Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Không tàn hại chúng sanh

08/08/201407:34(Xem: 6815)
Không tàn hại chúng sanh


phong-sinh-chim

KHÔNG TÀN HẠI CHÚNG SANH 

Thích Thái Hòa

Tâm hay trách móc, hay hờn tủi, tâm đó sẽ làm cho chúng ta khổ đau. Không sợ già, không sợ chết, chỉ sợ chúng ta không có trí tuệ, chúng ta không biết tu tập, nên chúng ta không có khả năng để vẽ đời sống của chúng ta, cái dáng dấp đẹp đẽ của chúng ta trong tương lai.

Chúng ta phóng sanh loài khác chính là phóng sanh cho chính chúng ta, chúng ta cứu giúp sự sống của người khác chính là cứu giúp sự sống của chính chúng ta. Chúng ta có thể tiếp xúc, cảm nhận được hạnh phúc và an lạc ở bất cứ thời gian và không gian nào. Khi chúng ta ý thức rõ về sự sống, chúng ta biết gạn lọc tất cả những cái gì làm cho sự sống của chúng ta bị cáu bẩn, thì sự thanh trong của cuộc sống tự nó sẽ hiện ra. Chính chúng ta làm cho chúng ta khổ, vì chúng ta không ý thức được cuộc sống là vô tận và quý báu, chúng ta chỉ là kẻ đi tìm sự sống mà không nhận ra được sự sống, chúng ta chỉ đặt tâm của chúng ta vào nơi sự sống vô tận ấy dù chỉ trong một giây phút, thì sự sống của chúng ta cũng trở nên vô cùng tận và phong phú . Chúng ta không đặt được tâm của chúng ta nơi sự sống vô tận ấy, nên chúng ta cứ chạy hoài, kiếm hoài nhưng vẫn không nhận ra sự sống. Khi chúng ta không nhận ra được sự sống của chúng ta , thì chúng ta không thể nào nhận diện ra được sự sống của những người thân, chúng ta không nhận ra được sự sống của cha, mẹ để chúng ta làm những người con có hiếu, chúng ta không nhận ra được sự sống của anh, chị, em, nên chúng ta không thể yêu thương thương họ theo ý nghĩa đích thực và chúng ta không thể nào thấy được sự sống của người yêu để mà chung thủy. Muốn có được tất cả được tất cả những cái đó, chúng ta phải nhận diện cho được sự sống, khi đó chúng ta mới trân quý sự sống của mình và khi chúng ta trân quý sự sống của chính mình, thì có nghĩa là chúng ta trân quý sự sống của muôn loài.

Chúng ta cứu sự sống cho người khác cũng chính là cứu sự sống cho chính mình. Chúng ta tìm cách phóng sinh cho kẻ khác chính là chúng ta đang giải phóng cho chính chúng ta. Chúng ta muốn sự sống của chúng ta hoàn hảo, tất nhiên chúng ta phải nổ lực làm cho sự sự sống chung quanh chúng ta hoàn hảo. Chúng ta chỉ muốn bảo vệ nhà chúng ta sạch thôi, còn môi trường chúng quanh thì mặc kệ, khi đường sá, môi trường chúng quanh bị ô nhiễm, thì thử hỏi nhà của chúng ta có sạch được không? Ở Sài Gòn, nhà thì cao tầng, nhưng nước ở sông Sài Gòn thì bị ô nhiễm, như vậy thì chúng ta có bị ô nhiễm không? Chúng ta yêu nhà chúng ta, thì chúng ta phải yêu sông Sài Gòn, sông Thủ Thiên, sông Đồng nai, Sông Hương, . . . chúng ta không thải những chất ô nhiễm vào dòng sông, chúng ta cứu sự ô nhiễm của môi trường chính là chúng ta đang cứu sống chính chúng ta và những người chung quanh vì môi trường đã hỗ trợ rất lớn cho cuộc sống của chúng ta. Chúng ta có an lạc, thảnh thơi, có sự vô nhiễm không bệnh hoạn, chúng ta có được những điều như thế là do sự đóng góp rất lớn của môi trường chung quanh.

