Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chánh niệm, nhẫn nhục trong đời sống thường ngày

22/07/201414:30(Xem: 8029)
Chánh niệm, nhẫn nhục trong đời sống thường ngày

hoa_sen (12)

 

Hoà thượng Chánh Tâm trụ trì ở chùa Kim Liên. Một ngôi chùa cổ, xinh xắn, ấm cúng, nhiều cây cổ thụ bao quanh. Chùa toạ lạc dưới chân núi, cạnh một con suối nhỏ chảy róc rách. Ngài có hai đệ tử, thầy tỳ kheo Tâm An và chú sa di Tâm Bình. Thầy Tâm An xuất gia từ thuở ấu thơ, vì mồ côi mẹ sớm. Thầy lớn hơn chú Tâm Bình đến hai mươi tuổi. Thầy đảm trách hai chức vị, Thị giả và Tri khách, nghĩa là vừa chăm sóc Hoà thượng, vừa lo việc trong, việc ngoài ở chùa. Thầy bận rộn suốt ngày, nhưng lúc nào cũng tươi cười vui vẻ. Chưa bao giờ ai thấy Thầy sân si. Thầy luôn luôn giữ phép lục hoà, trên kính, dưới nhường, làm mọi việc trong chánh niệm tỉnh giác, cần mẫn tinh tiến trong việc tu học. Sau công phu tối, Thầy thường toạ thiền dưới gốc cây cổ thụ bên bờ hồ sau chùa. Từ khi còn thơ ấu, Thầy đã được sự dìu dắt dạy bảo ân cần của Thầy Bổn Sư.

 

Chú Tâm Bình mới tuổi đôi mươi, có cơ duyên xuống tóc xuất gia, thọ giới Sa di với Hoà thượng được một năm. Chú chăm lo làm việc, tiến tu, nhưng còn phải rèn luyện nhiều, dưới sự chỉ dẫn của Sư phụ và Sư huynh.

 

Hoà thượng năm nay đã ngoài tám mươi, người cao gầy, lưng thẳng, bản tính hiền hoà, ít nói cười, ít giao dịch, chuyên tâm tu niệm, đọc sách, dịch kinh và tuỳ duyên độ chúng. Ngài là một vị thầy đức độ khoan dung, một bậc chân tu thạc đức, học vấn uyên thâm. Ngài sống một cuộc đời khiêm cung giản dị, luôn luôn hoà đồng với tăng chúng, lấy nhẫn nhục từ bi làm hạnh.

 

 Câu chuyện bổ củi và đóng đinh.

Hôm nay bầu trời quang đãng, ánh nắng ấm dịu sáng chiếu vào phòng, Hoà thượng đang ngồi viết sách. Bổng nhiên có tiếng chim kêu chíu chít ngoài vườn, khiến Ngài ngước mặt nhìn qua cửa sổ. Ngài thấy Chú Tâm Bình đang ngồi bổ củi, mặt đỏ gay, miệng lẩm bẩm, trông dáng điệu bất bình. Chú ném ra tứ phía những khúc gổ vừa được chẻ xong, còn chùi lia lịa mồ hôi nhễ nhại vào hai cánh tay áo. Ngài thấy thế, bèn đứng dậy, ung dung chẩm rải ra vườn đến gần Chú, vổ vai Chú, khẻ nói: “Thôi con ngừng đi, để Tâm An làm tiếp giúp con, vào nhà Thầy trao cho việc khác”.

 

Chú theo Sư phụ vào nhà. Sư phụ trao cho Chú một gói đinh và căn dặn: “Lúc nào con thấy bực tức hay là gây gổ với ai, không nhẫn nhục được, thì đi đóng một cái đinh vào hàng rào gổ quanh chùa. Cứ mỗi cột, đóng vào một cái đinh” Chú dạ, rồi rút lui.

 

Nhờ Thầy ở bên cạnh, Chú luôn luôn nhớ lời Thầy. Mỗi lần đóng đinh, Chú nhắm kỹ cho cây đinh đứng ngay chính giữa, Chú mím môi và đập cây búa xuống. Chú tự than thở: «Bổ củi còn dễ hơn đóng đinh vì đóng đinh có thể đập búa vào ngón tay nếu không chăm chú vào việc mình làm, không giữ vửng chánh niệm ». Ngày đầu Chú đóng hai chục cây đinh. Nhờ đóng đinh, Chú tập được chánh niệm và tánh nhẫn nhục. Vài tuần sau, Chú đã bớt dần đóng đinh vào hàng rào. Chú lại khám phá thêm rằng nhẫn nhục còn dể làm hơn là đóng đinh.

