mà còn cho người thân.

Nhưng nội dung lễ cầu siêu, hoàn toàn không chỉ là nghi thức mà thôi, nghi thức chỉ là giới thiệu, giúp cho mọi người hiểu rõ cầu siêu là việc quan trọng. Cầu siêu có hiệu quả nhất, không quyết định ở pháp hội nào, tụng bao nhiêu kinh, mà ở nội dung tinh thần Phật pháp, có thực tiễn trong cuộc sống thường ngày. Nếu mọi người buông xả giận dữ, sợ hãi, bất bình; đối xử bằng tâm từ bi rộng lớn đến tai nạn lần này thì người chết có thể buông xả các loại chấp trước ở thế gian, tâm ý khai ngộ sẽ được vãng sanh về cõi nước Phật. Người nhà cũng được sớm thoát khỏi ám ảnh đau thương và mọi người trong xã hội lại được thoát khỏi uy hiếp sanh tử vô thường, biết rõ sinh mạng hữu hạn, càng làm nhiều việc tích cực thì đời người càng có ý nghĩa.

II. Thích tham thiền ở ngã tư đường phố

1. Phiền não là nhân duyên trợ đạo

Khi chúng ta đối diện khổ đau mà tìm cách thoát khỏi khổ đau, đương nhiên là rất tốt. Nếu như chúng ta gắng gượng chịu đựng thì không có cách gì thay đổi được tình cảnh hiện tại. Chúng ta phải dùng tâm thái mạnh mẽ để đối diện nó, không oán giận, không tuyệt vọng, cũng không phải nhẫn nhục chịu đựng.

Khi chúng ta cảm thấy có phiền não, có cực khổ là do không rõ hoàn cảnh, không hiểu nguyên nhân. Nếu như chúng ta hiểu rõ ngọn nguồn sinh khởi phiền não và khổ đau thì sẽ hiểu phiền não. Người tầm thường sẽ tự chuốc lấy cực khổ lại càng nhiều hơn. Chúng ta cũng có thể chuốc lấy điều đó.

Nhưng thông thường mọi người sống trong an lạc, phần đông không nghĩ đến để tìm kĩ nguồn gốc phiền não và khổ đau. Chỉ khi nào họ phải trải qua nỗi đau xé ruột giày vò thì mới nghĩ đến và đi tìm đáp án; hoặc là trước đây chưa gợi ra tiềm năng vốn có để mong cầu vượt qua cảnh khốn khổ. Do đó, chúng ta thường luyện tập khổ đau để tạo thành bước ngoặc đời người trong hoàn cảnh khó khăn. Đó gọi là ‘lo lắng ân cần gợi ý thánh nhân.’ Hoặc ‘văn nhân càng lâm cảnh khốn cùng bất đắc chí thì viết ra thơ văn càng hay.’ Chính là lí lẽ này.

Thời kì chiến tranh thế giới thứ hai, có cô gái người Do Thái tên là An-ni[12] ở trong vùng chiếm đóng của quân Đức. Ở nhà tù, chỉ có người đặc biệt mới chịu đựng được, mới vượt qua cuộc sống giam cầm. Nhưng cô chọn quan điểm hoàn toàn không giống với người khác, là dùng tình cảm phong phú để đón nhận thân mình chịu đau khổ; chính vì thế mà hiện rõ vẻ đẹp tính người trong cực khổ. Nhật kí[13] của cô được lưu truyền mãi đến đời sau, làm cảm động hàng nghìn, hàng vạn người. Quan điểm của cô, không những giúp mình được thoát khỏi cực khổ, mà còn giúp cho mọi người cùng nhau hiểu rõ vẻ đẹp sáng ngời của tính người. Đây là một ví dụ rất hay.

Ngoài ra, còn có một vị Lạt-ma, người Tây Tạng. Ngài bị giam trong ngục hơn ba mươi năm, trải qua rất nhiều cực hình. Ngài làm thế nào để chịu đựng được? Ngài nói: “Khi thấy cảnh cực hình chịu không nổi thì chỉ cần chuyển ý nghĩ.” Đây chính là cơ hội tốt ngài tu hạnh nhẫn nhục, cũng nhân cơ hội này mà chịu khổ cho chúng sinh và làm tiêu trừ nghiệp chướng đời trước của mình. Tất nhiên, ngài cũng không từ bỏ ý chí tìm cách sống. Cuối cùng, ngài vẫn không nề cực nhọc, dần dần ngài trốn được đến ở nước tây phương.

Cho nên, chúng ta hiểu được ý nghĩa khổ đau thì khổ thế nào cũng chịu đựng được. Khi chúng ta đối diện khổ đau mà tìm cách thoát khỏi khổ đau, đương nhiên là rất tốt. Nếu như chúng ta gắng gượng chịu đựng thì không có cách gì thay đổi được tình cảnh hiện tại. Chúng ta phải dùng tâm thái mạnh mẽ để đối diện nó, không oán giận, không tuyệt vọng, cũng không phải nhẫn nhục chịu đựng. Đây mới là từ trong đau khổ thật sự để mình trải nghiệm và trưởng thành.

Tuy nói phiền não là nhân duyên trợ đạo. Nhưng muốn tìm điều bất ngờ thú vị này mà chúng ta muốn ‘tự chuốc khổ’ để bản thân cảm nhận mùi vị cực khổ; như thế thì quá ngu xuẩn.

Trước khi Đức Phật Thích-ca Mâu-ni thành đạo, Ngài chưa trải qua hết nỗi khổ sanh, lão, bệnh, tử; nhưng Ngài thể nghiệm từ người khác. Ngài quán sát nỗi khổ sanh, lão, bệnh, tử, là không có người nào thoát khỏi được; nhờ vậy mà trên đường đi Ngài ngộ đạo. Vì thế, nếu chúng ta đem tâm từ bi cảm nhận thấy nỗi khổ người khác đã chịu như chính mình chịu đựng, thì cũng có khả năng trở thành nhân duyên chính mình ngộ đạo.

2. Cảm ơn Bồ-tát ung thư

Bệnh khổ là nghịch tăng thượng duyên để trợ giúp đạo tâm tăng trưởng, bệnh nặng lại có thể là nhân duyên ngộ đạo. Bởi vì, sau khi bản thân trải qua bệnh tật hành hạ thì chúng ta mới hiểu được tinh thần Bồ-tát cứu khổ, cứu nạn.

Ở Pháp Cổ Sơn có vị tín nữ, trong bao tử cô phát ra một khối u ác tính; sau đó, nó lan rộng đến một phần chân, một phần tay và đến toàn thân, nhưng sau khi chịu đau đớn hành hạ thì tâm cô mở rộng. Cô đến nói với tôi rất lạc quan: “Thưa Thầy! Nếu con không mắc căn bệnh này, làm cho con chịu nhiều đau đớn thì con vẫn không biết cơn đau đớn dữ dội như thế mà người ta vẫn phải chịu đựng. Hiện nay, con chẳng còn lo sợ điều gì mà con không chịu được.”

Cô hài hước gọi tế bào ung thư trong mình là ‘Bồ-tát ung thư.’ Cô nói: “Thưa Thầy! Con phải cảm ơn những Bồ-tát ung thư này, chúng nó là chuyên môn để giúp con thành tựu.”

Cổ đức nói: “Tỉ-khưu thường mang ba căn bệnh là nhân duyên trợ đạo.” Người tu hành thấy bệnh khổ là nghịch tăng thượng duyên để trợ giúp đạo tâm tăng trưởng, bệnh nặng lại có thể là nhân duyên ngộ đạo. Bởi vì, sau khi bản thân trải qua bệnh tật hành hạ thì mới hiểu được tinh thần Bồ-tát cứu khổ, cứu nạn. Người đang bệnh, nên quán chiếu thân này mỏng manh vô thường, chấp nhận bệnh tật hành hạ. Người bệnh chỉ dùng tâm bình thản để đối diện nhân duyên, quả báo.

Phần đông, người bình thường đều sợ bệnh, họ tìm đủ mọi cách để trốn tránh nó. Nhưng nhìn theo quan điểm của Phật giáo, khi người bệnh nặng các bác sĩ không chữa được, thuốc thang vô hiệu thì họ hoảng loạn, sợ hãi, chỉ có khổ càng thêm khổ, chẳng giúp được gì. Chi bằng bệnh nhân thanh thản đối diện nó, bằng lòng chấp nhận nó; một khi đối diện nó thì liền buông xả. Điều này giống như trong tay chúng ta cầm củ khoai lang nóng, muốn bỏ xuống mà bỏ không đành, vậy làm thế nào? Đành phải cắn răng tìm cách giữ lại nó; sau khi cầm nó mãi, tay bạn sẽ quen dần, cũng không còn cảm thấy khoai lang nóng nữa, cho nên bỏ xuống hay không bỏ cũng không sao cả.

Bình thường, bị bệnh ung thư chừng một năm là rất đau đớn, khi chữa bằng chạy xạ trị cũng đau đớn không chịu đựng nổi. Nhưng tôi cũng gặp rất nhiều tình cảnh giống cô cư sĩ này, họ dũng cảm tích cực đối diện bệnh ung thư. Trong lúc bệnh tật, là cơ hội họ học cách thản nhiên chấp nhận bệnh tật hành hạ; cũng là cơ hội học nắm vững thân mạng hữu hạn mà tích cực làm việc phục vụ và cống hiến cho xã hội, mãi đến hơi thở cuối cùng mới nghỉ. Họ nói với tôi: “Thưa Thầy! Con chịu đau đớn đến phút cuối cùng, chỉ cần trong tâm không oán, không giận, đau chỉ là đau mà thôi.” Không khổ, khổ và không khổ hoàn toàn là do ảnh hưởng tâm lí. Chúng ta hiểu được điều này thì cũng hiểu được thế nào là tinh thần Bồ-tát. Cho nên nói: “Bệnh khổ là trợ duyên ngộ đạo” chẳng sai tí nào.

3. Đời người lang thang

Quá trình nhân sinh là sự thật lang thang; nếu như chúng ta trực tiếp đón nhận nó, thì không còn cảm thấy sợ hãi có sống còn.

Con người từ khi sinh ra đến nay, khi bắt đầu đi học, làm việc, kết hôn; suốt trong thời gian đó chẳng phải là đang lang thang sao? Đặc biệt là xã hội ngày nay, tính không cố định mạnh mẽ như thế, mọi người đều đang lang thang. Cho nên lang thang là bản chất của con người, chẳng có gì để lo lắng, sợ hãi.

Từ khi xuất gia đến nay, tôi cứ mãi lang thang, từ Lang Sơn, Bắc Ngạn, Trường An cho đến Thượng Hải; lại lang thang đến Đài Loan. Trước đây, khi tôi sống ở nước ngoài, thời gian khoảng nửa năm, cuộc sống của kẻ lang thang ở không cố định, vai mang túi xách đi khắp nơi ngủ nhờ; nếu ngủ nhờ không được thì ngủ ngoài đường phố. Nhưng cuộc sống như thế là lang thang chủ động, tôi có mục tiêu và phương hướng rất rõ ràng. Bản thân sống rất đầy đủ, không cho lang thang là khổ.

Xưa kia, Khổng Tử đi chu du các nước, nhưng luôn lo lắng, bận bịu, ngồi chưa ấm chỗ liền đi, chẳng phải là lang thang sao? Người làm nghề kinh doanh đi khắp mọi nơi, cũng là lang thang khắp chốn. Người xuất gia là ra khỏi nhà, sống không có nhà, lại lấy lang thang làm cuộc sống.

Khi Đức Phật Thích-ca Mâu-ni rời khỏi hoàng cung, bắt đầu trải qua cuộc sống lang thang; Ngài thường xuyên không có chỗ ở cố định, không có việc làm cố định, cũng không có đối tượng phục vụ cố định, nhưng lại hết lòng phục vụ cho mọi người. Như thế là không phải cho riêng mình, vì tinh thần của người lang thang không cất giữ tiền cải riêng.

Nhưng hiện nay có rất nhiều đi lang thang vì bị hoàn cảnh bức bách, tìm việc làm không được, không có chỗ ở, chính mình cảm thấy không có tương lai, đành phải lang bạt khắp nơi, sống cho qua ngày; thậm chí, có người vướng vào ma túy, nghiện rượu. Thực ra, con người sống ở đời có rất nhiều việc thay đổi bất ngờ. Nếu thật gặp hoàn cảnh gian truân, trở thành kẻ lưu lạc, cũng không phải là lâm vào bước đường cùng.