Đời sống tương lai của chúng ta có gốc rễ từ nơi hiện tại, mỗi chúng ta là mỗi nhà kiến trúc sư cho đời sống của chúng ta. Tâm của ta vụng dại, thì chúng ta sẽ vẽ ra những hình ảnh vụng dại cho chính đời sống của chúng ta và môi trường chung quanh, khi đó ai ở gần chúng ta cũng thấy khó chịu, bất an. Chúng ta thông minh, tỉnh táo, thì chúng ta vẽ ra cho đời sống của chúng ta, cho môi trường chung quanh chúng ta những đường nét độc đáo, mát mẽ và có như vậy chúng ta mới làm cho những người chung quanh chúng ta cũng mát mẽ theo. Chúng ta là chủ nhân, là tác giả của đời sống chúng ta, chúng ta không có quyền trách móc ai khác.

Thưa quý vị, tại sao trong một nước, vị Quốc Vương cần phải thọ trì Bồ Tát Giới. Bởi vì, Quốc Vương là một trong những tác nhân trọng yếu, nếu đó là một Quốc Vương có từ tâm, thì chỉ một giọt mực đọng nơi ngòi bút của vị đó thôi, thì hết thảy muôn loài từ nhân dân cho đến loài thảo mộc đều được lợi lạc. Nhưng trái lại, khi vị Quốc Vương đó có tâm vụng về, thì chi cần một lời phê thôi, thì hàng vạn cái đầu rơi xuống đất. Vì vậy, chúng ta học Phật là phải biết cách áp dụng lời Phật dạy, áp dụng cách nhìn đạo phật ở trong cuộc đời của chúng ta để chúng ta có thể chuyển hóa sự không an lạc thành an lạc, sự rối rắm thở thành thanh thản. Vì thế mà lúc xưa, các bậc Thánh nhân đã ca ngợi rằng: “Thanh bần lạc đạo”, muốn vui với đạo thì phải sống giản dị.

Muốn phát huy được tâm từ bi và hiếu thuận, thì chúng ta phải thường xuyên thấy được lý nhân duyên, thấy được lý trùng trùng duyên khởi. Khi thấy và nuôi dưỡng được lý trùng trùng duyên khởi một cách liên tục, chúng ta mới phát huy được chất liệu từ bi và hiếu thuận trong đời sống của chúng ta. Chúng ta nuôi dưỡng cách thấy đó trong đời sống của mình trong từng cách nhìn, cách nghe, cách ngửi, cách nếm, cách tiếp xúc, trong từng động tác của chúng ta, chúng ta sẽ không còn cảm giác cô đơn nữa, cảm giác cô đơn sẽ hoàn toàn vắng lặng. Chúng ta không còn giong ruổi tìm cầu gì nữa, người chạy đi tìm cầu là vì họ cảm thấy cô đơn, họ không thấy được lý trùng trùng duyên khởi. Chúng ta trốn chạy cô đơn chừng nào, thì chúng ta càng thất vọng chừng đó, thực tế trong đời sống của chúng ta không có gì gọi là cô đơn. Chúng ta nhìn bàn tay của chúng ta thử xem, trong bàn tay của chúng ta đủ tất cả, có mặt trăng, mặt trời, có đêm, có ngày, có âm, dương, có đất, có nước, có cây cỏ, trong bàn tay chúng ta có ba, có mẹ, có anh, có chị, có em, có người yêu, có cả dòng họ tổ tiên tâm linh và huyết thống. Nhìn bàn tay, chúng ta tiếp xúc được với cả người yêu, thì chúng ta đâu có còn cô đơn nữa, vì nhìn bàn tay mà không thấy được lý trùng trùng duyên khởi nên không tiếp xúc được với người yêu, nên phải lên đồi thông Đà Lạt để ngồi, ngồi rồi nhưng vẫn thấy trong mình vẫn còn cô đơn, vẫn trằn trọc. Vì vậy, khi chúng ta đã trang bị trong tâm tư của chúng ta lý trùng trùng duyên khởi, thì chúng ta chỉ nhìn một bông hoa, ngọn cỏ thôi chúng ta cũng cảm nhận được niềm hạnh phúc vô bờ, chúng ta còn muốn tìm ai nữa, ai cũng có mặt trong chúng ta cả rồi.

