Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chúc Mừng Người Mới Quy Y

18/03/201407:36(Xem: 8550)
Chúc Mừng Người Mới Quy Y
Phat tu thien tri olaf-1

Buối sáng đầu tháng ba ở Bắc Đức. Thường những ngày này trong những năm trước tuyết vẫn còn đổ, có khi còn ngập cả sân. Năm nay hơi lạ, trời đã ấm như vào xuân. Bầu trời đã bắt đầu tỏa sáng, tôi thức dậy từ lúc 5 giờ sáng và chuẩn bị cho một ngày đặc biệt: dự Lễ Quy Y của người bạn Đức, anh Olaf Beuchling.

Bước vào sân Chùa Bảo Quang, nhìn nước dưới dòng sông Bille trước Chùa thật yên lặng. Vài chiếc lá trôi lơ lững, đám vịt nước đang bơi lội nhởn nhơ qua lại quá an lạc. Hòa với cái lạnh gây gây buổi sáng, khung cảnh ấy, không khí ấy quá vô cùng thoát tục. Ô hay, phải đây là Kỳ Viên Tịnh Xá chăng? Tai tôi đã nghe rõ tiếng mõ và lời kinh tụng Lăng Nghiêm thời Công Phu Khuya từ trong Chánh Điện vọng ra.

Vội thay áo tràng và bước vào Chánh Điện, tôi thấy đã có gần 20 vị có mặt ở đây rồi. Hòa Thượng Như Điển ngồi ở chiếc bàn bên mặt, bàn bên trái đã thấy Sư Bà Diệu Tâm và vị đệ tử của Sư Bà là Sư Cô Tuệ Đàm Giác. Anh Olaf beuchling đang quỳ thành kính giữa chánh điện, những Phật Tử khác thì ngồi trang nghiêm hai bên. Đại chúng đang lắng nghe lời tuyên đọc Giới Đàn Tăng của HT Bổn Sư Thích Như Điển bằng tiếng Đức. Xin ghi một đoạn ngắn trong khoảng một giờ của nghi thức Lễ ấy.

Ihr guten Männer und Frauen!

Ihr habt so eben durch die Reuezeremonie Euren Körper und Geist gereinigt. Jetzt könnt ihr die Zuflucht zu den Drei Juwelen nehmen. Bevor Ihr Zuflucht nehmt, müsst Ihr wissen, was Zuflucht (viet: QUY Y) bedeutet. Zuflucht ist, vollständig gesprochen, die Zuflucht zu den Drei Juwelen. Das Wort QUY bedeutet zurückkehren. Das Wort Y bedeutet sich stützen auf, das heißt also zurückkehren und sich auf Buddha, Dharma und Sangha zu stützen.

Này các Thiện nam tử, Thiện nữ nhơn!

Vừa rồi quý vị đã sám hối, thân tâm được thanh tịnh rồi, bây giờ đây mới có thể quy y Tam Bảo được; Trước khi quy y, các vị cần phải biết rõ ý nghĩa quy y là gì? Quy y, nói cho đủ là quy y Tam Bảo. Chữ QUY là trở về; Y là nương tựa, là trở về nương tựa Phật, Pháp, Tăng. Chúng ta đã nhiều đời nhiều kiếp say mê lầm lạc, nay cần phải quay về với Chánh pháp, nương tựa Tam Bảo.

Anh Olaf quỳ chắp tay cung kính, lắng lòng đón nhận từng chữ, từng câu theo lời đọc trầm bổng của Thầy Giới Sư. Lúc này không khí trong Chánh Điện như chùng xuống, như đọng lại. Tôi nghe rõ cả hơi thở và nhịp đập của trái tim của mình. Chúng tôi, mười mấy con người ngồi yên lặng chí thành cung kính nghe bằng cả trái tim khối óc lời dạy của Hòa Thượng Giới Sư. Có lúc vị giới tử đứng lên, quỳ xuống, đảnh lễ …

Hòa Thượng Giới Sư giải thích cặn kẻ ý nghĩa của năm giới và sau đó dõng dạc hỏi từng giới một:

Erstes Gelübde - Von heute an bis zum Ende des Lebens, kein Lebewesen zu töten, ist das Gelübde eines Laienbuddhisten, könnt Ihr dieses einhalten?

Giới thứ nhứt. - Từ nay đến suốt đời không được giết hại chúng sanh, là giới của người Phật tử tại gia, giới tử có thể giữ được không? Rồi lần lượt đến giới thứ hai, ba, tư và năm.

