Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Einstein nói về Đạo Phật và đời sống hằng ngày

04/06/201406:10(Xem: 10099)
Einstein nói về Đạo Phật và đời sống hằng ngày

Einstein_Albert

EINSTEIN NÓI VỀ ĐẠO PHẬT
VÀ VỀ ĐỜI SỐNG HÀNG NGÀY

Vi Tâm

 

 

 

Các bạn chắc đã đọc rất nhiều lời khuyên của các vĩ nhân, có thể thấy chán. Nhưng tôi vẫn muốn viết về một người, là ông Einstein. Ông Einstein là một trường hợp rất đặc biệt.

Khi Einstein viết về những thuyết tương đối của ông, thì thật rất it người hiểu. Về thuyết tương đối hẹp, có người quả quyết nếu Einstein không viết ra, thì người khác, như Henri Poincaré, cũng sẽ tìm ra. Nhưng về thuyết tương đối rộng, thì cách suy nghĩ của Einstein vượt xa những nhà bác học đương thời, không ai có thể so sánh được. Trước khi mất, ông viết bài về thuyết trường thống nhất, rồi ra đi. Mười năm sau cũng không ai hiểu thuyết này, rồi thiên hạ không tìm tòi nữa, và không ai khảo cứu thêm về thuyết tương đối sau cùng của ông.

 

Einstein viết nhiều về tín ngưỡng và đạo Phật. Câu này của ông rất nối tiếng :
« Nếu có một đạo giáo nào có thể thích hợp với những đòi hỏi của khoa học hiện đại thì đó là Phật Giáo ».
Bởi vì đạo Phật bao trùm cả vũ trụ, coi con người, tất cả sinh vật, và trời đất, là một, không tôn thờ một Thượng Đế, và khi tìm hiểu về tâm linh, nguồn gốc của khổ đau và cách sống trong đời này, đạo Phật cũng theo những phương pháp thực nghiệm như những phương pháp thực nghiệm của khoa học. Đức Thế Tôn nhiều lần nhắc nhở các Phật tử là đừng răm rắp nghe những lời Người đã nói chỉ vì lòng tôn trọng đối với Người, mà phải suy nghĩ thực nghiệm những lời đó vào bản thân thời đại và hoàn cảnh quanh mình. Luôn luôn đặt câu hỏi về những khám phá của người đi trước, để tìm tòi và học hỏi khám phá những điều mới, thích hợp hơn với những khả năng quan sát hiện đại, đó chính là phương pháp căn bản của khảo cứu khoa học.

 

Hai chữ « đặc biệt » tôi muốn nói ở trên, là khi Einstein viết về đời thường, thì lời ông lại hết sức giản dị, và những điều ông nhắn nhủ rất thực tế. Ai cũng hiểu và cũng có thể áp dụng những lời ông nói trong hoàn cảnh của mình. Đôi khi mình có cảm tưởng đã một phần nào làm theo như ông khuyên. Lúc đó thấy rất phấn khởi thích thú.

 

Bây giờ tôi xin nhắc vài câu ông nói :

 

1. Einstein : « Tôi chẳng có tài năng gì đặc biệt. Tôi chỉ là một đứa tò mò và đam mê ».

Ông viết thế là vì khiêm tốn đó thôi. Mình đâu dám nói về tài năng với ông, phải không bạn. Nhưng bạn có cho mình là một người tò mò và đam mê không ?

Khi mình có chánh niệm về một vấn đề hay một sự vật gì, thì thể nào cũng muốn hiểu biết thêm. Nếu là một vấn đề quan trọng thì « hiểu biết thêm » có thể viết là « khảo sát thêm». Nếu là chuyện hay sự vật nhỏ thì « muốn hiểu biết thêm» nên viết khiêm tốn là « tò mò ». 

Tò mò là một đức tính mình nên khuyến khích và bồi bổ. Có khi chỉ tò mò về chuyện tưởng là nhỏ mà đi đến những khám phá lớn.