Mọi loài sinh ra đều có nhân duyên quả báo của nó. Thượng đế sinh ra con vật để cho con người ăn, thượng đế sinh ra con người là để phụng sự thượng đế, có phải như vậy không? Như vậy, thượng đế có âm mưu, thượng đế mà còn cần con người để phụng sự, như thế thì thượng đế không có tài năng bằng con người, chỉ có con người bị tàn phế mới cần người khác phụng sự, dìu dắt mình đi, chứ con người lành lặn đâu có cần người dìu dắt. Mặt trời đâu cần ai phụng sự, mặt trời cho muôn loại ánh sáng mà không đòi hỏi một thứ gì cả. Nên, thuyết chỉ có Thượng đế là nguyên nhân đầu tiên sinh ra vạn loại thật sai lầm. Học giới là rất quan trọng, nó có tác dụng lên rất nhiều mặt trong đời sống của chúng ta trên phương diện tu tập, nhận thức, trên phương diện nuôi dưỡng đạo đức. Chúng ta học những lời Đức Phật dạy mà chúng ta không áp dụng được trong đời sống hàng ngày, thì cái đó chưa gọi là học. Cũng giống như khi chúng ta đói bụng nhưng chúng ta chỉ nói đến chuyện thức ăn mà không ăn, thì chúng ta không thể giải quyết được vấn đề đói. Nên khi chúng ta học đạo, chúng ta phải học và thực hành như thế nào đó để trong đời sống của mình có đạo, để tạo được an lạc trong đời sống của chúng ta.

Có nhiều người nói, Bồ tát Đạo xa xôi quá học không nổi, chúng ta tu tập cũng giống như người thông minh đi tìm trầm và khám phá được cả khu rừng chiên đàn, khi đó người thông minh tùy theo sức của mình mà thưởng thức mùi hương, người mạnh thì đốn cả cây, người yếu thì chỉ lấy nhánh, người yếu hơn thì ngắt lá bỏ bọc, người không đủ khả năng để hái thì đến đó ngửi hương rồi về, mùi hương trầm xông ngát nơi thân thể, nơi tâm của mình, mình đem hương đó về nhà thì gia đình ba, mẹ, anh, em, vợ, chồng, con cái cũng được hưởng lây một ít. Chứ người không thông minh thấy cả rừng chiên đàn, tưởng phải gánh hết cả rừng về mới ngửi được hương, sợ không đủ sức nên không dám đến đó, nên cả đời người chẳng ngửi được hương. Trong Kinh Bách Dụ kể rằng, có một anh nông dân nọ lên thành phố, anh ta thấy người ta xây nhà lầu nhiều tầng, anh thích quá, bèn kêu thợ đến và bảo rằng, bác thợ ơi! Xây cho tui cái nhà nhiều tầng. Bác thợ xây bèn tính toán, đào móng, nhưng người nông dân nói, không đào móng, chỉ xây nhà nhiều tầng lên thôi. Cuối cùng bác thợ xây phải bó tay. Cũng vậy, nhiều người không thích tu mà chỉ thích làm Phật liền thôi, không tu mà thích lập đạo tràng, thì ra chúng ta cũng giống những người nông dân khờ khạo đó thôi, chúng ta mới học được năm ba chữ mà đã xem như là thông rồi, cái khờ khạo đó có mặt trong tất cả chúng sinh, cho nên trong Bồ Tát Giới mới nói là chỗ nào có giảng pháp, thì phải đến nghe, biển học là vô cùng, vô tận, “Học hải vô nhai”!

