Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Học Từ Bi Với Chính Mình

22/04/201407:11(Xem: 10735)
Học Từ Bi Với Chính Mình

lotus_4
Chúng ta nghe khá nhiều về việc phải tu tập hạnh từ bi nhưng mình cứ loay hoay mãi không biết bắt đầu từ đâu! Có người bảo rằng mình phải học cách sống hy sinh cho người khác thì tâm từ bi mới nở rộ. Nhưng có người lại nói rằng từ bi mà không có trí tuệ là một kẻ dại khờ, ngu dốt. Câu chuyện làm đề tài từ bi thêm hấp dẫn là câu hỏi: 'có nên hay không nên cho tiền người vô gia cư, không nhà, không chốn nương thân (homeless)?' Có người cho rằng không nên vì nếu cho tiền họ, họ có thể mua ít rượu để uống và khi rượu vào thì có thể tâm trí họ sẽ không còn minh mẫn; do đó, họ có thể trở nên bạo động, và có thể, giết người. Nghiệp họ gây ra là do chính mình đã cho họ một số tiền, dù nhỏ, nên tạo duyên cho họ gây tội ác. Thế nên, mình cũng có dính phần trong đó!

Có người lại cho rằng đã từ bi thì không nên tính toán. Mình cứ cho người đi còn họ dùng tài vật vào chuyện gì đó là chuyện của họ. Vì lỡ có người quá đói cần ăn để sống nếu chúng ta phân vân không cho, có thể họ sẽ bị chết vì đói. Như vậy, có phải là mình thiếu đức từ bi hay không? Người khác lại bàn rằng: chắc ăn nhất là mua thức ăn cho họ, nếu họ đói, họ sẽ có cái gì đó bỏ bụng. Nếu họ không đói, họ có thể để dành khi nào đói thì ăn. Như vậy, sẽ tránh được tình trạng tạo duyên xấu cho họ gây tội ác.

Tùy theo ý thích của mỗi người chọn cho mình cách thể hiện lòng từ tốt nhất. Tuy nhiên, bạn có thấy rằng nếu mình rãi tâm từ không hợp thời và không đúng cách sẽ khiến mình thêm phiền não và khó chịu! Bạn thử chiêm nghiệm câu châm ngôn: ‘Một miếng khi đói bằng một gói khi no.’ Hiệu ứng giá trị của một miếng và một gói khác nhau thật là nhiều khi mình biết cho đúng thời và hợp lúc. 

Nhưng nếu suy xét kỷ bạn có thấy rằng sỡ dĩ mình phân vân không biết chọn cách thể hiện lòng từ nào cho đúng là vì mình có bao giờ ứng dụng lòng từ đó với chính mình chưa? Mình đã có bao giờ ‘thử’ từ bi với chính mình? Đương nhiên, khi nói đến lòng từ bi là chúng ta thường liên tưởng đến từ bi đối với người khác. Nhưng Phật thường dạy: ‘Hãy tự thắp đuốc lên mà đi!’ Có nghĩa là, hãy tự độ mình rồi mới độ tha là vậy. Chính nhờ biết từ bi với chính mình mà ta mới hiểu cách nào để rộng mở lòng từ bi đến cho mọi người. Chúng ta sẽ dễ cảm thông khi có người đang tự làm khổ lấy chính bản thân họ.

Nếu bạn còn lấn cấn vì cho rằng từ bi với chính mình thì sẽ sanh ngã ái thì bạn hãy đọc lời Phật đã dạy: “Ai còn tham luyến (tức còn ngã ái chấp đây là của tôi, ngã mạn chấp đây là tôi, ngã kiến chấp đây là tự ngã của tôi), thời có dao động. Ai không tham luyến thời không dao động. Ai không dao động thời được khinh an. Ai được khinh an thời không thiên chấp (nati). Ai không thiên chấp thời không có đến và đi. Ai không có đến và đi thời không có diệt và sanh. Ai không có diệt và sanh thời không có đời này đời sau, không có giữa hai đời. Đây là sự đoạn tận khổ đau.” (phẩm Niết bàn-Tương Ưng Bộ Kinh). Ngã ái là luôn luôn chấp ngã và sinh tâm mê thích ta và cái của ta. Chỉ biết nghĩ đến mình và những gì thuộc về mình. Còn từ bi là ban vui, cứu khổ, một tình thương yêu không bờ bến, không phân biệt ta hay người.