Lúc tôi ở Mỹ, có một vị đệ tử tại gia là kẻ lưu lạc. Anh ta lấy bốn phương làm nhà; ăn, ngủ, ở khắp mọi nơi; cuộc sống không nhà, không lo âu, trời cao biển rộng, đời sống rất phong phú, đó là nhà triết học đường phố. Chủ yếu là vì anh ta có phương hướng rõ ràng. Anh kể: nhu cầu cuộc sống của anh rất thấp. Lúc bị bệnh, anh vào bệnh viện để khám bệnh, đành phải nói thật với bác sĩ là anh không có bảo hiểm, nên bệnh viện không nỡ bỏ lơ. Nếu như cuộc sống hàng ngày cần tiền thì anh dựa vào sức khỏe làm việc, cũng có thể kiếm được tiền. Thời gian còn lại, phần nhiều, anh đi hoằng pháp khắp nơi.

Nhưng người bình thường vẫn cần có gia đình, việc làm và cuộc sống như thường. Vì thế, tôi cũng không khích lệ mọi người đều làm kẻ lang thang. Chỉ là xã hội đa dạng, nên có rất nhiều được học hành rất tốt, năng lực cũng rất khá, nhưng làm việc lại không gặp thuận lợi. Đặc biệt kinh tế hiện nay đang suy thoái, người trung niên thất nghiệp dường như càng ngày càng đông, mọi người lờ mờ cảm thấy bất an.

Kì thực, nhân sinh vô thường, xưa nay không có vật gì là tồn tại vĩnh viễn. Tự mình không thể giữ được khi sự việc xảy ra, nhưng có thể dùng thái độ tích cực để đối diện nó, cảm thấy bất an thì buông xả hoàn toàn, và nói với mình, quá trình nhân sinh là sự thật lang thang. Nếu như chúng ta trực tiếp đón nhận nó, thì không còn cảm thấy sợ hãi có sống còn.

4. Nhắc đến để buông xả

Học như thế nào để quản lí mình tốt; làm thiện, dừng ác; vì gia đình, vì xã hội mà tròn bổn phận.

Mấy năm gần đây, tôn giáo ở trong nước bị tai tiếng không ngừng, làm cho mọi người trong xã hội hiểu lầm tôn giáo, đặc biệt là Phật giáo lại bị rất nhiều. Nguyên nhân này, vì có rất nhiều đệ tử Phật giáo tự cho mình tin Phật giáo, tự cho mình đang tu hành. Thực ra, họ nhận thức Phật pháp không rõ ràng, hiểu cũng không chính xác, lại không theo đúng Phật pháp để thực hành. Vì thế, chúng ta tin Phật, học Phật, quan trọng nhất là cuối cùng tin như thế nào? Học như thế nào?

Đức Phật là chỉ cho người có nhân cách hoàn hảo, cũng chính là người có trí tuệ và từ bi đều viên mãn. Chúng ta học Phật là phải học theo gương trí tuệ và từ bi của Đức Phật. Từ bi đối với chúng sinh mà nói; người từ bi tuyệt đối không được vì không kiềm chế được hành vi của mình mà làm tổn thương người khác. Người từ bi có thể giúp cho người khác sống chung với mình, cùng làm việc với mình, vừa cư xử khéo léo đạt được lợi ích, gặp thời cơ thích hợp thì khuyên bảo người khác ân cần; hoặc giúp đỡ họ. Chúng ta học Phật như thế mới được người khác kính trọng và quý mến.

Người có trí tuệ thì giảm một chút phiền não, giảm một chút khó khăn đấu tranh với mình. Khi chúng ta đứng trước lí trí và ham muốn cá nhân thì phải chọn lựa, làm rõ chính xác rõ ràng. Nguyên nhân mọi người làm tổn thương người khác, đều là do tự tư. Người bình thường, theo lí trí biết rõ việc đó không nên làm; nhưng vì tâm ích kỉ, mong muốn mình được nhiều lợi ích, tâm tham dục che lấp tâm lí trí, nên họ không thể điều khiển được dục vọng; lại bị dục vọng sai khiến, sinh ra các loại phiền não, thể hiện ra hành động, gây nhiều tổn thương cho người khác. Do đó, chúng ta muốn học trí tuệ của Đức Phật, là phải học chủ nhân của mình. Học như thế nào để quản lí mình tốt; làm thiện, dừng ác; vì gia đình, vì xã hội mà tròn bổn phận.

Khi tôi ở nước Mỹ, có một bà vợ đến tìm tôi khóc lóc. Bà nói:

- Thưa Thầy! Chồng con đã mất tích hơn nửa năm, nay bỗng nhiên xuất hiện; anh ra đi không một lời từ biệt, té ra anh đến sống chung với người phụ nữ khác. Con nghĩ anh đã chết, nên tâm trạng con dần dần tìm được sự thăng bằng, không ngờ xảy ra việc thế này; quả là con sắp điên mất, con muốn giết chết anh ta.

Tôi hỏi:

- Giết chết anh ta rồi, chị làm thế nào? Con cái sẽ ra sao?

- Con mặc kệ, con sẽ dắt con của con đi tự sát luôn.

- Chồng của chị phạm sai lầm, còn chị và con đều vô tội mà.

- Thưa Thầy! Thầy có dạy được chồng con không?

- Chồng chị không đến, tôi không thể dạy được; cho dù chị kéo anh ta đến đây mà anh không tin tôi thì tôi cũng không giúp được; nhưng tôi có thể dạy chị xử lí việc này như thế nào. Đức Phật dạy mọi người phải ‘nhắc đến để buông xả.’ Cho nên chị phải buông xả tâm giận dữ với chồng. Chị phải dũng cảm gánh trách nhiệm một mình nuôi dạy con cái; lại còn vận dụng tâm từ bi tha thứ cho chồng chị và người phụ nữ kia.

Nghe tôi nói, chị bực bội không chịu:

- Như thế thì không công bằng, con không bằng lòng; con của con mang họ của anh ta, tại sao con giúp anh ta để nuôi con?

- Lẽ nào con cái không phải con của chị? Anh ta không làm tròn bổn phận người cha, chị cũng không thể không làm tròn bổn phận của người mẹ. Vả lại, thế gian này việc không công bằng, không hợp lí rất nhiều; có người có thể cải thiện; có người không thể nào đoán được, chúng ta không quản lí được họ. Nếu như mỗi người tự quản lí mình tốt, mỗi người đều làm tròn bổn phận thì việc không công bằng sẽ giảm bớt.

‘Nhắc đến để buông xả,’ chúng ta tin Phật, học Phật, là phải học trí tuệ và từ bi để giúp mình ở trong thế giới hiện thực lộn xộn, nhận rõ sự thật, dứt trừ phiền não. Trí tuệ của Đức Phật từ sự tu hành mà ra, không có tu hành thì không có trí tuệ. Phương pháp tu hành, đời sống tu hành, nói rõ là thực hành trung thực, rất đơn giản, không có dùng thủ đoạn để khoe khoang với mọi người.

5. Nền tảng của hôn nhân

Chỉ có phương hướng nhân sinh, quan niệm sinh tồn giống nhau thì mới bảo đảm ổn định hạnh phúc hôn nhân.

Mấy năm gần đây, tỉ lệ li hôn ở Đài Loan ngày càng cao. Các cơ quan chức năng và đoàn thể thảo luận làm thế nào để tỉ lệ li hôn ở mức thấp nhất; hoặc phòng ngừa xảy ra việc li hôn đã trở thành vấn đề mà mọi người trong xã hội quan tâm bàn luận.

Nguyên nhân tỉ lệ li hôn hơi cao là do nếp sống xã hội và trào lưu thời đại tạo thành. Bởi vì công năng kết cấu gia đình hiện đại và trước đây khác nhau; cảm giác nhu cầu quan tâm, giúp đỡ, dựa vào nhau giữa vợ chồng càng ngày càng ít.

Trước đây, con gái kết hôn là vì tìm người giàu có để nương tựa lâu dài cả đời người. Thế nhưng ngày nay, cơ hội vợ chồng cùng đi làm kiếm tiền bằng nhau; con gái có năng lực mưu sinh độc lập, càng ngày càng phổ biến; nhưng cách nghĩ này sẽ sớm lạc hậu. Lại thêm hoàn cảnh cả vợ chồng tiếp xúc không giống nhau, cách nghĩ khác nhau, tạo thành đồng sàng dị mộng; về mặt tinh thần, quan niệm, tín ngưỡng, thói quen chung càng ngày càng ít, ở đâu cũng thấy.

Bởi vì, vợ chồng không cùng quan niệm, tín ngưỡng, phương hướng; cho nên không thể sống chết cùng nhau, không thể chồng bảo vợ nghe. Thậm chí có rất nhiều người vẫn chưa kết hôn mà có nói thế này: “Tìm một người kết hôn, nếu sau này không hợp nhau thì li hôn là cùng.”

Chỉ có phương hướng nhân sinh, quan niệm sinh tồn giống nhau thì mới bảo đảm ổn định hạnh phúc hôn nhân.

6. Thế giới tương lai

Chúng ta không có biện pháp để ngăn chặn khoa học, kĩ thuật đừng tiến bộ, chỉ biết từ nguồn tâm thanh tịnh của mọi người mà bắt đầu nuôi dưỡng tinh thần giáo dục.

Thế kỉ 21 sẽ trở thành thế giới như thế nào, có rất nhiều người suy đoán, bàn tán xôn xao. Tôi không phải là nhà tiên tri, nhưng theo ý kiến ở các nước thì văn minh vật chất của thế giới tương lai sẽ càng ngày càng phát đạt, nhưng môi trường thiên nhiên lại càng ngày càng tồi tệ. Nhưng nói theo quan điểm Phật giáo, đó là tất nhiên, là quá trình thành, trụ, hoại, không. Khoa học kĩ thuật phát triển, chẳng qua là nâng cao đời sống hưởng thụ vật chất, tuy nó đem lại cho con người thuận lợi rất nhiều, nhưng cũng làm cho tâm linh con người cảm thấy trống rỗng, khoảng cách giữa người với người càng ngày càng xa.

Do đó, tất cả mọi người quan niệm về thế giới, đối với người giữ thái độ lạc quan về tương lai dường như không nhiều. Nhưng khoa học, kĩ thuật có thật đáng ghét như thế không? Lại cũng chưa chắc, chỉ là chúng ta phải biết rõ về khoa học, kĩ thuật; tuy nó mang lại lợi ích cho con người rất nhiều, nhưng mặt trái của sự lợi ích thì nó có năng lực tàn phá tài nguyên thiên nhiên. Việc này giống như khát nước mà uống máu của mình, là việc thật đáng sợ. Nhưng chúng ta không có biện pháp để ngăn chặn khoa học, kĩ thuật đừng tiến bộ, chỉ có từ nguồn tâm linh thanh tịnh của mọi người mà bắt đầu nuôi dưỡng tinh thần giáo dục.

Trước tiên, chúng ta không nên bi quan về tương lai như thế, nhưng phải có tâm lí chuẩn bị. Cho nên, chúng ta hãy liên tục giáo dục, truyền bá với tất cả mọi người, nói với họ hưởng thụ vật chất ở thế giới tương lai ngày càng sung túc, nhưng môi trường cuộc sống thì càng tồi tệ, tâm linh cũng ngày càng trống rỗng. Chúng ta chuẩn bị tâm lí như thế thì có năng lực đối diện sự thật; lại còn biết rõ sẽ xảy ra việc như thế. Sau khi xảy ra thì không nên đau khổ, căng thẳng, sợ hãi mà phải đối diện nó.

Mặt khác, chúng ta phải quyết theo tư tưởng “quí trọng phúc.’ Vật không dùng được thì không dùng; vật dùng ít thì dùng ít; vật có thể sử dụng từ từ thì dùng mãi cho đến khi không thể dùng được thì bỏ, là để giảm bớt tiêu hao tài nguyên thiên nhiên, cũng ít xả rác để giảm bớt tàn phá môi trường thiên nhiên. Chúng ta làm được như vậy thì mới giữ gìn môi trường thiên nhiên được lâu dài; bằng không thì sẽ tàn phá rất nhanh. Bởi vì, một hạng mục tài nguyên thiên nào trên trái đất mà không có sử dụng tuần hoàn lâu dài thật sự.

Thế nên, nếu chúng ta muốn mọi người ở thế kỉ 21 được sống thoải mái một chút, vẫn thường ngắm cảnh non xanh nước biếc thì hãy bắt đầu ngay bây giờ hãy quí tiếc tài nguyên, phải quí tiếc phúc.

7. Làm thiện phải để cho thiên hạ đều biết

Làm cho thiên hạ đều biết là bạn đang làm một việc có ý nghĩa, là vì thả con tép bắt con tôm, thể hiện vai trò của người dẫn đầu, gợi ra tâm thiện, niệm thiện cho mọi người, giúp cho mọi người đua nhau làm theo.