Thích Thái Hòa
https://www.facebook.com/thuviencophap

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/05/2021(Xem: 4949)
Không nói được tiếng Tây Tạng và chưa bao giờ dịch tác phẩm nào nhưng Evans-Wentz được biết đến như một dịch giả xuất sắc các văn bản tiếng Tây Tạng quan trọng, đặc biệt là cuốn Tử Thư Tây Tạng ấn bản năm 1927. Đây là cuốn sách đầu tiên về Phật giáo Tây Tạng mà người Tây Phương đặc biệt quan tâm. Ông Roger Corless, giáo sư Tôn Giáo Học tại đại học Duke cho biết: “Ông Evans-Wentz không tự cho mình là dịch giả của tác phẩm này nhưng ông đã vô tình tiết lộ đôi điều chính ông là dịch giả.”
15/05/2021(Xem: 5092)
Ngay sau tác phẩm Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, người đọc lại được đón đọc Vua Là Phật - Phật Là Vua của nhà văn Thích Như Điển. Đây là cuốn sách thứ hai về đề tài lịch sử ở thời (kỳ) đầu nhà Trần mà tôi đã được đọc. Có thể nói, đây là giai đoạn xây dựng đất nước, và chống giặc ngoại xâm oanh liệt nhất của lịch sử dân tộc. Cũng như Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, tác phẩm Vua Là Phật - Phật Là Vua, nhà văn Thích Như Điển vẫn cho đây là cuốn tiểu thuyết phóng tác lịch sử. Nhưng với tôi, không hẳn như vậy. Bởi, tuy có một số chi tiết, hình ảnh tưởng tượng, song dường như rất ít ngôn ngữ, tính đối thoại của tiểu thuyết, làm cho lời văn chậm. Do đó, tôi nghiêng về phần nghiên cứu, biên khảo, cùng sự liên tưởng một cách khoa học để soi rọi những vấn đề lịch sử bấy lâu còn chìm trong bóng tối của nhà văn thì đúng hơn. Ở đây ngoài thủ pháp trong nghệ thuật văn chương, rõ ràng ta còn thấy giá trị lịch sử và hiện thực thông qua sự nhận định, phân tích rất công phu của
15/05/2021(Xem: 4444)
Ấm ma là hiện tượng hóa ngôn ngữ. Trong kinh Lăng Nghiêm nói đến 50 ấm ma là nói đến biến tướng của nghiệp thức, của các kiết sử thông qua lục căn từng giao tiếp với lục trần trên nền tảng “ sắc-thọ-tưởng-hành-thức”.
15/05/2021(Xem: 4119)
Đọc xong tác phẩm nầy trong một tuần lễ với 362 trang khổ A5, do Ananda Viet Foundation xuất bản năm 2017, Bodhi Media tái xuất bản tại Hoa Kỳ trong năm 2020 và tôi bắt đầu viết về Tác phẩm và Tác giả để gửi đến quý độc giả khắp nơi, nếu ai chưa có duyên đọc đến. Nhận xét chung của tôi là quá hay, quá tuyệt vời ở nhiều phương diện. Phần giới thiệu của Đạo hữu Nguyên Giác gần như là điểm sách về nhiều bài và nhiều chương quan trọng trong sách rồi, nên tôi không lặp lại nữa. Phần lời bạt của Đạo hữu Trần Kiêm Đoàn cũng đã viết rất rõ về sự hình thành của Gia Đình Phật Tử Việt Nam ở trong nước, từ khi thành lập cho đến năm 1975 và Ông Đoàn cũng đã tán dương tuổi trẻ Việt Nam cũng như tinh thần học Phật, tu Phật và vận dụng Phậ
10/05/2021(Xem: 4702)
Chỉ có bốn chữ mà hàm chứa một triết lý thâm sâu ! Chỉ có bốn chữ mà sao chúng sanh vẫn không thực hành được để thoát khỏi sự khổ đau ? Nhưng cũng chỉ bốn chữ này có thể giúp chúng sinh phá được bức màn vô minh, đến được bến bờ giác ngộ, thoát vòng sinh tử !
08/05/2021(Xem: 4164)
Chủ đề bài này là nói về tỉnh thức với tâm không biết. Như thế, nghĩa là những gì rất mực mênh mông, vì cái biết luôn luôn là có hạn, và cái không biết luôn luôn là cái gì của vô cùng tận. Cũng là một cách chúng ta tới với thế giới này như một hài nhi, rất mực ngây thơ với mọi thứ trên đời. Và vì, bài này được viết trong một tỉnh thức với tâm không biết, tác giả không đại diện cho bất kỳ một thẩm quyền nào. Độc giả được mời gọi tự nhìn về thế giới trong và ngoài với một tâm không biết, nơi dứt bặt tất cả những tư lường của vô lượng những ngày hôm qua, nơi vắng lặng tất cả những mưu tính cho vô lượng những ngày mai, và là nơi chảy xiết không gì để nắm giữ của vô lượng khoảnh khắc hôm nay. Khi tỉnh thức với tâm không biết, cả ba thời quá, hiện, vị lai sẽ được hiển lộ ra rỗng rang tịch lặng như thế. Đó cũng là chỗ bà già bán bánh dẫn Kinh Kim Cang ra hỏi ngài Đức Sơn về tâm của ba thời.
