Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Từ Thiện và Tâm Bồ Đề

29/07/201409:09(Xem: 9182)
Từ Thiện và Tâm Bồ Đề

quan_am

Thông thường làm từ thiện, ai cũng liên kết với lòng Từ bi. Thấy ai làm từ thiện đều nghĩ người đó có tâm từ.

Thật ra, cùng một động thái nhưng nội hàm có nhiều sai biệt. Có người vì xu hướng mà làm từ thiện, có người vì ham danh mà làm từ thiện, có người chạy theo phong trào mà làm từ thiện...những trường hợp nầy thiết nghĩ không cần phải đề cập, cái cần đề cập là những người thực tâm vì thương xót đối tượng mà làm từ thiện. Trường hợp nầy hoàn toàn đồng ý đây là tâm tốt, nhưng tốt đối với người bình thường trong xã hội, riêng với một Phật tử dù xuất gia hay tại gia, việc hành thiện còn phải xây dựng trên nền tảng tâm Bồ đề.

Tâm Bồ Đề là nền tảng khởi đầu đi đến giải thoát, trong quá trình thiết lập Bồ đề tâm, buộc phải qua công hạnh lợi tha, lợi tha cả hai mặt: thế gian pháp và Phật pháp.

Thế gian pháp là hành trạng tâm từ vô điều kiện đối với mọi đối tượng; với Phật pháp là Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh; trên hướng đến giải thoát, dưới hoằng giáo độ sanh. Một hành giả thiết lập được nền móng vững chắc như thế là Phước Huệ song tu, hành đúng Bồ tát đạo, cho dù hành giả nắm trong tay vô số điều lợi dưỡng mà vẫn không phạm giới, ngoại tướng như là hưởng thụ mà vẫn không phạm luật; ngược lại: “Vong thất Bồ đề tâm, tu chư thiện pháp, thị danh ma nghiệp”. Hành giả đánh mất tâm Bồ đề, cho dù tu vô lượng thiện nghiệp cũng chỉ là nghiệp ma, vì không đủ để giải thoát, hưởng phước báu nhân thiên vẫn còn trôi lăn sanh tử đó là ma nghiệp.Vì thế, người làm từ thiện của nhà Phật, cần phát tâm Bồ đề để đường đi được thoáng đản. Phát tâm Bồ đề là tự trang bị giây cương để tâm viên ý mã không bị lệch hướng theo danh pháp. Không chỉ lãnh vực làm từ thiện, mọi việc trong cuộc sống, mọi hành trạng thường nhật của người con Phật cũng cần khởi phát tâm Bồ Đề. Nếu phát tâm Bồ đề thì hành sự thế gian pháp nhưng vẫn là Phật pháp, bằng không, những việc được mệnh danh là Phật sự thì cũng chỉ là ma sự ẩn danh, vì không có chất Phật.

Ngày nay, phong trào làm từ thiện khá phổ biến, có những đoàn một năm đi cứu trợ hàng tỷ bạc, làm theo thói quen, mỗi phần quà trị giá vài trăm nghìn đồng, đến các vùng sâu vùng xa, thậm chí những vùng đã có sự lót ổ sẵn của tôn giáo khác, vẫn đến tặng quà để giúp họ sống hơn mươi bữa, rồi đâu lại vào đấy, tập cho họ có thói quen đợi chờ sự bố thí. Mỗi chuyến đi, xa phí gần bằng số tiền ủy lạo, trong khi đó, tại Thành phố còn rất nhiều mãnh đời đói khổ, bệnh tật không ai quan tâm, một số Phật tử chật vật không có tiền cho con ăn học, điều trị bệnh tình thì bỏ mặc. Có những gia cảnh chỉ cần số vốn nhỏ để bán vé số hoặc gầy dựng công việc thì chẳng có điều kiện;thế thì việc từ thiện lấy muối bỏ biển như thế được ích gì, rồi năm nầy tháng nọ buông làng đó nghèo vẫn nghèo, đói vẫn đói vì họ chỉ được cá mà không được cần câu để giải quyết cơ bản cho cuộc sống hầu dứt điểm cái đói nghèo. Làm vậy có thể hiểu Từ mà không Thiện ( thiện đây không có nghĩa là ác mà là thiếu hoàn hảo thiếu khôn khéo).