Có các đệ tử Phật giáo đến hỏi tôi: “Thưa Thầy! Ứng dụng Phật pháp trong trường hợp làm việc, có phải bất cứ việc gì cũng phải nhường nhịn, nhẫn nại, không tranh cãi với người, lại còn im lặng cố gắng trả, đừng hỏi thành quả như thế nào; lại không cần thường xuyên báo cáo với giám đốc mình làm tốt việc gì đó. Việc này dường như tương phản với phương pháp thành công trong xã hội hiện thực? Có phải đạo lí Phật giáo dạy không sát thực tế?”

Các vị nói: “Lặng lẽ cố gắng,” theo tôi thấy thái độ và cách nghĩ của việc này chỉ là biểu hiện ở bề ngoài, dường như rất hay, nhưng thực ra thì chưa chắc. Vì sao? Bởi vì, trong một đoàn thể làm việc, chúng ta làm bất cứ việc gì đều phải phối hợp yêu cầu của đoàn thể; nếu như chúng ta im lặng cố gắng là ý nghĩa của cá nhân, hoàn toàn không bàn bạc với người khác, chỉ lặng lẽ làm việc của mình. Tôi nói thật, những người này đều đáng sợ; họ làm việc gì, người khác không biết rõ. Rốt cuộc việc của họ làm là làm đúng, hay là làm sai? E rằng ngay cả chính họ cũng không biết rõ. Các vị nghĩ thử xem, có vị giám đốc nào thích người này không?

Một hôm, có vị thí chủ đem hoa đến chùa cúng dường. Vị này không hỏi người trong chùa mà tự động đem hoa chưng trước tượng Phật. Sau đó, người trong chùa thấy trước tượng Phật không hiểu vì sao có một bình hoa, nên bưng xuống đặt sang một bên. Một lúc sau, người cúng hoa quay lại, phát hiện không thấy hoa, lại tìm bình hoa đặt lại vị trí cũ. Kết quả, bị người trong chùa bưng dẹp đi. Người này tức giận, chạy đến nói với tôi. Tôi hỏi:

- Nếu như tôi không hỏi ý kiến của anh mà tôi tự trang điểm trên khuôn mặt của anh. Vậy anh có đồng ý không?

Anh ta đáp:

- Thưa Thầy! Tất nhiên là con không đồng ý.

- Thì đúng rồi! Trên chánh điện của chúng tôi có người phụ trách chưng hoa. Lần sau, anh có mang hoa đến thì nên giao cho người phụ trách để họ cắm hoa cho bạn. Như thế không phải mọi người đều rất hoan hỉ?

Vì thế, mọi người thường cho mình làm việc tốt, nên chỉ làm theo ý mình; cho dù mọi người có yêu cầu hay không, lòng tốt lại trở thành gánh nặng cho người khác.

Cho nên, đệ tử Phật phải hiểu được để vận dụng trí tuệ, tuyệt đối không nên lặng lẽ làm việc ngu ngốc, mà cũng không nên tự cho mình có tài nhưng không gặp thời; không hợp thì không hài lòng, oán trời trách người. Người có trí tuệ biết dùng thái độ khéo léo thế nào để hòa hợp thân mật với người ngoài, ý kiến cấp trên nói rõ cho cấp dưới, đem tình hình cấp dưới báo cáo lên cấp trên, làm bản hợp đồng thông suốt trong đoàn người, khéo léo giải quyết tranh chấp giữa người với người. Sau đó, phát huy lực ảnh hưởng của mình, làm cho quan niệm của mình được người khác bằng lòng, lực lượng tập hợp mọi người để hoàn thành chí hướng và sự nghiệp theo lí tưởng. Như thế, không những chúng ta thành tựu lí tưởng mà còn thành tựu với mọi người.

Có người thường nói: “Làm việc thiện không muốn cho mọi người biết.” Câu nói này nhìn từ góc độ nào đó, cũng không chính xác hoàn toàn. Chúng ta có thể nói: “Làm việc thiện phải làm cho thiên hạ đều biết.” Làm cho thiên hạ đều biết là bạn đang làm một việc có ý nghĩa, là vì thả con tép bắt con tôm, thể hiện vai trò của người dẫn đầu, gợi ra tâm thiện, niệm thiện cho mọi người, giúp cho mọi người đua nhau làm theo. Như thế, không phải vì nghĩ danh lợi cho mình, mà là vì nghĩ cho mọi người, là việc đáng làm thì phải làm.

8. Đem tâm từ bi vào trong cuộc sống

Tâm từ bi của phàm phu dễ bị cái tôi che lấp, một khi không cẩn thận thì rơi vào trong bẫy tự tư, tự lợi. Thế nên, chúng ta thường kiểm điểm hành vi của mình từ khi vừa khởi tâm động niệm.

Quyển 27, Luận Đại trí độ có nói: “Đại từ là ban vui cho tất cả chúng sinh, Đại bi là cứu khổ tất cả chúng sinh.” Nói đơn giản, đó là tâm đại từ bi, là phải làm cho chúng sinh thoát khổ được vui. Tâm đại từ bi không phải Đức Phật và các vị Bồ-tát mới có, mà hàng phàm phu tục tử chúng ta, ai cũng vốn có tâm đại từ bi này.

Điều này giống như Mạnh Tử nói với Lương Huệ Vương: “Không nỡ thấy người run rẩy.” Người bình thường ‘thấy đứa bé sắp té xuống giếng, đều có tâm hoảng sợ, thương xót.’ Đây là giải thích mầm mống ‘lòng nhân từ’ trong tâm người, ai cũng có, cách nghĩ là giống nhau. Chẳng qua vì tâm từ bi của phàm phu dễ bị cái tôi che lấp, một khi không cẩn thận thì rơi vào trong bẫy tự tư, tự lợi. Thế nên, chúng ta thường kiểm điểm hành vi của mình từ khi vừa khởi tâm động niệm.

Ví như nói, chúng ta thấy dưới đất có một cây kim thì liền nghĩ: “A! May quá! Ta thấy nó rồi.” Vì sao may quá, được bạn nhìn thấy? Là bạn lo lắng mình đạp cây kim? Hay là lo cho người khác đạp phải? Lo cho mình là tâm tự tư; lo cho người khác là tâm từ bi lợi tha. Cho nên, động tác nhặt cây kim lên giống nhau, nhưng ý nghĩ khác nhau, từ bi và không phải từ bi rõ ràng ngay lập tức.

Tâm từ bi có thể xuất hiện bất cứ lúc nào ngay trong cuộc sống hàng ngày. Chúng ta thấy một trái cây, nghĩ đến trong đó có biết bao mồ hôi và nước mắt của người trồng trọt; do đó mà sinh tâm biết ơn thương yêu loài vật, quí trọng phước. Đây là từ bi.

Khi chúng ta thấy người khác gặp nỗi bất hạnh, liền cảm thông; tất nhiên là từ bi; thấy người khác được thăng quan tiến chức thì thầm cầu nguyện, nhưng mong họ biết sống tốt và đối xử với mọi người, đừng có đắc ý vênh váo, để tránh được cảnh vui quá hóa buồn. Đây cũng là từ bi.

Cũng có người hỏi: “Nếu ở nơi hoang vắng thấy con ong bắp cày, nếu không giết nó thì bị nó sẽ cắn chết người. Vậy phải làm thế nào mới cho là từ bi?” Cách làm trọn vẹn nhất, tất nhiên là nhắc nhở với mọi người đừng đến gần nó, một mặt bảo vệ an toàn cho mọi người; đồng thời, cũng bảo toàn quyền sinh tồn cho bầy ong. Nhưng nếu có người nào bị ong bắp cày tấn công, đang gặp nguy hiểm trước mắt; đương nhiên là bảo vệ an toàn thân người là trước tiên.

Cổ nhân dạy: “Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ.” Đứng trên nền tảng của tâm từ bi, vẫn là bắt đầu theo mọi người. Thế nhưng, khi chúng ta thấy con sâu ăn hoa hồng mà bạn đã vất vả trồng trọt chăm sóc. Vậy bạn có nên giết con sâu để bảo vệ hoa hồng không? Tôi nghĩ, biện pháp căn bản nhất, là ngăn chặn cơ hội loài sâu sinh sôi nảy nở; bởi vì, hành động ngăn chặn nguyên nhân sinh ra thân mạng, không bị xem là sát sinh. Nếu như phạm vi con sâu phá hoại rất nhỏ, chỉ ăn vài lá, không đến nỗi ảnh hưởng sự phát triển của hoa hồng. Đây là hiện tượng tự nhiên sinh thái vốn có, cho nên có thể chấp nhận. Còn nếu chúng ta cố gắng như thế mà không thể khống chế được loài sâu phá hoại thì rõ ràng môi trường này hoàn toàn không thích hợp trồng hoa hồng. Tôi cho rằng hãy đổi trồng loài hoa khác.

9. Từ bi phải có trí tuệ

Chúng ta phải lượng sức mà làm, gắng công bền chí làm mãi. Ngoài ra, còn phải tìm cách rèn luyện năng lực để cứu giúp chúng sinh, giúp mình có năng lực để gánh vác nhiều trách nhiệm, càng thích phục vụ nhiều người.

Có rất nhiều người đến nói với tôi: “Thưa Thầy! Khi chúng con đi du lịch đến các nước nghèo, thường thấy người ăn xin và trẻ em đầy đường; mặc dù trong tâm thương xót, nhưng vì còn lo cho mình, không giúp được họ, nên cảm thấy buồn khổ; cũng không thể từ đó mà nhắm mắt để không thấy những cảnh khổ đau ở nhân gian. Vậy rốt cuộc chúng con phải làm thế nào mới có trí tuệ?”

Thực ra, trên trái đất này, nơi nào có con người sinh tồn thì có những người bất hạnh và cảnh tượng khiến cho mọi người thương xót. Cho nên, thế gian là nơi khiến cho mọi người phát tâm bồ-đề mạnh nhất. Người nào nhìn thấy các cảnh khổ đau ở nhân gian mà khởi tâm từ bi thì chúng ta có thể nói người đó có ‘căn lành’. Nếu như người nào nhìn thấy chúng sinh chịu khổ, chịu nạn mà không động lòng thì người này vô cảm.

Cho dù là Phật, Bồ-tát phát nguyện cứu giúp chúng sinh, cũng không thể trong một thời gian; hoặc trong đời này mà cứu hết tất cả mọi người trong thiên hạ, giống như Bồ-tát Địa Tạng phát đại nguyện: “Địa ngục còn chúng sinh thì con thề không thành Phật.” Bởi vì, chúng sinh không ngừng đọa vào địa ngục, nên ngài không bao giờ thành Phật. Đức Phật, Bồ-tát cũng không cứu kịp hết thảy chúng sinh thoát khổ được vui; huống gì phàm phu như chúng ta?

Chúng ta hiểu rõ việc này thì khi bố thí, làm từ thiện, chỉ có thể dựa vào trí lực, tài lực và thời gian của mình, chọn lựa đối tượng gần gũi nhất, có duyên với mình làm điểm đặt để giúp đỡ. Như nói chúng ta phải chăm sóc trẻ em mới lớn, chỉ được chọn lựa một cơ quan nào đó có liên quan, tham gia làm việc một bộ phận trong đó thì mới có thể duy trì được lâu dài. Chúng ta không nên làm quá sức, chỉ trong chốc lát sức lực của mình đều hết sạch. Chẳng những làm công việc từ thiện không trọn vẹn, mà còn kéo dài thời gian làm mệt mỏi cho mình. Đây không phải là cách làm có trí tuệ. Thế nên, chúng ta phải lượng sức mà làm, gắng công bền chí làm mãi. Ngoài ra, còn phải tìm cách rèn luyện năng lực để cứu giúp chúng sinh, giúp mình có năng lực để gánh vác nhiều trách nhiệm, càng thích phục vụ nhiều người.

Còn việc khác, tôi cũng cho rằng, vì để bỏ con tép mà bắt được con tôm ‘làm thiện phải để cho thiên hạ biết.’ Bởi vì, năng lực của một người là hữu hạn, mà đem hữu hạn để phục vụ vô hạn thì hoàn toàn không thể được; cho nên, chúng ta phải gợi mở tâm từ bi của mọi người, kêu gọi nhiều người tham gia công tác từ thiện, là đem vô hạn để phục vụ hữu hạn, sức mạnh vô cùng; lại còn có khả năng khai mở tâm Bồ-đề của người khác, giúp họ cũng có cơ hội bố thí, cũng là một việc công đức lớn.

10. Bảo vệ mạng sống phải có trí tuệ

Tôi hi vọng tiến lên một bước chuyển hóa ý nghĩa phóng sanh, đổi thành công việc nuôi nấng bảo vệ mạng sống.

