Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hạt giống bạo lực

12/07/201407:12(Xem: 9082)
Hạt giống bạo lực

hat giong bao luc4

“Nhân chi sơ –tánh bổn thiện” đó là câu nói bắt nguồn từ cái nhìn hiện thực khi mầm sống của con người được bắt đầu; với Phật giáo, bắt đầu cho mầm sống hiện thực không chỉ là tiếng khóc chào đời mà là một quá trình tích lũy nghiệp thức qua vô số thời gian quá khứ. Mầm sống hiện thực bắt đầu không là “tánh bổn thiện” mà bổn thiện đó là trạng thái “vô ký tánh” khi chủng tử thiện-ác chưa có điều kiện khởi sanh.

Nếu “nhân chi sơ tánh bổn thiện” thì tôn giáo không cần có mặt, và nhất là Phật giáo không cần đến Tam tạng giáo điển để giúp hành giả hoán chuyển nghiệp bất thiện của một chúng sanh. Mang thân chúng sanh đều ít nhiều tích lũy nghiệp Thiện và bất Thiện. Bất thiện là hạt giống mang mầm mống bạo lực. Vi tế của mầm mống bạo lực là sân hận, phiền não, bất an, tự ái, phẫn nộ thuộc thập Kiết sử. Khi vi tế nghiệp bất thiện chưa đủ điều kiện phát tác mạnh thì chúng chỉ ở dạng:”phẫn, hận, não, phú, tật, san,cuống, kiêu, xiểm”. Khi hạt giống bất thiện tích lũy nhiều đời có ngoại duyên tạo điều kiện phát tác, hạt giống bạo lực sẽ biến thành bạo động.

hat giong bao luc3

Bất mãn trước một vấn đề, đương sự không đủ khả năng phản kháng, tự thân căm phẩn, muộn phiền, uất ức...Nều cơ duyên tốt cho sự căm phẩn biểu lộ qua hành động, hạt giống bạo lực biến thành bạo động; hạt giống bạo lực tác hại sự sống, sức khỏe của đương sự, nếu chưa có dịp phát tác, khi biến thành bạo động, sức mạnh của hạt giống bạo lực sẽ là sức mạnh của quả bom tác hại đến đối tượng mà hạt giống bạo lực nhắm đến.

Dĩ nhiên khi hạt giống bạo lực biến thành bạo động thì tuệ trí và lòng từ sẽ không có mặt. Đó là điều kiện đưa đương sự dấn sâu vào tội ác. Một cá nhân, một tập thể, một xã hội mang hạt giống bạo lực thì chắc chắc cuộc sống sẽ hổn loạn, chết chóc, tội lỗi sẽ đe dọa cuộc sống nhân loại. Vì lẽ đó mà các tôn giáo lớn và các trường phái tâm linh đều chủ trương tình thương, bác ái, từ bi đối với tha nhân, riêng Đạo Phật, từ bi phủ trùm luôn vạn loại, vì vậy, giới sát luôn đứng đầu trong năm giới của một tín đồ tại gia.