Lòng từ bi không phải chỉ để ứng dụng đối với người khác mà còn bao gồm luôn cả chính bản thân mình nữa. Vì mình cũng là một chúng sinh! Nếu ai cũng thực hành hạnh Từ Bi với chính mình là không để cho những thị phi, đàm tiếu khiến làm cho mình bớt đau, bớt khổ, giúp cho mình giảm bớt bệnh tật, bớt tâm tham, sân, si. Không ai thương mình, bằng chính mình thương mình. Nếu tâm ta cứ tham muốn điều này đến điều khác thì rất dễ dẫn đến sân hận, bực bội và lo lắng. Đó có nghĩa là mình không biết từ bi với mình.

“Đứng về phương diện đối trị cái giận, Từ Quán và Bi Quán là những phương pháp rất thực tế mà rất mầu nhiệm. Kinh có nói tới bảy cái bất lợi của sự giận hờn, của người không chịu buông thả, không chịu chuyển hóa cơn giận của mình. Thứ nhất, người đó trông xấu xí…; điểm bất lợi thứ hai là ta nằm kẹt đau đớn trong cơn giận của ta. He lies in pain. Người giận nằm co quắp trong niềm đau của mình. Niềm đau này là do cái giận làm ra. Thứ ba là không có sự phát triển phong phú. Thân thể cũng như tâm hồn không phát triển và bừng nở được như một đóa hoa. Thứ tư là nghèo đi về tiền tài cũng như về hạnh phúc. Thứ năm là không được tiếng tốt. Thứ sáu là không có nhiều bạn. Và thứ bảy là người đó sẽ tái sanh trong cõi A Tu La, không có hạnh phúc. Đó là bảy điều bất lợi của những người ôm cái giận của mình mà không biết buông bỏ để chuyển hóa.” (Trái Tim Của Bụt - Sư Ông Nhất Hạnh).

Có một câu chuyện có thật xảy ra như sau: Một giáo sư và cũng là nhà nghiên cứu về đề tài hạnh phúc trải qua suốt 20 năm để tìm ra công thức mang đến hạnh phúc. Cuối cùng ông cũng tìm ra và đem tất cả những sở học của mình viết thành nhiều quyển sách nói về hạnh phúc. Chẳng bao lâu, ông trở nên nổi tiếng vì trên thế gian này, ai cũng muốn có hạnh phúc. Thế là ông được mời đi thỉnh giảng khắp nơi trên thế giới về hạnh phúc. Ông bận rộn suốt ngày đêm nào lo soạn bài, nào bay đi khắp nơi để diễn thuyết. Công việc của ông ta tưởng chừng như không bao giờ hết! Một hôm, sau khi diễn thuyết xong có một khán giả muốn biết xem ông đã diễn giảng cho mọi người về hạnh phúc, nhưng chính bản thân ông có cảm nhận được hạnh phúc hay không? Câu hỏi như tiếng sét đánh ngang tai vì suốt bao năm qua ông miệt mài tìm kiếm giải đáp cho câu hỏi hạnh phúc. Nhưng tự bản thân ông chưa bao giờ nghĩ đến là chính mình phải cảm nhận nó!

“Maitri Bhavana Pháp Quán Từ Bi là một trong những pháp thiền thâm nhập sâu sắc nhất… Nó là một nỗ lực đem cái tâm tự-nhiên của bạn trở lại với bạn; nó là một nỗ lực mang cái bản lai diện mục trở lại với bạn; nó là một cái nỗ lực mang bạn tới cái điểm mà bạn mới sinh ra và xã hội chưa khởi sự vo tròn bóp méo bạn, chưa biến đổi bạn thành kỳ quái (the society had not yet corrupted you). Khi một đứa trẻ được sinh ra nó ở trong trạng thái thiền quán Từ bi. Pháp thiền Từ bi chính là cảm-thức mênh mông của thân hữu, từ bi yêu thương, đại bi. Khi đứa trẻ được sinh ra nó không biết thù ghét, nó biết chỉ có từ bi yêu thương. Từ bi yêu thương là tự nó có; sân hận là cái nó sẽ học về sau. Tính tức-giận-cay-đắng-khi-có-đua-tranh (jealousy), tính chiếm-hữu (possessiveness), tính thèm-khát-được-như-người (envy), nó sẽ học về sau. Những cái này chính là những cái xã hội sẽ dạy những đứa trẻ: làm thế nào để tức-giận-cay-đắng-khi-có-đua-tranh, làm thế nào để lòng-chứa-đầy-thù-ghét, làm thế nào để lòng đầy sân hận hoặc bạo lực… Trẻ con đang tín nhiệm nơi con người, nhưng dần dần chúng sẽ có những kinh nghiệm bị lừa dối đưa chúng tới những khó khăn, những vấn đề – những kinh nghiệm trong đó chúng bị chống đối, bị đàn áp, những kinh nghiệm trong đó chúng trở nên kinh sợ. Dần dần chúng sẽ học tất cả các trò lừa đảo của thế giới. Đó là những gì xảy ra, nhiều hoặc ít, cho tất cả mọi người.” *