Phóng sinh là chủ trương của Phật giáo từ xưa đến nay, mục đích là vì từ bi, vì quan tâm đến mạng sống. Phật giáo cho rằng tất cả mạng sống của động vật đều phải được bảo vệ. Không những chúng ta quan tâm mọi người, mà còn quan tâm bình đẳng đến loài động vật.

Tập tục phóng sinh ở Trung Quốc thịnh hành đã lâu. Đến nay, ít có người biết đến sinh thái tự nhiên, cũng có bất giác nghĩ đến: “Mục đích và ý nghĩa phóng sinh hiện nay, có thật sự đạt được mục đích bảo vệ sự sống không? Giống như có những người bắt cá sông mà thả xuống biển; lại bắt cá biển thả xuống sông. Phóng sinh như thế có thích hợp không?” Trên sự thật, cá, chim đều có điều kiện môi trường sinh tồn thích hợp; nếu chúng ta tùy ý di chuyển môi trường sinh tồn thì sẽ trở thành sát sinh mà chẳng phải phóng sinh.

Vả lại, ý nghĩa phóng sinh, vốn là con vật đã bị bắt rồi; hoặc sắp bị đem giết, chúng ta ra tay cứu nó. Nhưng hiện nay, có rất nhiều người kiếm tiền bằng phóng sinh mà đi săn bắt loài sinh vật, khiến cho vô số con vật vô tội, vì phóng sinh mà mất mạng. Tôi hi vọng tiến lên một bước chuyển hóa ý nghĩa phóng sinh, đổi thành công việc nuôi nấng bảo vệ mạng sống.

Đặc biệt ở Đài Loan, ít có chuyện bắt giết động vật chế làm thuốc bắc; hoặc làm tác phẩm điêu khắc; hoặc người ăn thịt cọp, đến nay có lúc vẫn nghe. Chúng ta cũng vì việc này mà bị quốc tế chú ý và chỉ trích. Chúng ta nhìn theo lập trường đệ tử Phật giáo, giết hại động vật để thỏa mãn nhu cầu của mình là người vô liêm sỉ. Đặc biệt là người ăn thịt cọp, là biểu hiện tâm chuộng hư vinh.

Do đó, chúng ta phải kêu gọi toàn dân không được ăn chim quí thú lạ để thỏa mãn ham muốn của mình. Đông y cũng phải có công thức bào chế thuốc, không nên giết hại động vật để bào chế thuốc bắc, phải dùng dược thảo khác để thay thế.

Lại còn vấn đề chó hoang, cũng liên quan đến quan niệm và lập trường bảo vệ môi trường. Trên sự thật, vì sao chó rừng và chó hoang mà hình thành vấn đề, đều do con người tạo thành; cho nên, phải có biện pháp kí kết theo pháp luật, qui định người nuôi chó phải như thế nào.

Kế đến, chó hoang chạy khắp phố, mọi người bắt giết; hoặc không bắt giết cũng không thể giải quyết vấn đề. Trái lại là có thể suy xét, buộc mọi người phải thi hành, giữ chó không cho chạy rông. Đồng thời, cũng có thể vận dụng truyền bá rộng, tăng cường kêu gọi người nuôi chó, không nên vứt bỏ chó. Nếu thật sự có nguyên nhân bất đắc dĩ không thể tiếp tục nuôi dưỡng thì nên thông báo cho đơn vị vệ sinh bảo vệ môi trường; hoặc là trung tâm tiếp nhận nuôi dưỡng chó, để cho nhân sĩ có tâm có thể giúp đỡ nuôi dưỡng chó.

Tôi hi vọng mọi người hiểu rõ cố gắng làm các việc này, thì có thể giảm chậm sự phá hoại văn minh nhân loại, đối với môi trường tự nhiên và môi trường sinh thái.

11. Không chấp nhận thiệt thòi vô lí

Chúng ta muốn giúp đỡ người khác, không thể chỉ dựa vào nhiệt tình làm tiên phong, mà còn có rất nhiều việc phải suy xét rõ ràng.

Nghĩ cho mình, cũng chưa chắc là biểu hiện lòng ích kỉ; nhưng trong tình thế bốc đồng thì không nên chịu thiệt thòi vô lí.

Khi tôi ở Thiền tự Đông Sơ, nước Mỹ từng gặp một vụ án li hôn, đó là vị nữ bác sĩ nha khoa ở nước Mỹ li hôn một mình. Khi cô đi du lịch ở Đại lục Trung Quốc gặp một tài xế taxi. Vị tài xế này mong cô con gái 15 tuổi được du học ở nước ngoài, vì tự mình không đủ khả năng kinh tế. Vị bác sĩ đồng ý nhận nuôi cô bé này. Thế là, cô bé theo vị bác sĩ về Mỹ. Thật sự, cô bé được cơ hội học tập rất tốt như mong muốn. Nhưng chẳng được bao lâu, cô bé đến Thiền tự Đông Sơ cầu cứu. Bởi vì, cha nuôi quấy rối cô bé đã lâu khỏang nửa năm. Mặc dù, Thiền tự Đông Sơ cũng là một tổ chức đoàn thể xã hội, nhưng chúng tôi không thể tùy tiện nhận thanh thiếu niên trốn nhà, vẫn phải theo qui định của pháp luật, xử lí tình huống này. Tôi liên lạc cơ quan phục vụ thanh thiếu niên nước Mỹ, để người trong cơ quan đứng ra bảo lãnh cô bé. Sau đó, họ vẫn quan tâm theo dõi và hướng dẫn cho cô bé.

Tôi thường nhắc nhở mọi người, chúng ta muốn giúp đỡ người khác, không thể chỉ dựa vào nhiệt tình làm tiên phong, mà còn có rất nhiều việc phải suy xét rõ ràng. Đặc biệt là trong xã hội pháp trị, chưa trải qua trình tự pháp luật nhất định thì cá nhân hoặc đoàn thể đều không được tùy ý tiếp nhận trẻ em; nếu không thì phạm pháp luật. Vậy người bình thường chúng ta phải làm thế nào để giúp các trẻ em bị hại? Có hai việc:

1. Chúng ta giúp đỡ các em giống như cơ quan phục vụ, cần phải bảo vệ mỗi trẻ em đều có nơi tị nạn.

2. Kêu gọi mọi người quan tâm đến vấn đề này.

Vì thế, ngoài suy xét năng lực của mình và tính hợp pháp, an toàn cho mình cũng là vấn đề cần phải suy xét.

Cũng có người hỏi: “Thưa Thầy! Khi con đi qua đường, nhìn thấy một kẻ lang thang đi khập khiễng, vừa dơ bẩn vừa hôi hám. Vậy con có nên đến dắt anh ta không?” Nếu như bạn là một người nữ thì phải suy nghĩ kĩ.

Còn có một tình huống, bạn cầm dù đi trong mưa to, nhìn thấy một người đi đường bị mưa ướt hết. Vậy bạn có nên mời người đó đi chung dù với bạn không? Nếu như đối phương là một chàng trai, mà bạn là một thiếu nữ xinh đẹp thì hành động của bạn dễ làm cho chàng trai hiểu lầm. Nếu như đối phương người già, trẻ em yếu đuối thì chẳng ngại gì. Nhưng nếu chiếc dù của bạn quá nhỏ, che cho mình không đủ lúc mưa to thì làm sao giúp người khác? Cho nên, nghĩ cho mình, cũng chưa chắc là biểu hiện lòng ích kỉ; nhưng trong tình thế bốc đồng thì không nên chịu thiệt thòi vô lí.

12. Thường tùy thuận chúng sinh

Chúng ta thường tùy thuận chúng sinh, không phải thuận theo ước muốn của đối phương, mà là theo hoàn cảnh hiện tại, phải suy xét, tính toán trước, thích ứng nhu cầu của đối phương thật sự.

‘Thường tùy thuận chúng sinh’ là một trong mười đại nguyện của Bồ-tát Phổ Hiền. Nếu chúng ta làm được việc này; nếu nói khó thì quả thật rất khó, nhưng nếu nói dễ thì kì thực cũng rất dễ. Vì sao tôi nói như thế? Gọi là ‘chúng sinh’ là chỉ chung tất cả nhân loại, thậm chí tất cả chúng sinh trong vũ trụ. Người bình thường chúng ta làm thế nào để tùy thuận tất cả chúng sinh? Như ngôi nhà lầu cao ngất xây trên đất bằng; người thân, bạn bè, đồng nghiệp, cấp trên, cấp dưới v.v… ở bên cạnh chúng ta, giữa mối quan hệ với mọi người; nếu chúng ta luôn đặt mình vào hoàn cảnh của người khác, tính toán làm theo nhu cầu mà họ thật sự cần. Đây cũng là ‘thường tùy thuận chúng sinh.’

Nhìn từ mặt chữ, có rất nhiều người hiểu lầm ‘theo đuôi người ta’ cho nên viết ‘thường tùy thuận chúng sinh.’ Có vị cư sĩ vốn rất tinh tấn tu hành, có một thời gian bỗng nhiên ẩn mất không gặp. Sau đó, tôi gặp anh. Anh nói với tôi:

- Thưa Thầy! Lâu nay, vì con hướng dẫn mấy người bạn đến học Phật, trước tiên con phải giúp họ hóa giải ấn tượng cố chấp của người học Phật. Họ cho rằng đệ tử Phật đều là giữ giới luật phải đạo mạo trang nghiêm.

Cho nên, anh đi với họ cùng nhau nhậu nhẹt, gái gú; cuộc sống phóng túng. Tôi hỏi anh:

- Lâu nay anh sống với họ như thế, bây giờ họ bắt đầu học Phật chưa?

Anh đáp:

- Thưa Thầy! Họ vẫn chưa học, nhưng con tin họ sắp học.

Kết quả, qua một thời gian rất lâu, chẳng những tôi vẫn không thấy bạn của anh xuất hiện, mà ngay cả anh cũng chẳng thấy.

Vì thế, chúng ta thường tùy thuận chúng sinh, không phải thuận theo ước muốn của đối phương, mà là theo hoàn cảnh hiện tại, phải suy xét, tính toán trước, thích ứng nhu cầu của đối phương thật sự. Ví dụ nói, một đứa bé có năng khiếu viết văn chương thì chúng ta phải bồi dưỡng nó, khích lệ nó, tạo điều kiện cho nó, tập hợp nhiều tư liệu cho nó, thúc đẩy sự thành công của nó. Nhưng không phải nó đang lười biếng mệt mỏi, chúng ta cũng lười biếng với nó. Song việc này cũng không phải hoàn toàn chỉ theo ý mình, vì tâm ưa thích, mong nổi tiếng mà làm tổn thương, bắt ép người khác; giống như có rất nhiều cha mẹ, hoặc tự cho là nhân sĩ, cũng đã làm như thế.

Do đó, một người có trí tuệ, có thể nêu ra nhận xét chính xác, không cần trải qua thời gian mà hợp tình. Như thế, bất luận là cứu giúp đúng lúc nguy nan, giúp người vượt qua cảnh khốn cùng; hoặc là tự mình cố gắng làm cho tốt đẹp hơn, khích lệ mọi người phát khởi tâm nguyện, trên nền tảng thành công; khi thì tiếp nhận, khi thì khích lệ giúp họ tiến thêm một bước, đều là trong cuộc sống thường ngày, việc dễ dàng thì có thể làm được.

13. Hành trì tu dưỡng của con người thời hiện đại

Nhưng chính vì bận, cho nên chúng ta cần thời gian rảnh; không nên cho rằng lợi dụng thời gian ngồi thiền, niệm Phật là lãng phí thời gian. Ngược lại, nó có thể giúp chúng ta nâng cao hiệu suất làm việc và sự phán đoán chính xác.

Phật pháp cho rằng tâm định thì sinh trí tuệ. Nhưng khi cuộc sống không thuận lợi, bất cứ là sự nghiệp, gia đình, học tập, tình cảm v.v…cần phải vận dụng trí tuệ để xử lí vấn đề, thì mới phát hiện mình hoàn toàn không có biện pháp làm cho tâm định rồi; đợi lúc rảnh rỗi mới luận bàn cách để phát huy trí tuệ.

Bình thường cuộc sống của con người rất bận rộn, ngay cả trong tâm cũng rất lăng xăng, nên tâm khó an định. Lúc này, chúng ta cần hành trì tu dưỡng một ít. Nếu như chúng ta không có chút hành trì tu dưỡng, lúc bình thường không gặp việc khó xử, có lẽ vẫn cần giữ sự an định, nhưng khi gặp phải vấn đề cá nhân, hoặc trong sự nghiệp khó giải quyết thì khó giữ được tâm không sinh phiền não, mâu thuẫn, đau khổ.

Vì thế, chúng ta không nên cho mình quá bận rộn, mà không cần học một số phương pháp tu dưỡng. Trái lại, vì bận rộn nên càng cần hành trì tu dưỡng.