Nói về tò mò thì tôi phải kể về hai đứa con. Khi còn nhỏ, cái gì chúng cũng hỏi. Vợ chồng tôi có một nguyên tắc, là khi chúng hỏi cái gì thì dù bận đến đâu cũng phải ngưng việc để trả lời cho chúng. Vấn đề là nhiều chuyện chúng tôi không biết rõ. Vừa trả lời xong đã thấy mình nói như thế thì các con không thể hiểu được. Và chúng tôi đã mất nhiều thì giờ tìm tòi thêm. Nhờ con cái mà học được nhiều thứ, và phải học cho thấu đáo, vì khi cắt nghĩa điều gì mà người khác không hiểu thì lý do là vì chính mình chưa hiểu rõ, chứ không phải vì người khác tối dạ. Khi các con khôn lớn ra khỏi gia đình thì tính tò mò đã để lại cho bố mẹ. Giữ mãi được cái tính tò mò của các con hồi chúng còn nhỏ là điều rất quý đó các bạn !

Về chuyện đam mê thì tới nửa đời người tôi vẫn cho đam mê là tính trời cho. Ai đi làm mà đam mê công việc mình thì quả là hạnh phúc. Nhưng ít người được như vậy. Riêng phần tôi, học hành có chăm chỉ, đi làm có tranh thủ. Nhưng đó là vì tham vọng, muốn lên chức, muốn thêm thu nhập, chứ không thể nói là vì đam mê. Tôi sẽ viết thêm dưới đây về điều này.

2. Einstein : « Tôi thành công không phải vì tôi thông minh. Mà là vì tôi không nản lòng trong công việc. »

Thời buổi này, phải kiên trì trong công việc làm ăn là chuyện dĩ nhiên. Không kiên trì là bị sa thải. Còn về những chuyện khác, không phải vì miếng cơm, thì mình có kiên nhẫn không ?

Khi công việc kiếm ăn ổn định, ngoài việc đi làm, tôi học thêm cái này cái kia. Học vẽ, sơn dầu, làm tượng, học viết văn, và khám phá ra là… mình cũng có nhiều tài mọn.
Đọc ông Einstein, mỗi khi tôi có linh tính là điều gì có thể thích, tôi rất kiên trì. Quả là khi kiên trì thì thế nào cũng có ít nhiều kết quả. Có điều là khi nào thành công dễ dàng tôi chẳng học được gì mấy. Khi nào phải trầy da sứt vẩy mới thành đạt thì tôi lại học hỏi được nhiều. Tôi đã chứng nghiệm thành công và say mê sẽ đến khi mình biết kiên nhẫn trong những bước đầu ! Khám phá ra điều đó thì đã quá nửa đời người rồi.

 

3. Einstein : « Khả năng tưởng tượng quan trọng hơn là nhiều hiểu biết ».

Điều này rất sâu xa. Hồi bé các thầy cứ bắt học đủ thứ và học thuộc lòng như con vẹt. Bây giờ mới thấy là khả năng phát minh không bắt buộc phải biết nhiều hiểu rộng. Mình phải « học cách học », chứ không cần thuộc lòng càng nhiều thứ càng tốt. Thời đại mới có ông Google, hỏi gì cũng cho cả triệu tài liệu để đọc, thành ra vấn đề là phải biết cách chọn tài liệu để đọc, không cần giữ đủ thứ trong đầu nữa !

Khả năng tưởng tượng là chuyện khác. Vì tưởng tượng đi đến phát minh. Thời buổi này rất khó biết những tưởng tượng của mình là mới hay có người đã nghĩ đến rồi. Dù sao điều quan trọng là cái óc tưởng tượng và phát minh của mình. Một người bạn tôi khi viết xong luận án mới đọc được một bài khảo cứu trong đó một người khác vừa tìm ra kết quả của anh, trong một phạm vi rộng hơn. Không thể trách ông thầy hướng dẫn luận án bạn tôi được, vì ông thầy, tuy rất uyên bác, cũng không ngờ có người vừa thành công về chủ đề này rồi. Hội đồng giáo sư, sau khi bàn bạc, đã đồng ý cho bạn tôi trình luận án. Lý do là anh đã có óc phát minh, óc phát minh là điểm chính của nhà khảo cứu. Chuyện đến với anh là một trường hợp rất hãn hữu. Sau này anh đã viết cả trăm bài khảo cứu khác.