Lời Phật dạy cách đây 2.600 năm chứa đựng một sự thật căn bản về bản chất của chúng sinh. Đó là, con người là một loại sinh vật xã hội (social animal). Chúng ta không thể sống thiếu sự đoàn kết, thương yêu cho mình và cho người. Cho nên, ai thực hành hạnh từ bi sẽ được những lợi ích như sau: “Này các Tỷ-kheo, với từ tâm giải thoát được thực hành, được tu tập, được làm cho sung mãn, được làm như cỗ xe, được tác thành căn cứ địa, được tiếp tục an trú, được tích tập, được khéo khởi sự, thời chờ đợi là mười một lợi ích. Thế nào là mười một? 1. Ngủ được an lạc; 2- Thức dậy được an lạc; 3- Không thấy các ác mộng; 4- Ðược mọi người thương yêu, quý mến; 5- Ðược các hàng phi nhân thương yêu, quý mến; 6- Ðược chư thiên hộ trì; 7- Lửa hoặc chất độc hoặc các loại vũ khí… không thể làm hại được; 8- Tâm dễ dàng an tịnh; 9- Gương mặt sáng sủa; 10- Lúc lâm chung, tâm không mê muội (tâm sáng suốt); 11- Ðề mục niệm rải tâm từ có khả năng chứng đắc các bậc thiền sắc giới (trừ đệ ngũ thiền); nếu chưa trở thành bậc Thánh A-la-hán, thì sau khi chết, bậc thiền sắc giới sở đắc của mình cho quả tái sanh lên cõi trời sắc giới phạm thiên…” (Kinh Tăng Chi, Phẩm Từ - H.T. Minh Châu dịch).


 Có một câu chuyện về một vị Lạt ma, vốn là bạn và cũng là thầy dạy của đức Đạt lai Lạt ma đời thứ 14. Một hôm vị lạt-ma này xin yết kiến đức Đạt-lai Lạt-ma sau khi trốn khỏi nhà tù do chính quyền Trung quốc quản lý bên Tây tạng. Khi tiếp kiến, ngài rươm rướm nước mắt, ngỏ lời xin đức Đạt lai Lạt ma chủ trì cho lễ sám hối của ngài. Kinh ngạc, đức Đạt lai Lạt-ma hỏi ngài đã phạm tội gì! Ngài trả lời đã phạm tội mất từ bi khi bị những người lính Trung quốc hành hạ, đau đớn. Ngài đã có ý tưởng trả thù và muốn làm tổn thương những người hành hạ ngài. Như Đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 14 từng nói: “Nếu bạn muốn người khác được hạnh phúc, phải thực hành lòng từ bi. Nếu bạn muốn được hạnh phúc, phải thực hành lòng từ bi.” Khi mình đánh mất lòng từ bi với chính mình thì cũng như chúng ta đánh mất hạnh phúc của chính mình vậy!

 Khi quay nhìn lại tất cả những gì mình đã làm trong đời, từ việc tốt đến việc xấu. Chúng ta không chỉ hãnh diện với những việc mình đã làm đúng, mà cũng phải mở rộng lòng chấp nhận những điều sai sót, mình hối tiếc, đã lỡ gây ra. Chính vì còn chất người nên mình đã có lúc làm đúng, sai như vậy! Đương nhiên, mình sẽ cố gắng sửa đổi những sai phạm đã gây ra; nhưng không vì đó mà tự hành hạ mình. Mình phải học cách biết tha thứ và từ bi với chính mình vì, nếu không, mình đang không chấp nhận con người thật của mình, một con người có lúc đúng và có lúc sai, như tất cả mọi con người khác! Khi mình chối bỏ tâm từ bi với chính bản thân mình, thì thử hỏi, làm sao bạn có thể mở lòng từ bi với người khác?