Việc hành thiện của thế gian đã được hiểu là chưa thiện thì đối với hành giả nhà Phật lại càng bất cập. Hành thiện nhà Phật không chỉ thể hiện lòng Từ mà còn hướng đến việc xây đắp nền tảng giải thoát trong tương lai. Từ theo nghĩa rộng hơn, không chỉ thể hiện tình thương đối với mọi đối tượng mà còn từ bỏ mọi chấp trước tham dục nội thân khi hành thiện, hướng đến chân trời rộng mở giải thoát.Một hành giả xuất gia, cạo bỏ râu tóc là từ bỏ mọi phiền não chướng duyên để bản thân nhẹ nhàng, Tổ Quy Sơn dạy: “phù xuất gia giả,phát túc siêu phương, tâm hình dị tục, thiệu long Thánh chủng, chấn nhiếp ma quân”, thì tục tử tại gia cũng phải :”ly dục, ly ác pháp” trên con đường du phương hành thiện, hành thiện đối với tha nhân cũng như đối với tự thân.

Muốn được như thế phải khởi phát Bồ Đề tâm như một định hướng ắc có và đủ cho mọi hành động, trong đó là từ thiện không bị lạc vào ma đạo. Và từ thiện đó mới có tố chất Phật sự.



MINH MẪN

28/7/2014

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/01/2021(Xem: 7067)
Kính thưa quý Phật tử, đồng hương xa gần kính mến, Trái đất xoay tròn, một năm nữa lại đến. Gió xuân, mai đào, bánh chưng, bánh tét... đang đem niềm vui mùa xuân đến cho hành tinh chúng ta. Quý Ni sư kính lời vấn an sức khỏe đến quý Phật tử, tri ân tình thương của quý vị trong thời gian qua, nhất là trong mùa đại dịch Covid Corona, quý vị luôn đồng hành ủng hộ để Chùa Hương Sen được yên ổn sinh hoạt và an tâm tu tập, tụng niệm.
12/01/2021(Xem: 4851)
Vương quốc Phật giáo Bhutan với diện tích và dân số khiêm tốn trên Himalaya đã báo cáo có ca COVID-19 đầu tiên tử vong, khoảng 10 tháng sau khi ca đầu tiên phát hiện Viruscorona, và cố gắng kiểm soát dịch bệnh bằng cách phong tỏa phần lớn đất nước phụ thuộc vào du lịch. Trong một thông báo đưa ra vào cuối ngày thứ Năm, ngày 7 vừa qua, Bộ Y tế Bhutan cho biết một người đàn ông 34 tuổi đã tử vong tại một bệnh viện ở thủ đô Thimphu do Covid-19, tiền sử có bệnh nền như gan mãn tính và suy thận, có kết quả xét nghiệm dương tính.
09/01/2021(Xem: 7459)
“Tha Nhân Là Địa Ngục” (L’enfre, cest les autres/Hell is other people) là câu nói thời danh của triết gia Pháp Jean Paul Sartre. Trong vở kịch nhan đề Huis Clos (Cửa Đóng) tiếng Anh dịch là “Không lối thoát” (No Exit) và tiếng Việt có nơi dịch là “Phía Sau Cửa Đóng” trong đó mô tả ba nhân vật lúc còn sống đã làm nhiều điều xấu. Khi chết bị nhốt vào địa ngục nhưng không phải là “địa ngục” với những cuộc tra tấn ghê rợn về thể xác mô tả trong các tôn giáo, mà bị nhốt vĩnh viễn trong một căn phòng kín. Tại đây ba nhân vật bất đồng, cãi vã nhau- không phải vì cơm áo mà vì quan điểm, sở thích, cách suy nghĩ, tư tưởng, lối sống. Cuối cùng một người không sao chịu đựng được đã thốt lên “Tha nhân là địa ngục”. Câu nói này trở nên nổi tiếng và tồn tại cho tới ngày nay.
07/01/2021(Xem: 6628)
Vào năm 2004, Thư Viện Anh Quốc đã mở cửa đón khách vào thưởng một “pháp bảo” của Phật giáo Trung Hoa mang tên “Kinh Kim Cang”, đó là một trong những cổ vật chính được trưng bày tại cuộc triển lãm “Con Đường Tơ Lụa. Bên cạnh cuốn “Kinh Kim Cang” còn có những cổ vật khác được giữ gìn hoàn hảo hơn 1000 năm qua như : một súc lụa, một tấm thảm trải trước lò sưởi tại ngôi nhà bỏ hoang đã 1.100 năm, một cuộn len 1300 năm tuổi … Phần lớn cổ vật trưng bày tại triển lãm được lấy từ bộ sưu tập của Sir Marc Aurel Stein.
07/01/2021(Xem: 6212)