Sau mỗi từng câu hỏi, anh Olaf đã thành tâm trả lời thật cương quyết: Ja, ich gelobe es einzuhalten - Dạ con xin hứa giữ giới này được!

Và cứ mỗi câu trả lời là một lần đãnh lễ ba ngôi Tam Bảo. Thật vô cùng cung kính, thành khẩn.

Hòa Thượng cũng khuyên anh, sau khi đã quy y Tam Bảo phải phát nguyện ăn chay ít nhất hai ngày mỗi tháng, anh trả lời rằng anh và gia đình đã ăn chay từ nhiều năm rồi.

Phat tu thien tri olaf-2

Lễ Quy Y Tam Bảo của anh Olaf là một buổi lễ đặc biệt, khác với những buổi Lễ tôi đã từng tham dự. Anh Tiến Sĩ Olaf Beuchling là một trí thức Phật Giáo Đức, xuất thân từ Cơ Đốc Giáo. Anh đã có nhiều công trình nghiên cứu về người Việt và Phật Giáo, hiện là giảng viên của Trung Tâm Nghiên Cứu Phật Giáo thuộc Viện Đại Học Hamburg. Anh đã tìm đến với Phật Giáo dễ chừng đã đến hơn 20 năm nay. Cũng giống như nhiều trí thức Phật Giáo Tây phương đang làm công tác nghiên cứu ở đại học, anh thường nghĩ là chỉ làm nghiên cứu mà không quy y theo một tông phái nào để luôn giữ thế vô tư, không thiên vị theo truyền thống Phật Giáo nào. Cá nhân tôi và anh Olaf đã quen biết nhau từ hơn hai mươi năm rồi, lúc anh còn là sinh viên của Viện Đại Học Hamburg và đang viết luận án Tiến sĩ về đề tài Thanh Thiếu Niên Việt Nam ở Đức. Vào những năm 1987, 1988 anh thường đến Chùa Bảo Quang cùng chúng tôi tham gia những Phật sự của Chùa. Nhiều lần anh cũng đi cùng chúng tôi về Chùa Viên Giác để tham dự các sinh hoạt Gia Đình Phật Tử trong các dịp Lễ lớn như Vu Lan, Phật Đản… Sau khi anh tốt nghiệp, anh đã đi giảng dạy tại nhiều Đại Học ở miền Đông nước Đức hay ở ngoại quốc, tôi cũng bận bịu chuyện áo cơm nên có một thời gian không liên lạc nhau. Năm 2011 anh quay về làm việc tại Viện Đại Học Hamburg nên chúng tôi lại có cơ hội gần gũi nhau hơn. Lại thường gặp nhau, trao đổi nhiều chuyện đời chuyện đạo, nhiều nhận định thú vị. Anh kể tôi nghe, trong gần hai mươi năm qua, anh đã tìm hiểu, nghiên cứu và giảng dạy về Phật Giáo trong nhiều Truyền Thống khác nhau, từ Nguyên Thủy, Thiền học đến Tây Tạng, đã tiếp xúc với rất nhiều bậc Thầy ở những Tông phái này. Ngay trong số những sinh viên của anh cũng có những vị tu sĩ rất giỏi và đầy phẩm hạnh, ví dụ như Thượng Tọa Thalpavila Kusalagnana Thero, người Tích Lan, lãnh đạo Hội Phật Giáo Vihara tại Bắc Đức, hay nhiều sinh viên là tu sĩ từ Bhutan, Đại Hàn, Trung Hoa v.v…