hat giong bao luc2

Suốt gần ba ngàn năm có mặt trên thế giới, Phật giáo luôn thể hiện đức nhân từ, được xem là tôn giáo hòa bình của nhân loại. Phật giáo Tây Tạng bị bức hại, vô số tu sĩ bị đánh giết, giam cầm, nhục hình thế mà trong tâm các Lạt Ma không hề khởi lên sự oán hận. Một Geshe sau khi thoát tù Cộng sản Trung quốc, vượt biên qua Dharamsala, Đức Đạt Lai Lạt Ma hỏi: “trong suốt thời gian bị hành hạ, đánh đập giam cầm. Thầy sợ cái gì nhất? Ngài đáp: “con chỉ sợ mất lòng từ bi đối với họ”. Vào thời Ngô Đình Diệm, trước sự kỳ thị tôn giáo của chính quyền do Ngô Đình Thục chủ trương, nhiều tín đồ và tu sĩ bị bắt bớ, giam cầm, thủ tiêu...nhưng Phật giáo chỉ kêu gọi sự sáng suốt của giới lãnh đạo và đem thân mình làm đuốc để soi sáng lương tâm nhân loại chứ không dám hành động bạo lực, đi ngược lại tinh thần Từ bi bất bạo động của Đức Phật. Rất nhiều tín đồ sống chung trong các giáo xứ cũng khó mà yên thân lúc bấy giờ. Ngay cả sau 1975, vào ngày 06/12/2005, chùa Hiển Quang do Ni sư Diệu Minh trụ trì xin phép dựng bảng chùa dưới cổng giáo xứ Vinh Sơn (ông Tạ) quận Tân Bình, giáo xứ không đồng ý, thế mà chùa bị bốc cháy nửa đêm, thiêu rụi một số xe hai bánh, pháp khí và đồ vật trong chùa, các sư ni thoát thân kịp thời, ni sư trụ trì bị chấn thương cánh tay. GHPGVN cũng như toàn bộ ni chúng, Phật tử không hề lớn tiếng phản kháng, quy tội cho bất cứ ai.

Miền Nam Thái Lan, tín đồ và chư Tăng đã từng bị sát hại bởi một vài thành phần Hồi giáo cực đoan, Phật giáo Thái cũng không hề phản ứng bạo động. Trên thế giới, một số nơi, tín đồ và tu sĩ Phật giáo cũng gặp những khó khăn với tôn giáo bạn, họ cũng lặng lẽ an phận. Nhưng gần đây, sau khi Miến điện thoát khỏi sự khống chế của Trung cộng, một quốc gia thuần lương của Phật giáo, bổng phát cuồng sát hại anh em Hồi giáo thiểu số một cách khó hiểu. Hạt giống bạo lực tiềm ẩn trong mọi người, chỉ cần một ngọn lửa châm ngòi là bùng phát. Nhưng rất tiếc, tu sĩ cũng như tín đồ Phật giáo Myanmar không thể là một người bình thường để hạt giống bất thiện chủ động như thế. Giáo lý Từ Bi bất sát của nhà Phật hàng ngàn năm qua chưa đủ thấm vào máu thịt của quốc gia Phật giáo Miến sao? Hạt giống bạo lực và hành động bạo lực đó phải được tác động bởi mưu đồ chính trị nhằm gây xáo trộn chính thể dân chủ non trẻ của Miến, đồng thời hủy nhục tinh thần và uy tín của Phật giáo. Một tổ chức có tên là 969, nhà sư cực đoan tên U Wirathu xách động bạo loạn, ông ta mệnh danh là Bin La Den của Miến Điện, phong trào nầy xuất hiện vào năm 2001 do nhà sư theo xu hướng dân tộc cực đoan. Phong trào này đã nảy sinh sau khi quân Hồi giáo Taliban tàn phá những pho tượng Phật cổ ở Bamiyan, Afghanistan và nhất là sau hai vụ khủng bố tấn công ở New York 11 tháng 9 năm đó.Ông ta bị chính quyền Miến kết án 25 năm, được phóng thích vào năm 2011 do chủ trương cải cách dân chủ của chính quyền dân sự Thein Sein. Trước kia chỉ là những cuộc biểu tình đơn thuần, nhưng từ năm 2012 đến nay, máu anh em Hồi giáo Rohingya đã đổ và mạng sống của trẻ em Hồi giáo cũng bị đe dọa. Đây không là Phật giáo, cho dù U Wirathu là nhà sư và những kẻ bạo động là tín đồ Phật giáo. Những thành phần cực đoan như thế mang màu sắc chính trị hơn là tôn giáo và tâm linh, họ đã bị hoạt đầu chính trị lợi dụng. Rồi thêm một quốc gia đa số Phật giáo như đảo quốc sư tử Srilanka cũng dấy lên phong trào bài Hồi giáo thiểu số. Khách quan sẽ đặt vấn đề, phía sau bạo lực và bạo động phải là động cơ chính trị đen tối, mượn tay Phật giáo gây bất ổn xã hội, vừa làm áp lực nào đó buộc chính quyền phải ngã vào vòng kim cô tạo một thế lực mới hầu giải tỏa một thế lực đang siết chặt, đồng thời làm mất uy tín của đạo Phật đang có trên thế giới.