Hành trì tu dưỡng như thế nào? Có hai phương pháp:

1. Tin theo tôn giáo: Chúng ta có tin theo tôn giáo, ít nhất sẽ có lòng tin, tin rằng chính mình đang làm việc là vì xã hội, là vì mọi người, là đang trả nợ, là không thẹn với lương tâm. Nếu như chúng ta tạm thời gặp việc khó xử, chỉ cần bình tĩnh thản nhiên thì có thể vượt qua nhanh chóng; vả lại, chúng ta tin Phật, Bồ-tát cũng sẽ hộ trì. Đây chính là lòng tin tôn giáo.

2. Niệm thánh hiệu Phật, Bồ-tát và ngồi thiền: Chúng ta ngồi thiền giúp cho thân tâm được an định. Mỗi ngày, chỉ cần chúng ta ngồi nửa tiếng đến một tiếng, huấn luyện mình bất cứ lúc nào, bất kì nơi nào để đưa tâm trở về thực tại. Nếu như trong tình huống đang động mà chúng ta biết thì cũng làm cho tâm an định. Như thế, chúng ta xử lí sự việc sẽ không xộn lộn, thân thể cũng rất mạnh khỏe.

Xưa nay, sức khỏe tôi không được tốt lắm, nhưng thời gian tôi làm việc mỗi ngày rất dài, vì xử lí công việc rất nhiều. Song tôi vẫn có thể leo núi, ngồi máy bay suốt hành trình dài. Sở dĩ tôi làm được như thế là do tôi thường giữ tâm bình tĩnh, không bị lay động bởi tình huống bên ngoài quấy nhiễu. Tuy không bị quấy nhiễu, nhưng tôi đối phó tình huống bên ngoài rất rõ ràng, dù mắng chửi, dù ca ngợi, dù khen, dù chê, tôi đều biết rõ như trong lòng bàn tay.

Có rất nhiều người cho rằng người xuất gia sống thanh nhàn, không có gặp nghịch cảnh nào. Kì thực, nói về bản thân, bình thường họ vẫn tấn công tôi khá nhiều, nhưng tôi thường giữ tâm thản nhiên; cho nên sức khỏe tôi giảm không nhiều, chẳng qua tôi thường giữ tâm bình thản; nói thì dễ mà làm được cũng rất khó.

Người ngày nay đều rất bận rộn, nhưng chính vì bận, nên chúng ta cần thời gian rảnh; không nên cho rằng lợi dụng thời gian ngồi thiền, niệm Phật là lãng phí thời gian. Ngược lại, nó có thể giúp chúng ta nâng cao hiệu suất làm việc và sự phán đoán chính xác, đối với sự việc đều biết theo lập trường khách quan. Bằng không, chúng ta vừa bị ngoại cảnh kích động liền đánh mất lập trường khách quan thì quá trình xử lí công việc sẽ sai lầm đủ điều mà tự mình không biết.

Tôi mong mọi người có cơ hội thì nên tham gia tu thiền, tiếp nhận phương pháp và tập tu thiền. Nếu như chúng ta thường dành một ít thời gian hành trì, trả giá một chút để đổi được tâm an, tâm định, hoàn toàn là việc đáng làm.

14. Chỉ dạy làm tâm người thanh tịnh

Chúng ta giáo dục học sinh, trước tiên phải có tâm đối diện khó khăn, theo quan niệm và lí tưởng, khả năng mình cống hiến bao nhiêu thì cống hiến bấy nhiêu, khả năng cứu giúp được mấy người thì cứu giúp mấy người.

Từng có một vị thầy dạy học lâu năm ở Học viện Sư phạm đến nói với tôi: “Thưa Thầy! Theo sự thay đổi nếp sống xã hội, hiện nay môi trường giáo dục ở trường học, khiến cho rất nhiều người làm công tác giáo dục cảm thấy nản lòng; cho nên cũng ảnh hưởng đến sinh viên tốt nghiệp có nguyện vọng dạy học.” Thầy rất lo lắng cho sinh viên đang học ở học viện sư phạm, không biết sau này có giữ vững nhiệm vụ dạy học và phát huy chuyên môn không? Vả lại, giảng viên phải làm thế nào để cho những thầy cô giáo trong tương lai hiểu rõ phương pháp chỉ dạy làm tâm người thanh tịnh?

Nhà giáo dục thấy rộng lúc nào cũng trách trời thương dân, ở chỗ lí tưởng và hiện thực; ý kiến khách quan và chủ quan; tự mình và hoàn cảnh đối lập nhau trong thế gian. Chúng ta nhìn giá trị của mỗi người, bối cảnh sinh hoạt, trong quá trình trưởng thành đều có khác nhau. Cách làm, cách nhìn của mỗi người cũng không giống nhau hoàn toàn. Cho nên phải để người làm công tác giáo dục tương lai nhận định rất rõ ràng họ sẽ đối diện với phụ huynh và học sinh trong muôn hình vạn trạng, không thể đòi hỏi cả lớp là những học sinh đều là phẩm hạnh tốt. Bởi vì, việc này là không thể được.

Nhà giáo dục nổi tiếng là tự mình phải làm được, có khả năng làm được, cần làm được, hết lòng để làm, việc không làm được thì không cần cố đòi hỏi; hết lòng ra sức kêu gọi mọi người đều bằng lòng, nhưng có người khác không đồng ý cũng không được oán trách. Bậc Đạo sư trong Phật pháp cũng như thế.

Sau khi, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni thành đạo, Ngài hoằng pháp độ khắp chúng sinh. Bồ-tát Địa Tạng cũng phát nguyện: “Địa ngục còn chúng sinh thì con thề không thành Phật.” Nhưng chúng sinh nhiều như thế, phiền não của chúng sinh cũng dường như càng ngày càng nhiều; bản thân làm nhà tôn giáo là không bao giờ thất vọng, chỉ cần chúng ta không bao giờ dừng nghỉ đem hết sức mình làm tốt công việc. Chúng ta dạy học sinh cũng phải như thế. Trước tiên phải có tâm đối diện khó khăn, theo quan niệm và lí tưởng, khả năng mình cống hiến được bao nhiêu thì cống hiến bấy nhiêu, khả năng cứu giúp được mấy người thì cứu giúp mấy người.

Có người cho rằng đứa bé không ngoan thì nhờ tôi xoa đầu một cái, chúc phúc một tí thì được cải thiện. Nếu thật sự có ích thì tôi cần gì bận rộn đi hoằng pháp khắp nơi, bôn ba vất vả như thế? Chỉ cần ngồi đó chuyên môn xoa đầu thì được rồi.

Cũng có người hỏi tôi:

- Thưa Thầy! Nếp sống xã hội không tốt lắm, có phải từ các vị lãnh tụ chính trị dẫn đầu cao cấp mới thay đổi được nếp sống?

Tôi đáp:

- Đúng vậy! Trên làm dưới theo là có thể được; những cũng không phải có ích tuyệt đối.

Bởi vì có rất nhiều việc, nhưng không phải số ít tầng lớp nhân sĩ cao cấp mà có thể giải quyết.

Phật pháp nói ‘cộng nghiệp,’ tức là phải kết hợp lực lượng chung của mọi người, hi vọng giáo dục mọi người trong xã hội cùng hiểu. Nhưng giáo dục mọi người cùng hiểu cũng không thể ‘làm theo ý mình.’ Vì chưa chắc mọi người đều hưởng ứng.

Cũng có người nói, nếu mọi người đều tin Phật thì đất nước thái bình, nhân dân yên ổn, thế giới hòa bình, thật sự không đơn giản như thế. Cuối cùng vấn đề nhân loại, chẳng phải là khách quan hoàn toàn; vẫn có nhân tố cá nhân chủ quan tồn tại. Do đó, nếu giáo dục đúng thì có thể thay đổi đến trình độ nào đó. Nhưng nếu chúng ta muốn đạt được mục đích giáo dục lí tưởng trọn vẹn là mong cầu quá mức. Cho nên khả năng chúng ta cứu giúp được bao nhiêu thì tính bấy nhiêu; trái lại là cách làm việc cụ thể tích cực.

15. Giáo dục và tu thiền

Ở đời không có người xấu, chỉ do người làm việc xấu; đứng trên lập trường giáo dục, chúng ta phải có tấm lòng mới đúng. Chúng ta phải ứng dụng từ bi và trí tuệ để đối diện hiện tượng xã hội ngày nay thì không còn cảm thấy tuyệt vọng và bất lực như thế.

Xã hội thay đổi liên tục, sự kiện thanh thiếu niên liên quan đến bạo lực càng ngày càng nhiều, tỉ lệ phạm tội cũng ngày càng tăng nhiều, nên có rất nhiều thầy giáo và nhân viên giáo dục đang xử lí học sinh vướng phải các sự kiện bạo lực, họ thường cảm thấy thất bại và cảm thấy bất lực, vì có vụ rất tàn ác.

Ở Pháp Cổ Sơn có rất nhiều tín chúng làm nghề giáo viên. Họ cũng thường hỏi tôi: “Thưa Thầy! Chúng con làm thế nào đây! Thầy có biện pháp nào đạt được hiệu quả nhanh chóng, có thể cải thiện được tình huống này không?” Họ cũng muốn đem pháp tu thiền phổ biến trong nhà trường để hướng dẫn cho các em học sinh có hành vi sai lệch nào đó; thậm chí ứng dụng Phật pháp để dạy học, giúp đỡ nhà trường giáo dục, phát huy đạt được hiệu quả cao nhất.

Tôi có nói hai câu: “Dùng từ bi để quán tâm người khác, dùng trí tuệ để chăm sóc mình.” Chúng ta dùng từ bi để xử trí với người, đối xử với người; dùng trí tuệ để giải quyết công việc, liên quan với công việc. Ở đời không có người xấu, chỉ do người làm việc xấu; đứng trên lập trường giáo dục, chúng ta phải có tấm lòng mới đúng. Chúng ta phải ứng dụng từ bi và trí tuệ để đối diện hiện tượng xã hội ngày nay thì không còn cảm thấy tuyệt vọng và bất lực như thế. Vả lại, cả xã hội là thay đổi nhiều thực thể, nguyên nhân hình thành nếp sống xã hội cũng là rắc rối, phức tạp; chẳng phải chỉ riêng phương diện nhà trường mới chỉ dạy được, cũng chẳng phải một trường học, hoặc một vùng mà cải thiện được. Vì thế, cách làm tích cực phải là cải thiện nếp sống xã hội, sáng lập nếp sống xã hội mới, thúc đẩy nếp sống xã hội.

Đầu tiên, cải thiện tâm người, tính người; từ điều này mà dần dần mở rộng toàn diện; từ tạm thời đi đến lâu dài. Lại bắt đầu làm từ tôn giáo và bản thân người làm công tác giáo dục, nên kêu gọi mọi người dần dần mở rộng môi trường làm việc, cho đến toàn bộ xã hội. Nếu như chúng ta chỉ là đau đầu chữa đầu, đau chân chữa chân thì chỉ chữa được phần ngọn, không thể chữa trị tận gốc.

Chính tôi được biết, hiện nay ở Đài Bắc có vài trường Trung học và Cao đẳng dạy học sinh tu thiền, đạt được hiệu quả rất tốt. Nhưng là đang thúc đẩy, trước phải giúp các em thể nhận được giá trị quan niệm và hạnh phúc an lạc thì mới có hiệu quả chân thật. Bằng không thì chỉ là hành trì làm ở bề ngoài, còn bên trong tâm linh không có cảm nhận an lạc. Một khi, các em rời khỏi cổng trường, quan niệm tu thiền đã học được chắc sẽ không còn gì, vấn đề trước đây sẽ xảy ra.

Giáo dục là một công việc mang tính toàn diện, cần sự thúc đẩy chung của mọi người trong thời gian dài, nên rất khó đạt được hiệu quả nhanh chóng. Do đó, chúng ta phải có chuẩn bị tâm lí trăm năm trồng người, và chúng ta muốn đẩy mạnh tu thiền, cũng không phải chỉ khi đang tu thiền; hoặc khi gần gũi vị thầy mới thực hành; bằng không thì nếp sống sau này lại không còn. Rốt cuộc vẫn phải dựa vào mọi người cùng nỗ lực trong thời gian dài.

16. Nhìn chính trị theo Phật pháp

Cá nhân tôi rất chú trọng quyền bỏ phiếu bầu cử chính trị; lại không muốn lấy lực lượng của tôi và danh nghĩa đoàn thể để được ảnh hưởng; hoặc sai khiến người khác.