 

Cuối cùng, một ngày nọ, Chú không đóng một cây đinh nào cả vào hàng rào. Chú đi tìm Hoà thượng để thưa trình. Hoà thượng nói : « Ngày nào con bằng lòng vì thấy tâm thanh tịnh, biết nhẫn nhục, thì con gở một cây đinh ra ». Ngày qua ngày và cuối cùng Chú đến thưa với Hoà thượng : « Bạch Sư phụ, con đã gở hết đinh rồi ». Thầy nói : « Thầy rất mừng con đã tiến hành tốt. »

 

Chú Tâm Bình rất hãnh diện đã học được chánh niệm và nhẫn nhục. Nhưng một tháng sau, nhân dịp Hoà thượng đi cùng với Chú ra xem hàng rào, Thầy nói : « Con hãy nhìn những lỗ thủng còn lại. Hàng rào này sẽ không bao giờ được trở lại toàn hảo như xưa. Con phải nhớ, khi nào gây gổ với ai, hay nói một lời gì nặng, làm buồn lòng người kia, con để lại một vết thương cho người đó y hệt như lỗ thủng này. Dẫu rằng con có xin lỗi ngàn lần đi nữa, vết thương vẫn còn mãi không phai. Một vết thương bằng lời có khi làm đau đớn còn hơn vết thương gây ra trên thể xác ».

 

Khi còn lo tháo đinh, chú Tâm Bình để tâm tu học, nhưng khi tháo hết đinh ra, vì Chú căn bản chưa vững, nên còn phải học nhiều mới hết được sân si.

 

 Câu chuyện gánh nước.

Một ngày nọ, mặt trời đã lặn sau rạng cây cổ thụ, nhiệt độ mát xuống, Hoà thượng đi dạo vườn. Từ xa, Ngài thấy Chú Tâm Bình đang gánh nước ở vườn sau chùa. Chú đá vào hai thùng nước bằng nhôm nghe cái « kẻng », thùng nước ngã lăn tới gần cái giếng. Hoà thượng chứng kiến việc trên. Ngài đi chầm chậm, khoan thai tiến về hướng Chú. Không thốt một lời, Ngài cúi xuống nhắc hai thùng nước lên, đem tới gần miệng giếng, thòng dây xuống giếng kéo nước lên từ chiếc thùng nhỏ, rồi sang nước từ thùng nhỏ qua hai thùng lớn, cột hai thùng nước vào hai đầu đòn gánh, cho cân đối, rồi nhún người xuống để đở đòn gánh lên vai mình. Mọi cử chỉ đều nhịp nhàng, điềm tĩnh. Thấy thế, Chú Tâm Bình sợ cuống cuồng, quỳ xuống cúi lạy. Ngài để gánh nươc cho Chú, rồi lẳng lặng đi vào nhà, không thốt một lời.

 

Thầy Tâm An ở nhà bếp nhìn ra cửa sổ chứng kiến việc trên, lắc đầu, mỉm cười ngao ngán.

 

 Chuyện an cư kiết hạ

Một ngày khác, sau công phu chiều, trước khi hai đệ tử rút lui ra khỏi chánh điện, Hoà thượng lên tiếng: “Sau khi dọn nhà bếp sạch sẽ, hai con lên phòng Thầy ”. Hai người vâng dạ, rồi xuống nhà bếp.

Chú Tâm Bình quét bếp, nhưng lòng lo lắng, Chú thắc mắc, hỏi Thầy Tâm An : “ Tại sao Sư phụ gọi chúng mình vào phòng, chắc muốn quở rầy gì đó. Em thấy nóng nảy trong bụng không yên”.

Thầy Tâm An thốt lên: “Tâm Bình đang làm gì đó? ”

Chú trả lời: “ Em đang quét nhà ”.

Thầy Tâm An thản nhiên nói: “ Thế à ? ”, rồi lặng thinh không nói gì nửa.

Chú Tâm Bình càu nhàu hỏi lại: “ Em đang quét nhà, Anh không thấy sao còn hỏi ? ”

 

Thầy Tâm An ôn tồn giải thích: “ Em đang quét nhà, thì cứ chăm chú trong công việc mình đang làm, đừng nghĩ gì khác hết, đừng để vọng tưởng xâm chiếm vào tâm, phải nắm vửng chánh niệm trong hành động. Một lát nữa vào phòng Sư phụ là chuyện sắp tới, chừng đó hẳng hay, lo trước làm gì cho mệt tâm trí”.