Giáo sư Kristin Neff của Đại học Texas là người tiên phong xét nghiệm lòng từ bi với bản thân như một công cụ để thúc đẩy sự chữa lành về mặt tâm lý, hạnh phúc và những mối quan hệ tốt đẹp hơn. Bà so sánh lòng từ bi với bản thân (self-compassion) và lòng tự trọng (self-esteem). Trong khi lòng tự trọng cao dựa trên những giá trị về sự thành công cao, thì lòng từ bi với bản thân là một phẩm chất cá nhân, ở đó chúng ta đánh giá cao bản thân và đối xử tử tế với bản thân chỉ vì chúng ta là con người. Với thái độ quan tâm cho bản thân giúp chúng ta nhận ra điểm tương đồng và sự liên đới giữa chúng ta với những người khác, những người chia sẻ với chúng ta những khát vọng chung và những mầm mống của đau khổ.

Theo giáo sư Kristin Neff lòng từ bi với bản thân không làm chúng ta yếu đuối, mà đúng hơn là một phương thuốc có thể làm giảm lo lắng và làm tăng khả năng phục hồi sau thất bại. Nó không đòi hỏi chúng ta phủ nhận hoặc đè nén những kinh nghiệm tiêu cực của chúng ta. Bản chất của từ bi với bản thân là thừa nhận nỗi đau, cảm xúc của riêng chúng ta; và sau đó, an ủi mình bằng cách tạo ra những cảm xúc ấm áp, dịu dàng, và chăm sóc đến nỗi khổ, niềm đau của tự thân. **

Tóm lại, lòng từ bi với bản thân thường đem lại nhiều lợi ích. Khi mình biết đối xử tử tế với bản thân, chúng ta học cách mở rộng lòng mình với mọi kinh nghiệm, cảm xúc của chúng ta. Chúng ta cũng trở nên dể dàng từ bi với người khác hơn khi lòng yêu thương không có sự chiếm hữu hay vụ lợi, vì tình yêu thương chân thật đó sẽ giúp cho ta có một tâm hồn trong sáng để lắng nghe. Và một khi trái tim được rộng mở, thì toàn bộ cuộc sống sẽ trở nên tốt đẹp và hài hòa. Nhờ thế mà lòng từ bi, mong muốn cho tha nhân được hạnh phúc, sẽ được nhân đôi lên với niềm hạnh phúc của tự thân. Chính những điều đó là một năng lực từ trường có khả năng trị bệnh cho mình; đồng thời, cũng có thể giúp cho mọi người xích lại gần nhau hơn.

 
Tháng 4 – 2014
Thiện Ý



Nguồn
:

* Đặc san Hiện Thực (Úc), số 16/2009, năm thứ 5, trang 154-165. Bản Anh ngữ: Robert A.F. Thurman. “Asanga’s Teaching of Great Compassion.” Trích từ: Essential Tibetan Buddhism. [1996] - Đặng Hữu Phúc dịch.