Mỗi dịp thời gian bầu cử đến, có rất nhiều người được ứng cử, người được tuyển cũng rất hi vọng được sự đồng ý, hoặc tiến cử của đoàn thể Phật giáo. Nhưng dân chúng quan tâm chính trị, cũng thường tranh luận nhau để hiểu cách nghĩ và cách làm của đoàn thể Phật giáo.

Trên sự thật, tôi không cần nói đệ tử Phật giáo mà tất cả mọi người đều không thể tách khỏi chính trị. Nói về chính trị có thể chia hai nghĩa rộng và hẹp:

1. Chính trị nghĩa rộng: Chỉ cho công việc quản lí mọi người; cho dù quản lí việc nhà cũng là chính trị. Tất cả địa phương có người đều cần quản lí đều có chính trị. Điều kiện trước tiên ở đây, đệ tử Phật giáo đương nhiên cũng cần chính trị.

2. Chính trị theo nghĩa hẹp: Chỉ cho cán bộ đảm nhiệm công việc thuộc cơ quan chính trị, đại diện cho nhân dân. Nếu đệ tử Phật giáo không tham gia chính trị thì không có chỗ đứng, cũng không có cơ hội để bày tỏ ý nguyện của mình; như thế, sẽ bị xã hội quên lãng. Vì thế, tôi tán thành cá nhân tham gia hoạt động chính trị.

Nhưng nói theo đoàn thể, nếu tính chất tôn chỉ và hạng mục công việc thì không nên lấy chính trị để thiết lập làm mục đích. Nếu ban đầu chúng ta vận động tham gia chính trị thì sẽ quên đi thiết lập đoàn thể, giống như tôi đã lãnh đạo đoàn thể là vì thúc đẩy ‘nâng cao phẩm chất của mọi người, xây dựng Tịnh độ ở nhân gian’ làm quan niệm. Một khi phương hướng sai lệch thì đoàn thể đứng trước nguy cơ tan rã.

Do đó, cá nhân tôi rất chú trọng quyền bỏ phiếu bầu cử chính trị; lại không muốn lấy lực lượng của tôi và danh nghĩa đoàn thể để được ảnh hưởng; hoặc sai khiến người khác.

Nói tóm lại, tôi ủng hộ cá nhân tham gia chính trị, nhưng không chấp nhận lấy danh nghĩa đoàn thể của chúng tôi để lao vào vận động chính trị.

17. Áp dụng phương pháp thiền

Chúng tôi đang huấn luyện người xuất gia, hoặc cư sĩ tại gia từng bước thật sự. Tôi hi vọng ngày càng có nhiều người hướng dẫn phương pháp, hoặc quan niệm tu thiền thông thường.

Nhiều lần trong buổi tọa đàm đưa ra công khai, thường có một số khách quí giữ chức vụ thuộc cơ quan chính phủ hỏi tôi: “Thưa Thầy! Áp dụng phương pháp thiền như thế nào để giải quyết tình trạng lộn xộn trong xã hội? Các ban ngành chính phủ quan niệm ứng dụng thiền như thế nào để trừ tận gốc bệnh trạng xã hội?”

Trên sự thật, có hai vấn đề cần nói là quan điểm hoặc phương pháp ứng dụng thiền như thế nào để chủ động giúp đỡ xã hội đạt được mục đích tâm linh thanh tịnh. Đồng thời, chính phủ phải áp dụng phương pháp thiền như thế nào được thiết thực vào đời sống thường ngày của dân chúng.

Nhìn chung, đơn vị giáo dục các nơi ở Đài Loan đều từng hợp tác, tổ chức với các tự viện Phật giáo qua vị thầy quản lí tu thiền, quản lí thanh thiếu niên tu thiền; hoặc là xây dựng tinh xá; hoặc là do tự viện cung cấp sân bãi để làm trung tâm tu tập, và hướng dẫn cho trẻ em, học sinh. Chúng ta đủ thấy Phật giáo và một số nhân sĩ của chính phủ có tâm đều đã nỗ lực về phương hướng này.

Thế nhưng, hiện nay Phật giáo đang ở giai đoạn đổi mới, nhân lực không đủ, địa phương yêu cầu chúng ta cung cấp, phục vụ khá nhiều. Nhưng chúng ta cung cấp nhân lực phục vụ còn giới hạn; huấn luyện thầy giáo, nhân viên vẫn không kịp. Bởi vì, thực hành thiền thì nhất định phải quán sát, nhận biết chính mình, trong tâm cảm giác thọ nhận thật sự thì mới có khả năng giúp đỡ người khác chính xác. Bằng không thì lúc thực hành, lúc không, thật không đáng tin cậy, năng lực cũng có giới hạn. Cho nên chúng tôi đang huấn luyện người xuất gia, hoặc cư sĩ tại gia từng bước thật sự. Tôi hi vọng ngày càng có nhiều người hướng dẫn phương pháp, hoặc quan niệm tu thiền thông thường.

Nhưng về tương lai thì không xác định, muốn hướng tới nếp sống xã hội cũng rất khó nói. Như ở nước Mỹ vào năm 1970 ở trường Trung học và Cao đẳng đều có sắp đặt giờ ngồi thiền; nhưng đến năm 1990 thì hiện tượng này không còn. Nguyên nhân là kinh tế xã hội nước Mĩ lúc ấy rất giàu mạnh, đời sống ổn định, nên mọi người muốn tìm đến đời sống tinh thần. Chỉ khi kinh tế suy thoái, số người thất nghiệp càng đông, nên người tìm đến đời sống tinh thần cũng ít.

Ngoài ra ở Singapore, hơn mười năm trước do chính phủ huấn luyện, nên có rất nhiều thầy cô giáo giảng dạy khóa trình môn học tôn giáo, ở Trung học dành cho tôn giáo thường thức; bao gồm cả phương pháp và quan niệm ngồi thiền, nhưng chỉ thực hành được bốn, năm thì dừng.

Vì thế, mặc dù tôi hợp tác với chính phủ và nhân dân thúc đẩy tu thiền; hoặc làm tâm linh thanh tịnh, gởi gắm niềm hi vọng, nhưng chính sách và nếp sống về tương lai sẽ như thế nào thì không có nắm chắc. Tôi chỉ mong mọi người trí thức trong toàn quốc cùng nhau nỗ lực.

18. Phật pháp trong xí nghiệp

Nếu như người Phật tử nói từ bi mà không cạnh tranh, như thế thì chính bạn không trưởng thành, mà đối với người khác cũng không được lợi ích thật sự. Chúng ta có cạnh tranh thì xã hội càng tiến bộ, càng phát triển mạnh.

Một lần, trong hội nghị tọa đàm về cơ sở xí nghiệp, có một vị giám đốc xí nghiệp rất nổi tiếng hỏi tôi ba vấn đề:

1. Theo lập trường nào không trái với từ bi mà ở trong xí nghiệp vẫn giữ được sự cạnh tranh có công bằng?

2. Tiền lãi của công ti, giám đốc phải tặng cho công nhân viên và xã hội như thế nào cho hợp lí?

3. Sử dụng khoản tiền vay không thuận lợi, để điều chỉnh tâm thái như thế nào để đối diện vấn đề?

Ba vấn đề này không hề khó hiểu. Tôi thường nói: “Làm nghề kinh doanh thì nói chuyện kinh doanh, nên cạnh tranh là chuyện bình thường.” Nếu như Phật tử nói từ bi mà không cạnh tranh, như thế thì chính bạn không trưởng thành, mà đối với người khác cũng không được lợi ích thật sự. Chúng ta có cạnh tranh thì xã hội càng tiến bộ, càng phát triển mạnh, có đối thủ chúng ta mới làm việc tốt hơn.

Ví dụ tôi làm ở sở nghiên cứu, nếu một mình thì cảm thấy cô độc; bởi vì, không có đối tượng để tôi biết cải thiện như thế nào mới làm được tốt hơn, hoàn mỹ hơn. Sau đó, có người thành lập một sở nghiên cứu khác; mặc dù tôi cảm thấy áp lực khá lớn, nhưng lại thấy hứng thú. Bởi vì, một bàn tay khó vỗ thành tiếng, hai bàn tay vỗ phát ra tiếng thì mới có sức mạnh; cho nên cạnh tranh là điều tất yếu. Nhưng chúng ta phải cạnh tranh tốt thì đối với mình, đối với xã hội đều được lợi ích rất tốt, mọi người đều được tiến bộ. Nếu như chúng ta cạnh tranh thất bại, là thể hiện năng lực còn kém, trí tuệ còn yếu, chuyên môn không giỏi, cần phải cố gắng trau dồi.

Còn về vấn đề thứ hai, tôi trả lời: Đức Phật dạy trong Kinh Thiện Sanh,[14] nêu ra vấn đề thu nhập của cư sĩ, có thể chia làm bốn phần; ngoài nhu cầu sinh hoạt hàng ngày và gởi tiết kiệm, còn phải có vốn để kinh doanh và dùng vào đầu tư. Đến nay, cũng phải làm như trong kinh dạy. Chúng ta phải cân nhắc trích ra số tiền để làm công việc xã hội; bao gồm hộ trì cúng dường Tam bảo, cứu giúp người nghèo và tặng cho xã hội.

Nếu như chúng ta kinh doanh xí nghiệp mà không có vốn để đầu tư thì sự nghiệp không thể phát triển. Vả lại, làm nghề kinh doanh thì sẽ xảy ra việc lỗ lãi, vì để điều chỉnh việc lỗ lãi, nhất định chúng ta phải gởi tiền tiết kiệm, là đề phòng việc lỗ lãi khi cần thiết.

Người làm kinh doanh xí nghiệp, không những bản thân phải có quan niệm như thế, mà còn kêu gọi cho các công nhân viên trích một phần tiền để phát triển công ty. Công ty phát triển mạnh, càng ổn định thì kinh tế càng mạnh, tiền lương của công nhân viên cũng được tăng lên, nghề nghiệp của họ cũng được ổn định.

Nhưng khi chúng ta gặp khoản vay tiền có vấn đề thì dễ xảy ra tình trạng vỡ nợ, đóng cửa. Những doanh nhân có uy tín cũng chẳng muốn xảy ra việc như thế. Song tình hình kinh tế thay đổi nhanh chóng rất khó đoán trước được, cách làm vững chắc nhất vẫn là ‘đầu tư mà không nên đầu cơ.’

Đầu cơ là mình không có vốn, nên mua bán khống; một khi xảy ra vấn đề thì thành tiền của mọi người, của ngân hàng, mà tiền của ngân hàng là tiền của chính phủ; hoặc là tiền chung của xã hội; tội này rất nặng. Vì thế, cơ sở xí nghiệp nổi tiếng thì phải suy xét rõ ràng; nếu như chúng ta không đủ vốn thì tốt nhất đem thông minh, tài trí của mình làm công cho người khác để lãnh lương; hoặc sang xí nghiệp cho người cần, tự mình không nên kinh doanh mạo hiểm. Đây là việc rất nguy hiểm.

19. Tâm được mất và tâm bình thường

Nếu như chúng ta chấp nhận buông xả như thường, được mất tự tại; tốt xấu chẳng để ý, chỉ cầu tự mình nỗ lực không ngừng; như thế, không những người khác cảm thấy tin cậy chúng ta, mà chính mình cũng không mất đi lòng tin.

Có rất nhiều người, sau khi đọc xong kinh Phật, sách Phật cũng biết ít nhiều về đạo lí buông xả tâm được và mất. Nhưng khi mình làm ở xí nghiệp, gặp phải áp lực thành tích và cạnh tranh thì không biết thích hợp như thế nào.

Trên sự thật, tâm được và mất ai ai cũng có. Khi chúng ta không đạt thành tích thì ảnh hưởng trực tiếp thu nhập và sắc mặt khó chịu của giám đốc, về nhà thì dễ cãi nhau với vợ. Thế nên, chúng ta muốn đạt thành tích tốt thì không những có sức khỏe, trí tuệ mà còn có phước đức, cũng chính là nói vận tốt, vận xấu theo thông thường. Chúng ta không thể điều khiển số phận của mình, lại không có cách gì giải thích được, có lẽ là do đời quá khứ hiện ra.

Vì thế, khi chúng ta đối diện sự nghiệp không như ý, chi bằng nghĩ thế này: “Mình đi đường lâu ngày cũng phải dừng nghỉ, như khi trèo lên núi, có lúc lên dốc, cũng có lúc xuống dốc; chỉ cần cố gắng hết sức thì được rồi, đạt được thành tích cao tất nhiên là tốt rồi, nhưng thành tích thấp cũng không cần lo buồn, mình có lo buồn cũng chẳng có ích gì cho công việc. Chi bằng buông xả tâm được và mất, bằng không khi gặp thất bại dễ mất lòng tin, mất đi dũng khí cầu tiến, con đường tương lai sẽ càng ngày càng vất vả.”