 

Công việc nhà bếp lo chu đáo rồi, hai người lên yết kiến Sư phụ. Sư phụ nói: “ Năm nay, bên chùa Bạch Vân, Hoà thượng trụ trì Bửu Châu có mở mùa “an cư kiết hạ” để độ tăng chúng tinh tiến tu học, thêm được tuổi hạ, tuổi đạo, cho mau đắc quả. Thầy muốn gửi hai con đến đó tu học trong ba tháng. Sáng mai, chúng con nên lên đường sớm, để khỏi bị nắng nóng vào mùa này. Đây lá thư Thầy trao, gửi gấm hai con đến Hoà thượng Bửu Châu”.

 

Thầy Tâm An vâng lời, nhưng trong lòng không khỏi lo âu. Mình đi vắng, biết ai lo cho Sư phụ? Thầy mạnh dạn thưa: “ Bạch Sư phụ, có Chú Cư sĩ Minh Tánh hằng ngày đem hoa quả lên chùa cúng Phật, nếu Sư phụ cần con, Sư Phụ nhắn Chú gọi con về, con sẽ về ngay”. Ngài hiền từ trả lời : “ Mang thân tứ đại vô thường của một kiếp nhân sinh, thì phải chịu sự chi phối của bốn tướng sinh, già, bệnh, tử. Con có ở gần Thầy đi nửa, nếu lúc giờ đã điểm, Thầy phải rời cái thân tứ đại này, thì cũng không làm sao tránh khỏi ! ”. Thầy Tâm An cung kính nhận lời Sư phụ, dơ tay nhận lấy lá thư.

 

Sáng hôm sau, khi gà vừa gáy, Thầy Tâm An đã thức dậy, gánh nước đổ đầy hai lu lớn kê cạnh nhà bếp. Thầy ra vườn khuân củi chất đầy dưới lò bếp. Sau đó, Thầy nấu nướng thật nhiều món ăn để dành và châm đầy một bình trà nóng. Trước khi ra đi, Thầy lên thắp nhang trên chánh điện, ghé qua phòng Sư phụ, đẩy nhẹ cánh cửa phòng. Thấy Sư phụ đang ngồi toạ thiền, Thầy yên chí, đưa tay đẩy nhẹ cửa ngỏ chùa, lách nhanh ra ngoài. Thầy và Chú Tâm Bình xách gói ra đi.

 

Mặt trời mới lên, ánh nắng ấm chiếu sáng. Chùa Bạch Vân cách xa chùa Kim Liên khá xa, đi cũng phải mất gần nửa buổi. Tại sao gọi là chùa Bạch Vân? Vì chùa toạ lạc trên đỉnh núi, xa xa bao giờ cũng thấy có đám mây trắng bao phủ hết phân nửa ngôi chùa. Chùa như treo lủng lẳng giữa trời, thật là ảo huyền.

 

Đi được một đổi xa, nghe gió đưa lại tiếng chuông chùa ngân nga, hai người nhìn nhau mỉm cười, yên chí biết giờ này Sư phụ đã xong thời khoá tụng kinh Pháp và đảnh lễ hồng danh Chư Phật. Sau cùng Sư phụ mới đánh chuông để Chư Phật chứng giám lòng thành kính. Giờ này vầng thái dương đã lên cao, ánh nắng bắt đầu chiếu đốt mạnh vào da người.

 

Trước khi trèo lên đỉnh núi để đi đến chùa Bạch Vân, hai người phải đi qua một bãi cát cạnh bờ biển. Hơi nóng của cát bốc lên càng tăng thêm nhiệt độ. Vừa xa Sư phụ Chú Tâm Bình đã quên hẳn “bài học đóng đinh”. Chú cằn nhằn, cau có, than phiền là nóng quá chịu không nổi, trách Thầy Tâm An đã đi ra khỏi chùa quá trể., Thầy Tâm An lặng im. Vì giữ vững chánh niệm nên Thầy không cảm nhận thời tiết bên ngoài và vì giữ luôn được tính nhẫn nhục, Thầy không gây gổ với Chú Tâm Bình. Thầy đi tìm một que củi khô, cúi xuống viết trên cát chữ :“Sân si“, và đề ngày, tháng, năm. Chú Tâm Bình tò mò hỏi: “ Sư huynh viết thế làm gì vậy?” Thầy không trả lời, vứt que củi khô, và tiếp tục đi.