**The Surprising Secret to Success – Be Kind to Yourself (Is Self-Compassion the Key to a Wiser, Happier Me?) Published on Feb. 8, 2012, Melanie Greenberg, Ph.D, in The Mindful Self-Express.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/05/2021(Xem: 4725)
Lời tựa Những lời Phật dạy phần lớn mang tính phương tiện. Nếu ta chấp chặt từng chữ, từng lời sẽ khó hiểu được hết ý nghĩa thâm sâu bên trong. Chúng ta - những người học Phật ngày nay - rất cần nhận biết đâu là phương tiện, đâu là chân lý trong những lời Phật dạy để không rơi vào cực đoan và thiên kiến. Ngoài ra, người học Phật cũng cần chú tâm vào thực hành để tự mình thực chứng, để tự tìm ra cách đi phù hợp cho riêng mình.
26/05/2021(Xem: 5035)
Phật Đà sau khi thành Chánh Đẳng Chánh Giác nơi cội Bồ Đề, trong thời gian hai mươi mốt ngày, chỉ riêng mình thọ dụng diệu lạc giải thoát, tự riêng cảm niệm lý pháp tịch tịnh vi diệu thậm thâm khó thấy, không phải cảnh giới của tìm cầu, chỉ có bậc trí mới chứng ngộ được; chúng sanh thì bị nhiễm trước thâm sâu ngã kiến, ái lạc phiền não nặng nề, mặc dù họ được nghe Phật Pháp, e rằng cũng không thể rõ thấu, chỉ uổng công vô ích, chi bằng im lặng tịnh trụ tốt hơn. Sau đó Đại Phạm Thiên Vương ân cần cầu thỉnh Phật thuyết pháp, Thế Tôn mới đến Lộc Dã Uyển ngoài thành Ba La Nại Tư, vì năm ông thị giả lúc trước bỏ Phật mà vào trong đây tu khổ hạnh gồm có: A Nhã Kiều Trần Như, Át Bệ, Bạt Đề, Thập Lực Ca Diếp, Ma Nam Câu Lợi, giảng pháp môn Tứ Đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Năm vị sau khi nghe pháp thấu hiểu ý nghĩa các lậu đều dứt, chứng thành bậc A La Hán, đây là Tam Bảo đầu tiên mới thiết lập trong thế gian: Đại Thánh Phật Đà là Phật Bảo, Pháp Luân Tứ Đế là Pháp Bảo, Năm A La Hán là Tăng Bảo.
24/05/2021(Xem: 4527)
Đại thừa lấy việc chăn trâu dụ cho việc điều tâm, luyện tâm. Cái tâm đó, nguyên lai thuần hậu, nhưng đã bị đánh lạc mất, để nó chạy rông, buông lung theo sở thích không biết gì đến những hiểm nguy rình rập, cho nên phải tìm lại, và chế ngự cho thuần tính. Cái tâm vọng động xấu xa lần hồi được gạn lọc khỏi các cấu nhiễm trần gian sẽ sáng dần lên và từ chỗ vô minh sẽ đạt tới cảnh giới vòng tròn viên giác. Đó là tượng trưng cho phép tu “tiệm”. Theo phép tu tiệm thì phải tốn rất nhiều công phu mới tiến đến được từng nấc thang giác ngộ. Nhờ công phu, cái vọng tâm lần hồi gạn lọc được trần cấu mà sáng lần lên, cũng như nhờ được chăn dắt mà con trâu hoang đàng lâu ngày trở nên thuần thục dần dần và lớp da đen dơ dáy trắng lần ra.
24/05/2021(Xem: 3750)
Cơn đại dịch quét qua địa cầu gây điêu đứng và làm xáo trộn cả đời sống của nhân loại. Nó tước đi những sinh mệnh, làm đảo lộn nếp sống của từng cá nhân, gia đình, xã hội, quốc gia và quốc tế. Nó không phân biệt, nể trọng hay nhường nhịn ai; không kỳ thị trí thức hay bình dân, giàu hay nghèo, già hay trẻ, nam hay nữ, khỏe mạnh hay yếu đuối. Nó ly cách từng cá nhân, chia lìa những gia đình, khoanh vùng từng xã hội; và như lưỡi hái khổng lồ của tử thần, nó phạt ngang, san bằng tất cả những gì nằm trên lối đi thần tốc của nó.
24/05/2021(Xem: 7574)
Ca khúc phổ nhạc “Đóa Hoa Dâng Đời... Của Ns Phật Giáo Hằng Vang từ bài thơ có tựa là “ Đóa Hoa Ngàn Đời... Của Huyền Lan đăng tuần báo Giác Ngộ đặc biệt Phật Đản số 110 ra ngày 09/05/1998. Sau đó vào năm 2003. Cư Sỹ Tống Hồ Cầm – Phó Tổng Biên Tập Báo Giác Ngộ - tức nhà thơ Tống Anh Nghị - Chủ Nhiệm CLB thơ ca Báo Giác Ngộ, hợp tuyển thơ báo Giác Ngộ nhiều tác giả có tên gọi “Sắc Hương Hoa Bút... Được tuyển chọn vào tập thơ nhiều tác giả nầy...