Tất cả các nghệ sỹ thành công đều có tưởng tượng và phát minh ! Bạn có đồng ý không ?

 

4. Einstein : « Học phải hành. Lý thuyết không đủ ».

Cái này thì phải áp dụng trong đời cũng như trong đạo. Kinh nghiệm riêng cho thấy cái gì tôi chưa thực tập thì tôi chưa hiểu. Chuyện công việc thì dĩ nhiên rồi. Nhưng chuyện nhỏ trong đời cũng vậy. Bạn thích ăn mà chỉ đọc sách thì không đủ. Làm bếp một chút thì khi ăn một món ngon sẽ thấy thú vị hơn nhiều. Vẽ một chút thì khi xem tranh thấy thích thú hơn. Mê hoa mà chỉ đọc sách hay ra vườn ngắm thì mau chán. Bà xã tôi có khi đứng cả giờ ngắm một bông hồng trên ban công mà tôi không thấy gì quyến rũ cho lắm. Khi tôi đóng góp vào việc trồng cây thì mới hiểu : cây hồng đó bà đã chăm chút từ hồi nó còn bé, và bông hoa này bà đã đặc biết cưng nó từ hồi nó mới nở ra.

Khi muốn ngồi thiền cho tới định tôi đọc rất nhiều bài và sách. Lúc đầu hành rất khó khăn. Sau nhiều cố gắng mới tìm ra một số thủ thuật, kiên nhẫn từ từ giảm từng bước một những cảm nhận với các giao động bên ngoài và bên trong. Bây giờ nhờ các thủ thuật đó tôi có thể ngồi yên ả trong nửa giờ bốn mươi lăm phút, và khi xả thiền ôn lại thấy quả là trong thời gian ngồi thiền đầu óc mình không suy nghĩ gì cả. Sau đó tôi trở lại đọc sách thì hiểu về ý nghĩa và hiệu quả của ngồi thiền một cách sâu sa hơn. Tôi nói cách ngồi của mình cho một người bạn để anh thử tập. Rồi hỏi kết quả ra sao, thì anh bạn nói không hoàn toàn đồng ý với phương pháp của tôi nhưng anh tìm ra cách khác không giống hẳn, rất hợp với anh và rất thành công. Anh đang tham khảo thêm. Thật là tuyệt !

 

5. Einstein : « Mỗi ngày nên có một cái gì mới. Đừng sống hôm nay như ngày hôm qua ».

Khi các con còn trẻ, trong bữa tối gia đình tôi đặt lệ phải kể cái gì mình làm hôm nay coi là mới mẻ không giống hôm qua. Ai cũng thi đua rất vui. Với bọn trẻ thì rất dễ vì ngày nào chúng cũng có bài học mới. Người lớn thì nhiều khi phải suy nghĩ mới tìm ra điều đáng nói, có khi còn gượng gạo ! Tôi nhớ một cuốn phim có kể chuyện một người mẹ gặp tai nạn có nguy cơ bị mất trí. Các con phải thay nhau vào nói chuyện dài dài với bà để giữ cho bà tỉnh táo không bị u mê. Các con nói : « dễ lắm chỉ cần kể với mẹ hôm qua con làm cái này cái kia là thiếu gì chuyện ! ». Đến lượt người con dâu. Người này nói với bà một chút rồi ngồi yên...Rồi bật lên khóc nức khóc nở. Bởi vì bấy giờ người con dâu mới nhận ra rằng, ngày này qua ngày kia, mình chỉ có ngần ấy việc, cứ làm đi làm lại, kể ra chỉ trong năm phút là hết không còn gì mà nói nữa.
Các bạn nên cẩn thận, nếu hôm nay mà chỉ làm như hôm qua thì hôm nay bạn đã sống một ngày thừa.