Một khuôn mặt trong một tấm gương xuất hiện là một khuôn mặt, nhưng thế nào đi nữa hình ảnh đấy không là một khuôn mặt thật sự; đấy là từ những quan điểm trống rỗng về sự hiện hữu của một khuôn mặt. Giống như thế, một nhà huyển thuật có thể gợi lên những ảo ảnh dường như là những thứ thật sự. như một người ở trong một cái thùng bị xiên bởi một cây gươm, nhưng tất cả hoàn toàn không được tạo ra thật sự như những thứ được thấy. Tương tự thế, các hiện tượng như thân thể hiện diện được tạo ra từ chính phía của đối tượng nhưng trống rỗng trong việc được thiết lập cách ấy và luôn luôn như thế.
04/01/2021(Xem: 6133)
Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa ra nhận xét chính thức đầu tiên về việc nghỉ hưu, từ các trách nhiệm chính trị trong một buổi giảng dạy công khai tại Tsuglagkhang, Dharamshala, ngày 19 tháng 3 năm 2011. Năm 1963, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã ban hành một Hiến pháp Dân chủ (democratic constitution) hoàn toàn dựa trên Giới luật Phật giáo, và bản Hiến chương Nhân quyền của Liên Hợp Quốc để biên soạn, và chuẩn bị cho một mô hình đất nước Tây Tạng tự do ở tương lai:
04/01/2021(Xem: 7696)
Ngày Xuân ngày Tết, nếu ai tìm những giờ phút thanh thản yên tịnh bằng những bước nhẹ nhàng khoan thai vào vãng cảnh các chùa chiền tự viện, dâng hương bái Phật, nếu để ý sẽ thấy ở một vách tường nào đó treo bộ tranh mang tên gọi là “Thập mục ngưu đồ”. Không phải chốn già lam thiền viện nào cũng có trưng treo, vì đó không phải là điều bắt buộc thuộc thanh quy giới luật, nhiều khi chỉ được treo để trang trí, hay được trưng ra ở một nơi hằng ngày đi qua đi lại như để nhắc nhở, vậy nếu khi ta bắt gặp được tức là ta đang hữu duyên, hãy đừng bỏ dịp đứng trước bộ tranh mang những nét sơ sài ấy để ngắm từng bức mà chiêm nghiệm nghiền ngẫm.
04/01/2021(Xem: 4749)
Phật Vàng (Golden Buddha) có tên chính thức trong tiếng Thái là “Phra Phuttha Maha Suwana Patimakon”, nặng 5,5 tấn. Sau nhiều lần di chuyển, pho tượng hiện đang nằm trong đền thờ Wat Traimit, Bangkok, Thái Lan. Hiện tại, mặc dù các học giả vẫn chưa xác định chắc chắn nguồn gốc của pho tượng là bắt nguồn từ thời gian nào. Nhưng dựa theo cấu trúc của phần đầu bức tượng (hình quả trứng), thì có thể đoán rằng, nó ra đời vào dưới triều Sukhothai vào thế kỷ 13 – 14 – một trong những giai đoạn nổi tiếng nhất của nghệ thuật kiến trúc Phật giáo Thái Lan.
03/01/2021(Xem: 9771)
Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu Thiền sư TRÌ BÁT (Kỷ Sửu 1049) Thiền sư TỊNH THIỀN (Tân Sửu 1121) Hoà thượng THÍCH ĐẠT THANH (Quý Sửu 1853) Hoà thượng THÍCH GIÁC NHIÊN (Đinh Sửu 1877) Thiền sư THÍCH CHƠN PHỔ - THUBTEN OSALL LAMA (Kỷ Sửu 1889) Hoà thượng THÍCH BỬU LAI (Tân Sửu 1901) Hoà thượng THÍCH THIÊN ÂN (Ất Sửu 1925) Hoà thượng THÍCH MINH THÀNH (Đinh Sửu 1937)
03/01/2021(Xem: 5894)
“Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Với một nước nông nghiệp như nước ta, hình ảnh con trâu nặng nề lầm lũi, kềnh càng cục mịch luôn gắn bó với những cánh đồng thửa ruộng, thân thiết với bao người nông dân chân lấm tay bùn, và gần gũi với lũ trẻ mục đồng thường nghêu ngao bài hát quen thuộc “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ!”… Không chỉ như thế, trâu cũng đã từng gắn bó với cuộc đời một vài danh nhân lịch sử như Đinh Bộ Lĩnh, Đào Duy Từ… Đối với nền văn học nước nhà, con trâu còn có cái công rất lớn trong việc làm phong phú ngôn ngữ, nhất là trong ca dao- đồng dao-tục ngữ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]