 

Đến chân núi, hai người bắt đầu leo dốc lên đỉnh núi rất vất vã mệt nhọc. Thỉnh thoảng phải dừng chân lại nghỉ mệt. Càng lên cao, càng khó đi, con đường mòn hẹp lại, một bên là vách núi cao sừng sửng, một bên là vực thẳm. Thầy Tâm An tuy đã học sâu chánh niệm, nhưng lần đầu tiên xa chùa, xa Sư Phụ, lòng không yên. Chưa bao giờ Thầy đi xa Sư phụ quá ba ngày, kỳ này đi tới ba tháng trong mùa an cư kiết hạ. Sư phụ già yếu, biết ai chăm sóc nếu đau ốm đêm khuya trơ trọi một mình? Thầy lại mơ màng vào việc học mới trên chùa Bạch Vân. Thình lình, Thầy trợt chân, té ngã, lăn xuống dốc. May Chú Tâm Bình nhanh chân chạy theo, chụp lại kịp thời, không thì rơi xuống hố sâu. Chỉ trong một vài phút không giữ chánh niệm vào những bước chân, vọng tưởng đã kéo vào xâm chiếm. Thầy Tâm An ngất đi, một lúc sau mới tỉnh lại. Khi tỉnh hồn, Thầy tìm một hòn đá sỏi, khắc chữ vào một tảng đá gần đó, cũng đề ngày, tháng, năm. Chú Tâm Bình lại hỏi: “Sư huynh làm gì vậy?” Thầy Tâm An trả lời: “ Hồi nãy, tôi viết chữ “Sân si“ trên cát, vì sự bực tức của chú là chuyện phù du. Khi một cơn gió thổi đến, hoặc một làn sóng đập vào, chữ sẽ tan biến đi, không còn gì nữa. Vừa rồi, Chú cứu mạng tôi, nên tôi phải ghi khắc vào đá để nhớ ơn mãi. Trong cuộc sống hằng ngày, Chú lúc nào cũng phải suy nghĩ, chuyện gì như chữ trên cát phải quên đi, và chuyện gì như chữ trên đá, phải luôn luôn ghi nhớ.”

 

Hai người tiếp tục rảo bước leo lên đoạn đường cuối, để tới nơi dự lễ trước giờ ngọ.

 