 

Vi Tâm

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/01/2021(Xem: 6028)
Vào năm 2004, Thư Viện Anh Quốc đã mở cửa đón khách vào thưởng một “pháp bảo” của Phật giáo Trung Hoa mang tên “Kinh Kim Cang”, đó là một trong những cổ vật chính được trưng bày tại cuộc triển lãm “Con Đường Tơ Lụa. Bên cạnh cuốn “Kinh Kim Cang” còn có những cổ vật khác được giữ gìn hoàn hảo hơn 1000 năm qua như : một súc lụa, một tấm thảm trải trước lò sưởi tại ngôi nhà bỏ hoang đã 1.100 năm, một cuộn len 1300 năm tuổi … Phần lớn cổ vật trưng bày tại triển lãm được lấy từ bộ sưu tập của Sir Marc Aurel Stein.
07/01/2021(Xem: 5613)
Một khuôn mặt trong một tấm gương xuất hiện là một khuôn mặt, nhưng thế nào đi nữa hình ảnh đấy không là một khuôn mặt thật sự; đấy là từ những quan điểm trống rỗng về sự hiện hữu của một khuôn mặt. Giống như thế, một nhà huyển thuật có thể gợi lên những ảo ảnh dường như là những thứ thật sự. như một người ở trong một cái thùng bị xiên bởi một cây gươm, nhưng tất cả hoàn toàn không được tạo ra thật sự như những thứ được thấy. Tương tự thế, các hiện tượng như thân thể hiện diện được tạo ra từ chính phía của đối tượng nhưng trống rỗng trong việc được thiết lập cách ấy và luôn luôn như thế.
04/01/2021(Xem: 5526)
Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa ra nhận xét chính thức đầu tiên về việc nghỉ hưu, từ các trách nhiệm chính trị trong một buổi giảng dạy công khai tại Tsuglagkhang, Dharamshala, ngày 19 tháng 3 năm 2011. Năm 1963, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã ban hành một Hiến pháp Dân chủ (democratic constitution) hoàn toàn dựa trên Giới luật Phật giáo, và bản Hiến chương Nhân quyền của Liên Hợp Quốc để biên soạn, và chuẩn bị cho một mô hình đất nước Tây Tạng tự do ở tương lai:
04/01/2021(Xem: 6934)
Ngày Xuân ngày Tết, nếu ai tìm những giờ phút thanh thản yên tịnh bằng những bước nhẹ nhàng khoan thai vào vãng cảnh các chùa chiền tự viện, dâng hương bái Phật, nếu để ý sẽ thấy ở một vách tường nào đó treo bộ tranh mang tên gọi là “Thập mục ngưu đồ”. Không phải chốn già lam thiền viện nào cũng có trưng treo, vì đó không phải là điều bắt buộc thuộc thanh quy giới luật, nhiều khi chỉ được treo để trang trí, hay được trưng ra ở một nơi hằng ngày đi qua đi lại như để nhắc nhở, vậy nếu khi ta bắt gặp được tức là ta đang hữu duyên, hãy đừng bỏ dịp đứng trước bộ tranh mang những nét sơ sài ấy để ngắm từng bức mà chiêm nghiệm nghiền ngẫm.
04/01/2021(Xem: 4323)
Phật Vàng (Golden Buddha) có tên chính thức trong tiếng Thái là “Phra Phuttha Maha Suwana Patimakon”, nặng 5,5 tấn. Sau nhiều lần di chuyển, pho tượng hiện đang nằm trong đền thờ Wat Traimit, Bangkok, Thái Lan. Hiện tại, mặc dù các học giả vẫn chưa xác định chắc chắn nguồn gốc của pho tượng là bắt nguồn từ thời gian nào. Nhưng dựa theo cấu trúc của phần đầu bức tượng (hình quả trứng), thì có thể đoán rằng, nó ra đời vào dưới triều Sukhothai vào thế kỷ 13 – 14 – một trong những giai đoạn nổi tiếng nhất của nghệ thuật kiến trúc Phật giáo Thái Lan.
03/01/2021(Xem: 9159)
Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu Thiền sư TRÌ BÁT (Kỷ Sửu 1049) Thiền sư TỊNH THIỀN (Tân Sửu 1121) Hoà thượng THÍCH ĐẠT THANH (Quý Sửu 1853) Hoà thượng THÍCH GIÁC NHIÊN (Đinh Sửu 1877) Thiền sư THÍCH CHƠN PHỔ - THUBTEN OSALL LAMA (Kỷ Sửu 1889) Hoà thượng THÍCH BỬU LAI (Tân Sửu 1901) Hoà thượng THÍCH THIÊN ÂN (Ất Sửu 1925) Hoà thượng THÍCH MINH THÀNH (Đinh Sửu 1937)
03/01/2021(Xem: 5493)
“Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Với một nước nông nghiệp như nước ta, hình ảnh con trâu nặng nề lầm lũi, kềnh càng cục mịch luôn gắn bó với những cánh đồng thửa ruộng, thân thiết với bao người nông dân chân lấm tay bùn, và gần gũi với lũ trẻ mục đồng thường nghêu ngao bài hát quen thuộc “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ!”… Không chỉ như thế, trâu cũng đã từng gắn bó với cuộc đời một vài danh nhân lịch sử như Đinh Bộ Lĩnh, Đào Duy Từ… Đối với nền văn học nước nhà, con trâu còn có cái công rất lớn trong việc làm phong phú ngôn ngữ, nhất là trong ca dao- đồng dao-tục ngữ.
01/01/2021(Xem: 5122)
Từ lâu các kinh sách Phật Giáo Việt Nam bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ âm Hán Việt của Trung Quốc. Từ những được chư tôn thiền đức Tăng Ni chuyển qua quốc ngữ tiếng Việt, để Phật tử dễ đọc, nhất là những vị chưa có kiến thức về âm Hán Việt. thế kỷ 20 (năm 2000 trở đi) các kinh sách dần dần đã Người biên soạn xuất gia tại Chùa Liên Hoa, Bình Thạnh, với Tôn Sư Hải Triều Âm, các kinh sách trong Chùa tụng bằng tiếng Việt do Tôn sư chuyển ngữ. Từ năm 2005 trở đi, người biên soạn định cư và hoằng pháp tại Hoa Kỳ. Nhiều Chùa ở Hoa Kỳ vẫn còn tụng kinh bằng âm Hán Việt và nhiều nơi phải tụng bằng tiếng Anh cho người bản địa và thế hệ con cháu thứ hai sanh tại Mỹ có thể tụng hiểu được. Phật tử Việt tụng kinh bằng tiếng Việt mà vẫn chưa hiểu được ý nghĩa ẩn sâu trong lời kinh và càng bối rối hơn khi tụng kinh bằng bằng âm Hán Việt. Đó là lý do thúc đẩy, chùa Hương Sen biên soạn một cuốn “NGHI LỄ HÀNG NGÀY” bằng tiếng Việt và tổng hợp gần 50 bài kinh:
01/01/2021(Xem: 5715)
Trong kho tàng văn học của Việt Nam và Phật Giáo, Trần Thái Tông (1225 - 1258) đã có những đóng góp vô cùng to lớn và giá trị, những sáng tác của Ngài, bất hủ qua dòng thời gian, tỏa sáng lồng lộng trên bầu trời Dân Tộc và Đạo Pháp. Trần Thái Tông được kể như một vị Thiền sư cư sĩ vĩ đại, nhà thiền học uyên thâm, thành tựu sự nghiệp giác ngộ. Một vị vua anh minh dũng lược, chiến thắng quân Nguyên Mông giữ gìn bờ cõi, đem lại cường thịnh ấm no cho dân cho nước, đã để lại tấm lòng cao quý thương yêu đời đạo, lưu lại di sản trí tuệ siêu thoát cho hậu thế noi theo.
29/12/2020(Xem: 6209)
Tịch tĩnh bất động hay định lực có thể đè nén những cảm xúc chướng ngại ẩn tàng, nhưng nó không thể loại trừ hoàn toàn chúng. Tuệ giác nội quán là cần thiết bởi vì như được giải thích trước đây, nó có thể loại trừ hoàn toàn những cảm xúc phiền phức và những rối rắm hậu quả của chúng. Thiền ổn định (chỉ) và thiền phân tích (quán) bây giờ phải làm việc với nhau. Khi chúng thể hiện chức năng cách này, chúng có thể nhổ gốc những cảm xúc phiền phức và loại trừ những giới hạn của thông tuệ vì thế chúng ta có thể hoàn thành mục tiêu tối hậu của việc giúp đở những kẻ khác một cách hiệu quả hơn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]