24/05/2021(Xem: 4749)
Ni sư Thích Nữ Giới Hương có lẽ là vị trụ trì viết nhiều nhất ở hải ngoại. Đó là theo chỗ tôi biết, trong cương vị một nhà báo nhiều thập niên có liên hệ tới nhà chùa và công việc xuất bản. Viết là một nỗ lực gian nan, vì phải đọc nhiều, suy nghĩ nhiều, phân tích nhiều, cân nhắc kỹ rồi mới đưa chữ lên mặt giấy được. Đặc biệt, Ni sư Giới Hương cũng là vị trụ trì viết bằng tiếng Anh nhiều nhất. Tôi vẫn thường thắc mắc, làm thế nào Ni sư có đủ thời giờ để gánh vác Phật sự được đa dạng như thế. Nghĩ như thế, vì tự thấy bản thân mình, nghiệm ra, không có đủ sức đọc và viết nhiều như Ni sư.
18/05/2021(Xem: 6191)
Phật sử ghi lại rằng, vào canh Ba đêm thành đạo, đức Phật đã tìm ra câu giải đáp làm sao thoát khỏi cảnh “Sinh, Già, Bệnh, Chết”, tức thoát khỏi vòng “luân hồi sinh tử”. Câu trả lời là phải đoạn diệt tất cả “lậu hoặc”. Lậu hoặc chính là những dính mắc phiền não, xấu xa, ác độc, tham, sân, si… khiến tâm con người bị ô nhiễm từ đời này sang đời khác, và đời này con người ta vẫn tiếp tục huân tập lậu hoặc, tạo thành nghiệp. “Lậu hoặc” hay “nghiệp” là nguyên tố nhận chìm con người trong luân hồi sanh tử, là nguyên nhân của khổ đau. Muốn chấm dứt khổ đau, chấm dứt luân hồi sanh tử thì phải đoạn diệt tất cả các lậu hoặc, không có con đường nào khác!
18/05/2021(Xem: 5337)
Năm 1959 một sự đe dọa của Tàu Cộng chống lại Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa đến sự phản kháng ở Lhasa. Hy vọng tránh được một cuộc tắm máu, ngài đã đi lưu vong và hơn 150,000 Tây Tạng đã đi theo ngài. Bất hạnh thay, hành động này đã không ngăn được sự tắm máu. Một số báo cáo nói rằng khoảng một triệu người Tây Tạng đã chết trong năm đó như một kết quả trực tiếp của việc Tàu Cộng xâm chiếm Tây Tạng.
16/05/2021(Xem: 12177)
Nhận xét rằng, Chúng ta đang đứng trước một khúc quanh gấp của lịch sử nhân loại. Đại dịch Covid-19 đã khép kín mỗi cá nhân trong một không gian chật hẹp, cách ly xã hội, cô lập cá nhân, cách ly cả những người thân yêu. Nó đã tạo ra những khủng hoảng tâm lý trầm trọng trong nhiều thành phần xã hội. Một số đông bị quẫn bức, không thể tự kềm chế, bỗng chốc trở thành con người bạo lực, gieo kinh hoàng cho xã hội. Một số khác, có lẽ là số ít, mà phần lớn trong đó là thanh thiếu niên, khởi đầu cũng chất đầy oán hận trong lòng, nhưng rồi trước ngưỡng sinh tử sự đại, tự mình phấn đấu tự kềm chế, cuối cùng đã khám phá chính mình, trong trình độ nào đó, với những giá trị nhân sinh chỉ có thể tìm thấy trong những cơn tư duy thầm lặng. Giá trị nhân sinh không thể tìm thấy bằng những cao trào kích động của tuổi trẻ. Thế hệ ấy sẽ làm thay đổi hướng đi của lịch sử Đông Tây qua hai nghìn năm kỷ nguyên văn minh Cơ-đốc, khi mà tín đồ có thể liên hệ trực tiếp với đấng Chí Tôn của mình qua mạng truyền
15/05/2021(Xem: 5368)
Phần này bàn về niên hiệu Long Thái và chúa Khánh ở Cao Bằng vào thời LM de Rhodes đến truyền đạo. Đây là lần đầu tiên các danh từ như vậy được dùng trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh (chữ quốc ngữ). Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là cuốn "Chúa Thao cổ truyện" và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]