Phat tu thien tri olaf-3

Trước đây hơn một năm, anh và tôi cùng bắt tay sưu tầm nghiên cứu viết tác phẩm „Xuôi dòng Cửu Long Đậu Bến Elbe. Nếp Chùa Việt Trên Đất Khách“, tác phẩm nói về quá trình phát triển Phật Giáo Việt Nam tại Đức, tại Hamburg và rộng hơn là quá trình toàn cầu hóa Phật Giáo, song ngữ Đức-Việt. Tác phẩm đã được đưa vào thư mục tài liệu nghiên cứu của trường Đại Học Hamburg (nghe nói là anh Hồ Thành, giảng viên của Đại Học Friedrich-Schiller ở Jena cũng đưa vào phần tư liệu cho sinh viên nghiên cứu). Có thể qua đó anh Olaf có tìm thấy những an lạc trong quá trình tiếp xúc với Sư Bà, quý Sư Cô cũng như Phật Tử ở Chùa Bảo Quang. Anh cũng đã có nhiều lần tiếp xúc và tìm đọc những sách vở của Hòa Thượng Như Điển, nên đầu năm nay (năm Giáp Ngọ, 2014) anh ngỏ ý mong muốn được quy y với Hòa Thượng. Là người có nhiều quan hệ với tất cả những tổ chức Phật Giáo, anh cũng được các tông phái như Tây Tạng hay Theravada khuyến khích anh đến sinh hoạt với họ - có thể cũng thuận lợi hơn cho anh vì những tông phái này nói tiếng Đức, nhưng anh cứ đắn đo mãi. Anh cũng vừa đến thuyết trình với tư cách khách phát biểu danh dự tại Trung Tâm Tây Tạng vào mùng hai tết Giáp Ngọ, ngày 31.01.14. Trước đây, anh ta cũng từng là khách danh dự đọc bài thuyết trình khai mạc Lễ Hội Tam Hợp Vesakh của tất cả các Tông Phái tại Hamburg vào năm 2012, hoặc thuyết trình tại Lễ Hội Hoa Thế Giới International Gartenschau Hamburg 2013 v.v.. Sau những năm tháng trăn trở và tìm hiểu, hôm nay anh chính thức quyết định quy y Phật Pháp Tăng và cung kính nhận Hòa Thượng Như Điển làm Thầy. Và Hòa Thượng cũng đã hứa khả.

Trong đời tôi đã nhiều lần được dự những Lễ Quy Y, nhưng đây là lần đầu tiên vào buổi sáng sớm tinh sương sau thời Công Phu Khuya. Thầy đã từ bi chấp nhận lời thỉnh cầu của anh Olaf Beuchling và đã dừng bước trên đường đi Phật sự từ Đan Mạch ghé ngang qua Chùa Bảo Quang để thu nhận một đệ tử tại gia mới, cũng là mở ra một con đường mới, tạo một điều kiện cho giới nghiên cứu Phật Giáo ở Đức có cơ hội tiếp cận với Phật Giáo Việt Nam, tiếp cận trong quan hệ Thầy-Trò. Phải chăng, đây là lối mở, là giải đáp cho một vấn nạn, là chiếc cầu bắt ngang một hố cách ngăn cho một bên là môi trường nghiên cứu về Phật Giáo nói chung tại Đức và bên kia là thế đứng của Phật Giáo Việt Nam trong địa hạt nghiên cứu và quảng bá Phật Giáo Việt Nam ở Tây phương. Nói như Giáo Sư Michael Zimmermann, nhà nghiên cứu Phật Giáo và giáo dục có thẩm quyền ở Đức: […] Ngay cả đến thời gian gần đây các nhà nghiên cứu Phật học vẫn chưa ý thức được rằng, cộng đồng Phật Giáo Việt Nam là cộng đồng Phật Giáo Á châu lớn nhất tại nước Đức. Những tài liệu ấn phẩm về đề tài này vẫn còn quá hiếm hoi ... (Trích: Vom Mekong an die Elbe. Buddhistisches Klosterleben in der vietnamesischen Diaspora, tr.10)

Khác với những Phật Tử người Tây phương khác, đầu tiên họ tò mò tìm đến Phật Giáo và từ đó mới bắt đầu học hỏi giáo lý và tu tập. Anh Olaf Beucling là người đã hiểu biết nhiều về giáo lý Phật Đà, hiểu nhiều về lịch sử Phật Giáo. Sau hơn hai mươi năm mò mẫm dạo chơi trong vườn hoa Phật Giáo theo lối cởi ngựa xem hoa, hôm nay anh Olaf Beuchling, người bạn quý của tôi đã quy y Tam Bảo, đã tiếp nhận năm giới của Phật tử tại gia. Anh đã được Hòa Thượng Giới Sư đặt pháp danh là Thiện Trí.

Olaf ơi, Thiện Trí ơi! Phật Pháp mênh mông lắm! Bạn đã có học, có hiểu nhưng mà phải có tu tập thì may ra mới có thể nếm được mùi vị giải thoát. Tôi biết, thường ngày bạn là người thích và nấu bếp giỏi thì chuyện này bạn rành quá rồi, nếu chỉ nấu mà không ăn thì làm sao biết được món ăn ngon và bồi bổ, phải thế không, hởi người bạn quý của tôi? Thầy cũng mới vừa dạy đó, Quy là Trở Về, Y là Nương Tựa. Chúc mừng bạn đã trở về, chúc mừng bạn đã tìm được gốc Bồ Đề vững chắc để nương tựa.