Trên đường xuất gia hay tại gia, phải «giữ chánh niệm và nhẫn nhục». Đó là hai học tập đầu tiên, là chìa khoá mở cửa vào « nhà tu học giáo lý giải thoát ». Mổi việc mình làm trong đời sống thường ngày phải ở trong chánh niệm tỉnh giác. Phần khác, ai nói xấu mình hay gây gổ với mình, mình phải từ bi nhẫn nhục. Hai hạnh đó tưởng dể mà khó làm, phải nhiều năm rèn luyện mới thành đạt. Muốn đạt được hai đức tính nói trên, người đệ tử xuất gia hay người phật tử tại gia, lúc đầu rất cần sự chỉ dẫn, dìu dắt, dạy bảo của một bậc chân tu đức độ.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/07/2011(Xem: 6453)
Khuyến Phát Bồ Đề Tâm Văn của Đại Sư Thật Hiền, Thật Hiền tôi là kẻ phàm phu Tăng bất tiếu ngu hèn, khóc ra lệ máu cúi đầu kính lạy, đau buồn khẩn thiết thưa với chư đại chúng hiện tiền, cùng với chư thiện nam tín nữ có đức tin trong sạch trong hiện đời. Cúi mong quý vị thương xót, lưu ý một chút mà nghe và xét cho.
27/07/2011(Xem: 5472)
Hỏi: Tại sao đạo Phật lại đề xướng ăn chay? Đáp:Người ăn chay thì dục niệm nhẹ. Kẻ ăn mặn thì dục niệm nặng nề. Có tôn giáo cho rằng động vật được sanh ra là để cho loài người ăn, cho nên ăn mặn là một việc hợp lý trời đất. Song le, Phật Giáo đề xướng tinh thần "mọi vật đều cùng một thể, đó gọi là Đại Bi," và xem mọi loài chúng sanh đều có Phật-tánh, đều sẽ thành Phật; cho nên chủ trương giới sát, phóng sanh.
27/07/2011(Xem: 5713)
Mỗi người đều có nhân quả báo ứng của riêng mình. Hễ tạo nghiệp gì thì chịu quả báo đó. Không những chỉ có loài người là phải chịu quả báo mà tất cả chúng sanh cũng vậy; tạo nghiệp từ xưa, ngày nay gặt quả. Điều đó không dễ hiểu đâu. Ví như bị đọa làm súc sinh hoặc ở nơi ác đạo thì rất khó khôi phục lại thân người; nên nói rằng:
26/07/2011(Xem: 5464)
Quyển “MỚI VÀO CỔNG CHÙA” ra đời trước, chúng tôi hướng dẫn độc giả vừa mới làm quen với mùi tương dưa, còn ngỡ ngàng khi bước chân vào cổng chùa. Đến quyển “VÀO CỔNG CHÙA”, chúng tôi nhắm đến những độc giả đã quen thuộc với những chiếc mái vốn cong, từng nghe tiếng mộc ngư nhịp đều buổi tối và tiếng chày kình ngân nga buổi khuya. Tuy nhiên vẫn còn là khách thấy nghe thân cận nhà chùa, chưa phải là người sống trong chùa.
24/07/2011(Xem: 6346)
Ngày nay, việc tổ chức đám cưới tại chùa có lẽ không mấy ai còn cho là lạ, nhưng đây là điều đã được mong muốn từ nửa thế kỷ trước, mà Ni trưởng trụ trì chùa Phước Hải hiện nay – ngày đó là sư cô Tịnh Nguyện, là một trong những vị tu sĩ mở đầu cho truyền thống tốt đẹp này. Một số người vẫn hình dung nhà thờ là nơi để tổ chức đám cưới với tiếng đàn Organ sang trọng, âm vang dưới mái vòm trang nghiêm phủ xuống cô dâu chú rể. Còn nhà chùa chỉ là nơi tổ chức đám tang, với những “vãng sanh đường” leo lét ánh nến, nhang khói mờ mờ, âm âm tiếng mõ trầm buồn.
22/07/2011(Xem: 4762)
Bạn bè là sự thể hiện sinh động cho mối quan hệ đặc thù giữa người với người. Mối quan hệ đó được thiết lập căn bản trên sự đồng đẳng hoặc bất đồng đẳng về giới tính, tuổi tác, chí nguyện, đam mê, sở thích,… là tiêu chí quan trọng để khẳng định nhân cách hoặc quan điểm sống của một con người. Với Phật giáo, sống là sống với. Do đó, bạn bè là một thuộc tính riêng có của các loài chúng sanh nói chung và của con người nói riêng, và là một trong những nhân tố quan trọng, có thể ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực lên bối cảnh sống cũng như khả năng thăng hoa tâm linh của một con người. Sống phải có bạn bè. Không có bạn bè, được xem là một trong năm điều bất hạnh đã được Đức Phật cảnh báo(1).
22/07/2011(Xem: 5324)
Bên cạnh sự ảnh hưởng trực tiếp của gia đình, trong cuộc sống chúng ta, mối tương giao với bạn bè cũng đóng vai trò rất quan trọng cho sự thành bại của mình. Trong mối quen biết ngoài xã hội, hay trong đoàn thể cùng sống chung, ta có nhiều loại bạn hữu; nhưng tìm được người bạn tốt, chân thật hiểu được ta, để có thể chia sẻ tâm tư là điều khó, huống chi là hỗ trợ ta vượt qua những khó khăn trong đời sống thì càng khó gấp bội phần.
22/07/2011(Xem: 4857)
Suốt ngàn năm bị nội thuộc Trung Quốc dân tộc Việt không ngừng nỗi dậy đấu tranh giành lại quyền độc lập, tự chủ. Năm 968 (Mậu Thân) Đinh Bộ Lĩnh dẹp yên nạn cát cứ 12 sứ quân, thống nhất non sông xưng là Đại Thắng Minh hoàng đế. Nhà Đinh đóng đô ở Hoa Lư (Ninh Bình), lập nên triều đại quân chủ đầu tiên của nước Đại Việt.
22/07/2011(Xem: 5165)
Có những biện giải Phật học mà đôi khi ý nghĩa thực tiển vượt thoát khỏi cái võ ngôn từ. Đó là khi hiện thực nương gá vào sự biện giải đó bị biến dạng theo lịch sử, thời gian. Gần gũi hơn, có những phạm trù, khái niệm mà khi vận dụng, ta vô tình quên mất nghĩa gốc ban đầu của chúng. Vấn dề Phật sự là một trường hợp như vậy.
16/07/2011(Xem: 5906)
Lúc này chúng ta hãy quan sát điều gì đang thực sự xảy ra trong thế giới; có bạo lực thuộc mọi loại; không chỉ phía bên ngoài mà còn cả trong sự liên hệ lẫn nhau của chúng ta.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567