Nếu như chúng ta chấp nhận buông xả như thường, được mất tự tại; tốt xấu chẳng để ý, chỉ cầu tự mình nỗ lực không ngừng; như thế, không những người khác cảm thấy tin cậy chúng ta, mà chính mình cũng không mất đi lòng tin. Bất cứ là cá nhân, gia đình, xã hội đều phải mạnh mẽ với nó, trực tiếp với nó.

Nếu chúng ta không buông bỏ thành tích được mất; vì lợi ích, được mất cũng thường làm cho mọi người khó mà yên tâm. Từng có một anh làm ở cơ sở xí nghiệp đến nói với tôi: “Con thường tốn tiền mà vốn không muốn tốn, nên làm cho con rất khó chịu.”

Anh không muốn tốn tiền mà tốn thì không bằng lòng, tốn tiền trong bực bội. Điều này có thể lấy nhân quả để nói là không thể nghĩ bàn. Ngoài ra, đứng trên lập trường Phật giáo, cũng có thể nói dùng tâm thái ‘kết duyên’ để đối diện. Có người chuyên tham nhũng chiếm đoạt tài sản của người khác; có người thường xuyên hao tốn của cải, tình trạng như thế trong xã hội rất nhiều. Thậm chí, trong gia đình cũng vậy. Nếu như chúng ta nghĩ tiến lên một bước, vì xã hội cần mà cống hiến, nên ta sẵn sàng cống hiến, rõ ràng là ta vẫn còn phước báo; vả lại, tâm từ bi của mình nhân đây mà được trải nghiệm, trưởng thành.

Tôi có một vị đệ tử quy y cũng nêu ra vấn đề tương tự. Tôi nói:

- Rất tốt! Vì anh có tiền nên mới tốn tiền.

Anh đáp:

- Nhưng con không có tiền mà vẫn tốn, nên mới cảm thấy bực bội.

- Khi anh bị như thế thì tính toán như thế nào?

- Dạ, con đành phải ra sức tìm biện pháp.

- Người có khả năng nghĩ ra phương pháp; trên thực tế, tuy họ không được thứ gì, nhưng họ đã được huấn luyện nỗ lực, kinh nghiệm và trưởng thành. Đây là gặt hái quan trọng nhất, có giá trị nhất.

20. Từ bi trong quản lý

Phương pháp quản lý cần phải thay đổi quy định. Ở kinh doanh thì nói chuyện kinh doanh, ở công ty thì nói chuyện công ty, cần yêu cầu làm việc thì yêu cầu làm, không thể qua loa mà tự cho mình là từ bi; thực ra làm hỏng từ bi, làm hư người tốt.

Người ngày nay chú trọng tự do, lãng mạn. Người làm thường xuyên cảm thấy không hứng thú thì xin nghỉ phép, tuy có cán bộ trong công ty nhắc nhở, khuyên bảo, dường như không có hiệu quả gì; cho dù giám đốc đích thân ra tay cũng chưa chắc có ích. Vì thế, có rất nhiều vị giám đốc xí nghiệp tìm đến tôi xin chỉ bảo, hai vấn đề là mối quan hệ với mọi người và quản lý công ty. Phải làm thế nào khi gặp việc khó xử và xử lý thích hợp?

Vấn đề như thế, ngay cả trong tự viện của chúng tôi cũng có thể xảy ra. Ngày xưa ở tùng lâm có nói một câu thế này: “Từ bi lộ ra tai hại, hương bản xuất hiện Tổ sư.” Hương bản là dùng để đánh người. Nếu như vị thầy không dùng hương bản chỉ dùng từ bi để đối xử với đệ tử, như thế thì đệ tử chẳng những không thể thành bậc pháp khí, bậc tài đức, mà có thể trở thành người xấu. Do đó, có rất nhiều người đến chùa, chỉ thấy khuôn mặt Bồ-tát từ bi, nhưng chưa thấy Kim Cang trợn mắt.

Khi chúng ta làm quản lý, là phải tách biệt phương pháp và động cơ. Phương pháp quản lý cần phải thay đổi quy định. Ở kinh doanh thì nói chuyện kinh doanh, ở công ty thì nói chuyện công ty, cần yêu cầu làm việc thì yêu cầu làm, không thể qua loa mà tự cho mình là từ bi; thực ra làm hỏng từ bi, làm hư người tốt. Từ bi chân thật là giúp cho đối phương làm tốt, giúp cho đối phương được lợi ích. Vì làm cho đối phương được lợi ích, nên lúc bình thường mình không để xảy ra sai sót; quản lý chặt chẽ như thế là sự cần thiết.

Có lẽ lúc đầu sẽ có người cho rằng giám đốc rất dữ tợn và không tốt; nhưng động cơ của giám đốc là làm cho họ tốt, sáng tạo nhiều lợi ích cho họ; sau đó, họ sẽ cảm nhận được. Đồng thời, người làm lãnh đạo cũng phải hiểu rõ để chỉ dạy công nhân viên, giúp cho họ được trưởng thành và lợi ích càng nhiều.

Chúng ta càng quan tâm về giáo dục chính là từ bi. Ở đây nhiều nguyên tắc, có thể biểu hiện ra nhiều phương pháp khác nhau. Ví dụ, tôi rầy la đệ tử là vì chỉ dạy họ, nhưng không thể la rầy bừa bãi mà phải có lý do để họ cảm nhận được sự quan tâm.

Ngoài ra, tất cả việc thành tựu, đều phải kết hợp sức lực của nhiều người. Một công ty muốn có tiền đồ thì phải dựa vào sự đồng tâm hiệp lực của công nhân viên; nếu chỉ mình giám đốc thì không có cách nào làm được. Cho nên, người làm quản lý, phải lấy lợi ích của toàn thể những người tham gia mà làm lợi ích, lấy sự cần thiết mà làm nhu cầu. Như thế, mọi người mới có thể dốc hết tâm lực. Nếu một công ty vì quan niệm chung mà toàn thể từ cấp trên xuống cấp dưới cùng nhau nỗ lực thì chắc chắn sự nghiệp ngày càng phát triển mạnh.

Vì thế, tôi cho rằng, chỉ cần có người thì có hi vọng; có người thì phải quan tâm, thì phải có tinh thần giáo dục. Như thế mới là người quản lí có tâm từ bi.

21. Nỗ lực bảy phần, phước báo ba phần

Sở dĩ người thế gian tham của cải, là vì của cải bảo đảm đời sống an toàn, làm nổi danh thân phận và địa vị. Cổ nhân nói: “Có tiền mua tiên cũng được.” Chúng ta đủ thấy thế lực của kim tiền chẳng phải mới bắt đầu ngày nay.

Thật vậy, của cải đem lại cho con người nhiều tiện nghi; đặc biệt xã hội ngày nay, vừa ra khỏi nhà thì phải cần dùng tiền; nếu không có tiền thật sự không đi đâu được. Tiền của quan trọng, nên ai ai cũng muốn làm giàu. Nhưng có câu nói: “Tiền tìm người thì dễ, người tìm tiền rất khó.” Lại nói: “Tiền có bốn chân, người chỉ hai chân, nên đuổi thế nào cũng không đuổi kịp.” Người muốn làm giàu có phương pháp, có trí tuệ vẫn chưa chắc làm được; rõ ràng áp dụng phương thức kinh doanh giống nhau, nhưng có người kiếm được tiền lời; có người lại bị lỗ nặng. Hiện tượng này là do hành nghiệp của mỗi người mà chúng ta cũng thường thấy. Rốt cuộc việc này là như thế nào?

Thực ra, kiếm tiền hay không kiếm tiền, có một nửa phải nhìn người kinh doanh có nỗ lực hay không; phương hướng đúng hay sai; còn lại một nửa là dựa vào phước báo.

Tôi có một đệ tử quy y, đang làm cố vấn cho một công ty, chuyên giúp cho giám đốc kiếm tiền lời; giám đốc nhờ anh mà tiền lợi nhuận rất nhiều. Sau đó, anh nghĩ: “Mình giúp giám đốc kiếm tiền lời rất nhiều, chi bằng mình mở công ty để kiếm tiền riêng cho mình.” Kết quả, anh vẫn làm giống như thế, chẳng những anh không kiếm được tiền lời, mà còn bị lỗ nặng. Sau đó, anh suy nghĩ kĩ, trở lại công ty cũ làm việc trợ giúp giám đốc. Nói ra cũng lạ kỳ, anh vừa quay về làm thì nguồn lợi nhuận tăng nhanh chóng. Vài năm sau, anh không bằng lòng, lại tự mình mở công ty tiếp; kết cục, vẫn là như thế. Cuối cùng anh đành phải chấp nhận, ngoan ngoãn làm công, nhận tiền lương của giám đốc, ra sức giúp họ kiếm lợi nhuận rất nhiều.

Ở Đài Loan, người như vậy đặc biệt rất nhiều. Ai cũng muốn mình làm chủ tịch hội đồng quản trị, làm ‘đứng đầu công việc nào đó.’ Họ không bằng lòng làm cho công ty người khác để lãnh tiền lương; bởi vì, họ thấy người ấy cũng giống như mình chẳng có tài năng gì thì có thể làm giám đốc nhẹ nhàng, kiếm tiền lời rất nhiều.

Trên sự thật, một người kinh doanh thành công, thông thường ai cũng có một kĩ thuật để dùng người, vẫn có năng lực quyết sách phán đoán chính xác, nghị lực kiên quyết, quán sát nhạy bén biến đổi thị trường để cân nhắc v.v…Tất nhiên phải có phước báo mới làm được. Người có thông minh, trí tuệ mà không có phước báo, giỏi lắm chỉ kiếm được một ít tiền lời.

Tôi nói như thế, chúng ta không cần lo tính toán có tiền lời hay không có lời, mà thuộc về phần còn lại là do có phước báo hay không. Do đó mà giới trẻ không dám tự mình sáng lập sự nghiệp. Thực ra, tôi luôn khuyến khích hoài bão lớn của giới trẻ, nên đứng ra tạo dựng sự nghiệp, nhưng điều kiện trước tiên là phải ở trong phạm vi làm được, sưu tập tư liệu, chuẩn bị tốt. Nếu chúng ta có nắm chắc thành công năm mươi phần trăm trở lên thì tiến hành nhé! Cho dù có thất bại cũng làm cho mọi người tâm phục, khẩu phục. Nếu như trước khi xảy ra sự việc, chúng ta không dành thời gian sưu tập tư liệu để học hỏi cũng không tính toán nguyên nhân hậu quả rõ ràng, ngay cả một chút cũng không nắm chắc, chỉ nói mà không làm, thì sẽ tự mình chuốc lấy khổ não vớ vẩn; thế thì không nên oán trời, cũng không được trách người.

phần sau bìa cuối bìa sách

Chúng ta nghi ngờ và bất an khi đối diện cuộc sống hiện thực. Ở đây là người đi trên con đường lớn thong thả, tự tại. Nơi nào cũng là Tịnh độ ở nhân gian, tự mình được an tĩnh thoải mái. Pháp sư Thánh Nghiêm sẽ đưa ra những đáp án mang tính từ bi và trí tuệ cho vấn đề nầy.



[1] Devadatta, 提婆達多: gọi tắt là Đề Bà (提婆). Là em họ của đức Thế Tôn, anh của A Nan (s, p: Ānanda, 阿難), con của trưởng giả Thiện Giác (善覺) và là em của công chúa Da-du-đà-la (s: Yaśodharā, 耶輸陀羅). Khi Đức Thế Tôn về thăm cố hương của mình, ông đã cùng với những người thanh niên của dòng họ Thích-ca như A-nan, A-na-luật (s: Aniruddha, 阿那律), Ưu-ba-ly (s, p: Upāli, 優波離), v.v…, đã xuất gia và theo làm đệ tử của đức Phật. Trong suốt 12 năm trường, ông thường có thiện tâm và nỗ lực tu tập, nhưng không chứng được thánh quả nên dần dần tâm ấy thối chuyển và sanh ra ác niệm.

[2] Ngôn ngữ đạo đoạn. Tâm hành xứ diệt. 言語道斷 心行處滅

[3] Trúc Lâm Thất Hiền竹林七賢Trúc lâm thất hiền: Bảy nhà thơ, nhà văn Trung Quốc sống thời kì cuối Ngụy đầu Tấn, thế kỉ thứ 3, ở ẩn trong rừng trúc, đánh đàn, uống rượu, ngâm thơ, bàn triết học Lão Trang, nói chuyện huyền viễn để tỏ lòng chống đối chế độ đen tối đương thời, đó là: một, Nguyễn Tịch (210-263); hai, Kê Khang (223-263); ba, Lưu Linh (220-300); bốn, Sơn Đào (205-283); năm, Hướng Tú (221-300); sáu, Vương Nhung (234-305); bảy, Nguyễn Hàm

[4] Phạm bái 梵唄:Bài hát hay kệ tán thán đức hạnh của Đức Phật.