hat giong bao luc

Thế giới ngày càng hổn loạn bởi tâm điên đảo của các thế lực vô minh, rất tiếc Phật giáo của hai quốc gia trên, từng là điểm son tôn giáo trong quá khứ đã bị thế lực vô minh lôi kéo vào nghiệp sát, một trọng tội khó dung thứ. Tuy ân oán đã gieo, nhưng nếu Phật giáo sở tại đủ can đảm đứng ra nhận tội và sám hối xin lỗi hàng trăm nạn nhân bỏ mạng, hàng ngàn nạn nhân mất nhà cửa tài sản đang sống bất an trên chính quê hương họ, thì chắc chắn sẽ đem lại an hòa cho cuộc sống dù ác nghiệp đã tạo khó tránh khỏi nghiệp báo.

Mầm mống bạo lực đều tiềm ẩn trong mọi người, nếu lòng từ và trí tuệ phát triển thì hạt giống kia sẽ tự tiêu hủy. Cái mark tu sĩ hay tín đồ của một tôn giáo không đủ chứng minh giá trị thật của tôn giáo mình đang có. Phật giáo cũng thế, là một tôn giáo Từ bi, trí tuệ và hòa bình không chỉ trên giáo điển mà phải được thể hiện qua thân giáo và đời sống thường nhật của Tăng Tín đồ.

Sự sai lầm của một số Tăng tín đồ Phật giáo trên hai quốc gia nói trên, tuy chưa đủ làm mất uy tín của đạo Phật, nhưng đủ làm đau lòng người con Phật. Hành động bạo lực đó tuy chưa đủ làm giảm niềm tin và uy tín của đạo Phật đối với nhân loại, nhưng xã hội loài người sẽ có cái nhìn dè chừng khi ai đó tự xưng là tín đồ Phật giáo cững cực đoan như một số tôn giáo khác.

 Người Phật tử chúng ta hãy sám hối thay cho những bạo lực trên đây, cầu nguyện thần lực Tam bảo gia hộ cho những tâm hồn tôn giáo cực đoan trong Phât giáo hãy ngưng tay bạo động, hướng về nội tâm để phát triển lòng từ cứu độ chúng sanh theo hạnh nguyện của đức Bổn sư. Cầu mong Phật giáo thế giới không bị cuốn hút vào vòng xoáy bạo lực và không bao giờ bạo động cho dù bằng lời nói.


 MINH MẪN

 11/7/2014

 