04/05/2021(Xem: 3610)
Một khi Đức Đạt Lai Lạt Ma rời Tây Tạng, ngài sẽ phải đối diện với nhiệm vụ khó khăn về việc nói với thế giới những gì đã xảy ra ở quê hương ngài và cố gắng để có được sự giúp đở cho người dân của ngài. Ngài cũng phải chạm trán với sự tuyên truyền của truyền thông Tàu Cộng rằng ngài đã bị bắt cóc. Tuy nhiên, nhu cầu thiết yếu nhất là để bảo đảm nhà ở và thực phẩm cho những người Tây Tạng đã đi theo ngài lưu vong. Ngài đã hướng đến chính phủ Ấn Độ, và họ đã không làm ngài thất vọng. Trong thực tế, Ấn Độ cuối cùng đã tiếp nhận hơn một trăm nghìn người tị nạn, cung cấp chỗ ở, và nuôi dưỡng họ, cho họ làm việc, và thiết lập những ngôi trường đặc biệt cho trẻ em Tây Tạng. Những tu viện Phật giáo Tây Tạng cũng được xây dựng ở Ấn Độ và Nepal.
30/04/2021(Xem: 6888)
Thưa Tôi. Hôm nay là ngày sinh nhật của Tôi, xin được phép thoát ra khỏi cái tôi để nhìn về tôi mà phán xét và đưa ra cảm nghĩ. Hình dạng tôi đã già rồi, tóc đã bạc hết cả đầu. Tôi đã trải qua một thời gian dài sinh sống làm việc và cuối đời nghỉ hưu. Tôi đã bắt đầu thấm thía cái vô thường của thời gian mang lại. Tôi cũng đã thấm thía cái sức khỏe đã đi xuống nhanh hơn đi lên. Tôi cũng đã thấm thía tình đời bạc bẽo cũng như tình cảm (Thọ) là nỗi khổ đau của nhân sinh. Tôi cũng đã hiểu rõ thế nào là ý nghĩa đích thực của cuộc sống, đó là bất khả tương nghị không thể thốt lên thành lời. Chỉ có im lặng là đúng nghĩa nhất. Ngày xưa khi lục tổ Huệ Năng của Thiền tông chạy trốn mang theo y bát thì thượng tọa Minh rượt đuổi theo để giết lấy lại. Đến khi gặp mặt thì lục tổ mang y bát ra để trên tảng đá rồi núp dưới tảng đá bảo thượng tọa Minh hãy lấy y bát đi mà tha chết cho người. Thượng tọa Mình lấy bát lên, nhắc không lên nổi vì nó quá nặng bèn sợ hãi mà quỳ xuống xin lục tổ tha c
30/04/2021(Xem: 6967)
Thiền Uyển Tập Anh chép Đại sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu (933 – 1011) tu ở chùa Phật Đà, Thường Lạc nay là chùa Đại Bi núi Vệ Linh Sóc Sơn, Hà Nội. Ngài thuộc thế hệ thứ 4 Thiền phái Vô Ngôn Thông. Ngài người hương Cát Lợi huyện Thường Lạc, nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội, thuộc dòng dõi Ngô Thuận Đế (Ngô Quyền). Theo Phả hệ họ Ngô Việt Nam, Thiền sư Ngô Chân Lưu tên huý là Xương Tỷ, anh trai Thái tử - Sứ quân Ngô Xương Xý, con Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập, cháu đích tôn của Ngô Vương Quyền. Ngài dáng mạo khôi ngô tuấn tú, tánh tình phóng khoáng chí khí cao xa, có duyên với cửa Thiền từ năm 11 tuổi.
27/04/2021(Xem: 5060)
Tánh Không ra đời một thời gian dài sau khi đức Phật Nhập diệt do Bồ tát Long Thọ xiển dương qua Trung Quán Luận. Mặc dầu khi còn tại thế đức Phật có nói về Tánh Không qua kinh A hàm và Nikaya. Nơi đây Phật có nói về tánh xuất gia của hành giả đi tu. Hạng người tâm xuất gia mà thân không xuất gia thì gọi là cư sĩ. Và hạng người tâm và thân xuất gia thì gọi là tỳ kheo. Tánh Không cũng có hiện hữu trong kinh Tiểu không bộ kinh trung bộ. Phật có dạy: nầy Ananda, Ta nhờ ẩn trú Không nên nay ẩn trú rất nhiều. Kế tiếp Phật có dạy trong kinh A hàm về các pháp giả hợp vô thường như những bọt nước trôi trên sông: sự trống không của bọt nước.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]