[5] Nhất Hưu Tông Thuần 一休宗純; J: ikkyū sōjun; 1394-1481; Thiền sư Nhật Bản thuộc tông Lâm Tế (j: rinzai), hệ phái Đại Đức tự (j: daitokuji-ha). Sư là một trong những Thiền sư danh tiếng nhất của Thiền tông Nhật Bản. Với phong điệu của một »Cuồng Thánh«, Sư đả phá những phong cách tệ mạt trong những thiền viện lớn mà Sư cho rằng đang trên đường tàn lụi. Cách sống và giáo hoá của Sư vượt trên tất cả những tục lệ và vì vậy có rất nhiều tích nói về Sư, phần đúng, phần huyền hoặc.

[6] Còn gọi Tế Điên Tăng, Tế Điên Hòa thượng.

[7] Lục quần Tì-kheo六群比丘(S: ṣaḍ-vargīka-bhikṣu; Cg: Lục chúng Bí-sô, Lục quần): Sáu ác Tì-kheo thời Đức Phật còn tại thế, đó là: một, Nan-đà; hai, Bạt-nan-đà; ba, Ca-lưu-đà-di; bốn, Xiển-na; năm, A-thuyết-ca; sáu, Phất-na-bạt.

[8] Quả thứ ba 果Bất hoàn quả (S: anāgāmi- phala; Hâ: A-na-hàm): Quả thứ ba, là giai vị đã đoạn ba phẩm sau trong chín phẩm Tư hoặc cõi Dục, không còn thọ sinh đến cõi Dục nữa.

[9] Quả thứ tư 四果 A-la-hán quả (S: arhat; Hd: Ứng cúng, Ứng, Vô học): Là giai vị đã đoạn hết tất cả Kiến hoặc, Tư hoặc ở cõi Sắc, cõi Vô sắc, nhập Niết-bàn vĩnh viễn, không còn sinh tử lưu chuyển.

[10]Phiên âm từ tiếng Sanskrit, Naraka. Còn có các âm âm: Na lạc, Na lạc ca, Na la kha, Nại lạc. Hán dịch: Khổ khí, khổ cụ. Chỉ cho địa ngục (Phạm: Niraya), bao hàm ý tối tăm, không ưa thích. Nại hà tân (奈河津), tức bến Nại-hà, còn gọi Tam đồ hà, là dòng sông ở địa ngục có 3 đoạn khác nhau. Trong kinh Địa tạng bồ tát phát tâm nhân duyên thập vương có thuyết Tam đồ hà, nghĩa là sau khi chết, tội nhân phải đi qua dòng sông Tam đồ ở địa ngục mới đến cõi u minh. Dòng sông này có 3 đoạn: Đoạn sơn thủy, đoạn vực sâu và đoạn có cầu bắc qua, tùy theo nghiệp đã tạo tác lúc còn sống mà tội nhân phải đi qua mỗi đoạn khác nhau.

[11] Thập điện diêm vương十殿閻王: Cũng gọi là Thập điện Diêm la. Tức là 10 ông vua ở cõi u minh (âm phủ, địa ngục). Diêm la là vua Diêm la (ma), vốn là thần Dạ ma (Yama) ở thời đại Phệ đà của Ấn độ, thông thường được coi là Tử thần hoặc là Chúa thần trông coi cõi u minh. Về sau, tư tưởng này trà trộn với Phật giáo và được truyền vào Trung quốc, rồi kết hợp với tín ngưỡng Đạo giáo mà sản sinh ra thuyết Diêm la thập điện. Tín ngưỡng 10 ông vua cõi u minh xuất hiện vào khoảng cuối đời Đường đầu đời Ngũ đại, nhưng về nguồn gốc của 10 vị vua thì có rất nhiều thuyết khác nhau.

[12] Anne Frank là một cô bé người Đức gốc Do Thái, tác giả cuốn nhật ký nổi tiếng Nhật ký Anne Frank. Cuốn nhật ký được viết khi Anne cùng gia đình và bốn người nữa ẩn náu trên căn gác áp mái tại ngôi nhà số 263 trên đường Prinsengracht, Amsterdam trong thời gian chiếm đóng của quân Đức thời Thế chiến thứ 2.Sau khi Adolf Hitler lên nắm quyền vào tháng 1 năm 1933, gia đình Anne Frank rời khỏi Frankfurt đi Amsterdam cuối năm 1933 để thoát khỏi sự truy đuổi của Đức quốc xã. Từ tháng 7 năm 1942, họ sống trốn tránh trong những căn phòng được ngụy trang, khi đó Anne 13 tuổi. Sau hai năm, do bị phản bội, gia đình Anne bị phát hiện và bị đưa tới trại tập trung của Đức quốc xã. Bảy tháng sau đó, Anne chết tại trại Bergen-Belsen, vài ngày sau cái chết của Margot, chị của Anne. Ông Otto, cha của Anne là người duy nhất trong nhóm sống sót trở về Amsterdam sau chiến tranh và tìm thấy nhật ký của con gái tại nơi gọi là Chái nhà bí mật. Ông đã quyết định cho xuất bản cuốn nhật ký với tên Het Achterhuis: Dagboekbrieven van 12 Juni 1942 – 1 Augustus 1944.

[13] Nhật ký Anne Frank là một cuốn sách bao gồm các trích đọan từ một cuốn nhật ký do Anne Frank viết trong khi cô bé đang trốn cùng gia đình trong thời kỳ Đức Quốc Xã chiếm đóng Hà Lan. Gia đình cô bé đã bị bắt năm 1944 và Frank cuối cùng đã chết vì bệnh sốt phát ban ở trại tập trung Bergen-Belsen. Sau chiến tranh cuốn nhật ký đã được cha của Frank là Otto Frank tìm lại được. Cuốn sách đã nhận được sự chú ý của công chúng và bình phẩm rộng rãi khi có bản dịch tiếng Anh với tên Anne Frank: The Diary of a Young Girl bởi Doubleday & Company (Hoa Kỳ). Bản tiếng Việt do Bửu Ý dịch, xuất bản ở miền Nam Việt Nam trước 1975, và đã được tái bản sau năm 1975

[14] Trong Kinh Trường A-hàm số 11, s: :Sīṅgālaka. Hán âm: Thi-ca-la-việt. Cũng gọi Thiện sinh đồng tử. Con của 1 Trưởng giả ở thành Vương xá,Ấn độ, vào thời đức Phật. Phật thấy cậu học pháp của Bà la môn, cứ mỗi buổi sáng, tắm rửa sạch sẽ rồi lễ bái 6 phương, Ngài bèn dạy cậu lễ 6 phương theo Phật pháp.

Ý kiến bạn đọc
31/12/201802:32
Khách
Nam mô a di đà Phật
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/07/2011(Xem: 6365)
Khuyến Phát Bồ Đề Tâm Văn của Đại Sư Thật Hiền, Thật Hiền tôi là kẻ phàm phu Tăng bất tiếu ngu hèn, khóc ra lệ máu cúi đầu kính lạy, đau buồn khẩn thiết thưa với chư đại chúng hiện tiền, cùng với chư thiện nam tín nữ có đức tin trong sạch trong hiện đời. Cúi mong quý vị thương xót, lưu ý một chút mà nghe và xét cho.
27/07/2011(Xem: 5418)
Hỏi: Tại sao đạo Phật lại đề xướng ăn chay? Đáp:Người ăn chay thì dục niệm nhẹ. Kẻ ăn mặn thì dục niệm nặng nề. Có tôn giáo cho rằng động vật được sanh ra là để cho loài người ăn, cho nên ăn mặn là một việc hợp lý trời đất. Song le, Phật Giáo đề xướng tinh thần "mọi vật đều cùng một thể, đó gọi là Đại Bi," và xem mọi loài chúng sanh đều có Phật-tánh, đều sẽ thành Phật; cho nên chủ trương giới sát, phóng sanh.
27/07/2011(Xem: 5650)
Mỗi người đều có nhân quả báo ứng của riêng mình. Hễ tạo nghiệp gì thì chịu quả báo đó. Không những chỉ có loài người là phải chịu quả báo mà tất cả chúng sanh cũng vậy; tạo nghiệp từ xưa, ngày nay gặt quả. Điều đó không dễ hiểu đâu. Ví như bị đọa làm súc sinh hoặc ở nơi ác đạo thì rất khó khôi phục lại thân người; nên nói rằng:
26/07/2011(Xem: 5421)
Quyển “MỚI VÀO CỔNG CHÙA” ra đời trước, chúng tôi hướng dẫn độc giả vừa mới làm quen với mùi tương dưa, còn ngỡ ngàng khi bước chân vào cổng chùa. Đến quyển “VÀO CỔNG CHÙA”, chúng tôi nhắm đến những độc giả đã quen thuộc với những chiếc mái vốn cong, từng nghe tiếng mộc ngư nhịp đều buổi tối và tiếng chày kình ngân nga buổi khuya. Tuy nhiên vẫn còn là khách thấy nghe thân cận nhà chùa, chưa phải là người sống trong chùa.
24/07/2011(Xem: 6312)
Ngày nay, việc tổ chức đám cưới tại chùa có lẽ không mấy ai còn cho là lạ, nhưng đây là điều đã được mong muốn từ nửa thế kỷ trước, mà Ni trưởng trụ trì chùa Phước Hải hiện nay – ngày đó là sư cô Tịnh Nguyện, là một trong những vị tu sĩ mở đầu cho truyền thống tốt đẹp này. Một số người vẫn hình dung nhà thờ là nơi để tổ chức đám cưới với tiếng đàn Organ sang trọng, âm vang dưới mái vòm trang nghiêm phủ xuống cô dâu chú rể. Còn nhà chùa chỉ là nơi tổ chức đám tang, với những “vãng sanh đường” leo lét ánh nến, nhang khói mờ mờ, âm âm tiếng mõ trầm buồn.
22/07/2011(Xem: 4662)
Bạn bè là sự thể hiện sinh động cho mối quan hệ đặc thù giữa người với người. Mối quan hệ đó được thiết lập căn bản trên sự đồng đẳng hoặc bất đồng đẳng về giới tính, tuổi tác, chí nguyện, đam mê, sở thích,… là tiêu chí quan trọng để khẳng định nhân cách hoặc quan điểm sống của một con người. Với Phật giáo, sống là sống với. Do đó, bạn bè là một thuộc tính riêng có của các loài chúng sanh nói chung và của con người nói riêng, và là một trong những nhân tố quan trọng, có thể ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực lên bối cảnh sống cũng như khả năng thăng hoa tâm linh của một con người. Sống phải có bạn bè. Không có bạn bè, được xem là một trong năm điều bất hạnh đã được Đức Phật cảnh báo(1).
22/07/2011(Xem: 5250)
Bên cạnh sự ảnh hưởng trực tiếp của gia đình, trong cuộc sống chúng ta, mối tương giao với bạn bè cũng đóng vai trò rất quan trọng cho sự thành bại của mình. Trong mối quen biết ngoài xã hội, hay trong đoàn thể cùng sống chung, ta có nhiều loại bạn hữu; nhưng tìm được người bạn tốt, chân thật hiểu được ta, để có thể chia sẻ tâm tư là điều khó, huống chi là hỗ trợ ta vượt qua những khó khăn trong đời sống thì càng khó gấp bội phần.
22/07/2011(Xem: 4808)
Suốt ngàn năm bị nội thuộc Trung Quốc dân tộc Việt không ngừng nỗi dậy đấu tranh giành lại quyền độc lập, tự chủ. Năm 968 (Mậu Thân) Đinh Bộ Lĩnh dẹp yên nạn cát cứ 12 sứ quân, thống nhất non sông xưng là Đại Thắng Minh hoàng đế. Nhà Đinh đóng đô ở Hoa Lư (Ninh Bình), lập nên triều đại quân chủ đầu tiên của nước Đại Việt.
22/07/2011(Xem: 5114)
Có những biện giải Phật học mà đôi khi ý nghĩa thực tiển vượt thoát khỏi cái võ ngôn từ. Đó là khi hiện thực nương gá vào sự biện giải đó bị biến dạng theo lịch sử, thời gian. Gần gũi hơn, có những phạm trù, khái niệm mà khi vận dụng, ta vô tình quên mất nghĩa gốc ban đầu của chúng. Vấn dề Phật sự là một trường hợp như vậy.
16/07/2011(Xem: 5844)
Lúc này chúng ta hãy quan sát điều gì đang thực sự xảy ra trong thế giới; có bạo lực thuộc mọi loại; không chỉ phía bên ngoài mà còn cả trong sự liên hệ lẫn nhau của chúng ta.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567