 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/02/2021(Xem: 4254)
Sau khi đạt được Giác ngộ, Đức Phật nêu lên Bốn Sự Thật và sự thật thứ nhất là "Khổ đau". Khổ đau ẩn chứa trong thân xác, bàng bạc trong tâm thức của mỗi cá thể con người và bùng ra cùng khắp trong thế giới: bịnh tật, hận thù, ích kỷ, lường gạt, đại dịch, bom đạn, chiến tranh... Sự thật đó, khổ đau mang tính cách hiện sinh đó, thuộc bản chất của sự sống, gắn liền với sự vận hành của thế giới. Sự thật về khổ đau không phải là một "phán lệnh" hay một cái "đế", cũng không mang tính cách "kỳ diệu" gì cả, mà chỉ là một sự thật trần trụi, phản ảnh một khía cạnh vận hành của hiện thực.
07/02/2021(Xem: 5120)
Nhà thiền có danh từ Tọa Xuân Phong để diễn tả hạnh phúc khi thầy trò, đồng môn, được ngồi yên với nhau, không cần làm gì, nói gì mà như đang cho nhau rất đầy, rất đẹp. Danh từ đó, tạm dịch là “Ngồi Giữa Gió Xuân” Mùa Xuân chẳng phải là mùa tiêu biểu cho những gì hạnh phúc nhất trong bốn mùa ư? Hạ vàng nắng cháy, vui chơi hối hả như đàn ve sầu ca hát suốt mùa để cuối mùa kiệt lực! Thu êm ả hơn, nhưng nhìn mây xám giăng ngang, lá vàng lả tả, tâm- động nào mà không bùi ngùi tưởng tới kiếp nhân sinh?
07/02/2021(Xem: 5338)
Chú mục đồng chậm rãi bước xuống sông. Bên cạnh chú, con trâu lớn nhất đàn ngoan ngoãn xuống theo. Đôi mắt hiền lành của nó nhìn chú như mỉm cười, tin tưởng và thuần phục. Những con trâu bé hơn lại nhìn bước đi vững chãi, an lạc của con trâu đầu đàn mà nối nhau, cùng thong thả qua sông. Đây là khúc sông cạn mà chú đã dọ dẫm kỹ lắm. Đáy sông lại không có những đá nhọn lởm chởm có thể làm chân trâu bị thương. Bên kia sông, qua khu rừng có những cội bồ đề râm mát là tới đồng cỏ rộng. Mùa này, sau những cơn mưa, cỏ non vươn lên xanh mướt, đàn trâu gồm bẩy con mà chú có bổn phận chăm sóc tha hồ ăn uống no nê sau những giờ cực nhọc cầy bừa ngoài đồng lúa.
07/02/2021(Xem: 8130)
Khi những cơn bảo và áp thấp nhiệt đới hung hãn nhất vừa tạm qua đi, khí trời phương Nam cũng trở buồn se lạnh. Nhiều người cho đó là hoàn lưu của những cơn bão miền Trung mà tất cả con dân “bầu bí chung dàn” vẫn còn đang hướng về chia sẻ, nhưng ít người nhận ra rằng đó chính là cái se lạnh của mùa đông phương Nam, báo hiệu mùa xuân sắp đến nơi ngưỡng cửa của bộn bề lo toan hằng năm.
06/02/2021(Xem: 6257)
Mười bức “Tranh Chăn Trâu” trong phần này là của họa sư Nhật Bản Gyokusei Jikihara Sensei, vẽ vào năm 1982 nhân một cuộc thăm viếng thiền viện Zen Mountain Monastery ở Mount Tremper, New York, (Hoa Kỳ). Họa sư vẽ để tặng thiền viện. Các bài thơ tụng thời nguyên gốc của thiền sư Quách Am viết vào thế kỷ thứ 12. Thơ tụng được chuyển dịch ở đây bởi Kazuaki Tanahashi và John Daido Loori, sau đó được nhuận sắc bởi Daido Loori để mong tạo lập ra những hình ảnh và ẩn dụ cho thêm giống với phong cảnh núi sông ở quanh thiền viện Zen Mountain Monastery. Thiền sư Daido Loori là người lãnh đạo tinh thần và là tu viện trưởng của thiền viện này.
04/02/2021(Xem: 5704)
Hôm qua mình có giới thiệu cuốn sách Buddhism in America (Phật Giáo Mỹ) của Richard Hughes Seager. Có bạn hỏi thêm muốn tìm hiểu Phật Giáo Mỹ nên nhờ mình giới thiệu vài cuốn. Nghĩ rằng đây là câu hỏi hay nên mình xin viết giới thiệu 7 cuốn sách để nhiều người lợi lạc. 1. Cuốn The Faces of Buddhism in America (Diện Mạo của Phật Giáo ở Mỹ) do Charles Prebish 2. Buddhist Faith in America (Đức Tin Phật Giáo ở Mỹ) tác giả Michael Burgan 3. Buddhism in America của Richard Huges Seager (1999, tái bản 2012) 4. Buddhism in America của Scott Mitchell 5. Altered Traits: Science Reveals How Meditation Changes Your Mind, Brain, and Body, 2017 6. A Mindful Nation: How a Simple Practice Can Help Us Reduce Stress, Improve Performance, and Recapture the American Spirit, 2012, 7: American Dharma: Buddhism Beyond Modernity
01/02/2021(Xem: 4337)
Tại các nước nông nghiệp hình ảnh con trâu với đứa trẻ chăn trâu ngồi trên lưng trâu thổi sáo là một hình ảnh quen thuộc thường gắn liền với đời sống của người dân. Tại Việt Nam, từ lâu hình ảnh này đã đi vào tâm thức mọi người và không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào lãnh vực văn học nghệ thuật nữa. Trong văn học Phật giáo nói chung và văn học Thiền tông nói riêng thời hình ảnh con trâu với trẻ mục đồng đã trở thành thi liệu, biểu tượng, thủ pháp nghệ thuật. Những hình ảnh này hiển hiện trong truyền thống kinh điển cũng như được đề cập đến nhiều lần trong những thời pháp của đức Phật khi Ngài còn tại thế.
01/02/2021(Xem: 9283)
Vào thời thái cổ, theo truyền thuyết Đế Minh là cháu bốn đời của vua Thần Nông đi tuần thú phương Nam đến núi Ngủ Lĩnh ( nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung quốc ). Vua Đế Minh đã dừng chân tại nơi nầy, ngài cưới Vu Tiên nữ con vua Động Đình Hồ làm vợ. Đế Minh sinh được một trai tư chất thông minh ngài đặt tên Lộc Tục. Vào năm 2879 trước tây lịch ( khoảng thế kỷ thứ 7 TCN ) Đế Minh phong cho con làm vua ở phương Nam. Lộc Tục lên ngôi xưng đế hiệu Kinh Dương Vương đặt tên nước là Xích Quỷ ngài đóng đô tại Phong châu.
01/02/2021(Xem: 5817)
Kinh Phật đầu tiên là kinh Hoa Nghiêm, kinh Phật cuối cùng là kinh Đại Bát Niết Bàn. Chúng ta học hai kinh nầy để nắm trọn lịch trình của đạo Phật. Kinh Đại Bát Niết Bàn thường gọi là Niết Bàn là kinh vừa kể lại lịch sử đức Phật trước khi nhập diệt vừa là kinh nói về lời giáo huấn cuối cùng của ngài. Vừa tâm lý tình cảm vừa là lời nhắn nhủ sau cùng của Phật cho đạo tràng như người cha trăn trối cho con tiếp tục theo đường đi của ngài. Đời thế gian của Đức Phật khi sinh ra vì bào thai to lớn quá phải giải phẩu bụng của mẹ ngài nên mất máu mà mất sớm, ngài sống qua sự nuôi dưỡng của người dì em của mẹ.
01/02/2021(Xem: 7120)
Phần này bàn về các danh từ gọi dụng cụ gắp cơm và đưa vào miệng (ăn cơm) như đũa hay trợ, khoái, giáp cùng các dạng âm cổ của chúng. Các chữ viết tắt khác là Nguyễn Cung Thông (NCT), Hán Việt (HV), Việt Nam (VN), TQ (Trung Quốc), ĐNA (Đông Nam Á), HT (hài thanh), TVGT (Thuyết Văn Giải Tự/khoảng 100 SCN), NT (Ngọc Thiên/543), ĐV (Đường Vận/751), NKVT (Ngũ Kinh Văn Tự/776), LKTG (Long Kham Thủ Giám/997), QV (Quảng Vận/1008), TV (Tập Vận/1037/1067), TNAV (Trung Nguyên Âm Vận/1324), CV (Chính Vận/1375), TVi (Tự Vị/1615), VB (Vận Bổ/1100/1154), VH (Vận Hội/1297), LT (Loại Thiên/1039/1066), CTT (Chính Tự Thông/1670), TViB (Tự Vị Bổ/1666), TTTH (Tứ Thanh Thiên Hải), KH (Khang Hi/1716), VBL (tự điển Việt Bồ La/1651) ĐNQATV (Đại Nam Quấc Âm Tự Vị/1895).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]