Lành thay Phật ra đời

Lành thay Pháp được giảng…

(Pháp Cú)

Chúc mừng bạn Thiện Trí - Olaf Beuchling, một người bạn trong đời và bây giờ là bạn trong đạo.

Xin ghi ơn Tam Bảo, con lại vừa nhìn thấy bánh xe Pháp vẫn quay đều.

Đức Quốc, Lập Xuân Giáp Ngọ

Nguyên Đạo Văn Công Tuấn

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/05/2021(Xem: 4725)
Lời tựa Những lời Phật dạy phần lớn mang tính phương tiện. Nếu ta chấp chặt từng chữ, từng lời sẽ khó hiểu được hết ý nghĩa thâm sâu bên trong. Chúng ta - những người học Phật ngày nay - rất cần nhận biết đâu là phương tiện, đâu là chân lý trong những lời Phật dạy để không rơi vào cực đoan và thiên kiến. Ngoài ra, người học Phật cũng cần chú tâm vào thực hành để tự mình thực chứng, để tự tìm ra cách đi phù hợp cho riêng mình.
26/05/2021(Xem: 5034)
Phật Đà sau khi thành Chánh Đẳng Chánh Giác nơi cội Bồ Đề, trong thời gian hai mươi mốt ngày, chỉ riêng mình thọ dụng diệu lạc giải thoát, tự riêng cảm niệm lý pháp tịch tịnh vi diệu thậm thâm khó thấy, không phải cảnh giới của tìm cầu, chỉ có bậc trí mới chứng ngộ được; chúng sanh thì bị nhiễm trước thâm sâu ngã kiến, ái lạc phiền não nặng nề, mặc dù họ được nghe Phật Pháp, e rằng cũng không thể rõ thấu, chỉ uổng công vô ích, chi bằng im lặng tịnh trụ tốt hơn. Sau đó Đại Phạm Thiên Vương ân cần cầu thỉnh Phật thuyết pháp, Thế Tôn mới đến Lộc Dã Uyển ngoài thành Ba La Nại Tư, vì năm ông thị giả lúc trước bỏ Phật mà vào trong đây tu khổ hạnh gồm có: A Nhã Kiều Trần Như, Át Bệ, Bạt Đề, Thập Lực Ca Diếp, Ma Nam Câu Lợi, giảng pháp môn Tứ Đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Năm vị sau khi nghe pháp thấu hiểu ý nghĩa các lậu đều dứt, chứng thành bậc A La Hán, đây là Tam Bảo đầu tiên mới thiết lập trong thế gian: Đại Thánh Phật Đà là Phật Bảo, Pháp Luân Tứ Đế là Pháp Bảo, Năm A La Hán là Tăng Bảo.
24/05/2021(Xem: 4525)
Đại thừa lấy việc chăn trâu dụ cho việc điều tâm, luyện tâm. Cái tâm đó, nguyên lai thuần hậu, nhưng đã bị đánh lạc mất, để nó chạy rông, buông lung theo sở thích không biết gì đến những hiểm nguy rình rập, cho nên phải tìm lại, và chế ngự cho thuần tính. Cái tâm vọng động xấu xa lần hồi được gạn lọc khỏi các cấu nhiễm trần gian sẽ sáng dần lên và từ chỗ vô minh sẽ đạt tới cảnh giới vòng tròn viên giác. Đó là tượng trưng cho phép tu “tiệm”. Theo phép tu tiệm thì phải tốn rất nhiều công phu mới tiến đến được từng nấc thang giác ngộ. Nhờ công phu, cái vọng tâm lần hồi gạn lọc được trần cấu mà sáng lần lên, cũng như nhờ được chăn dắt mà con trâu hoang đàng lâu ngày trở nên thuần thục dần dần và lớp da đen dơ dáy trắng lần ra.
24/05/2021(Xem: 3749)
Cơn đại dịch quét qua địa cầu gây điêu đứng và làm xáo trộn cả đời sống của nhân loại. Nó tước đi những sinh mệnh, làm đảo lộn nếp sống của từng cá nhân, gia đình, xã hội, quốc gia và quốc tế. Nó không phân biệt, nể trọng hay nhường nhịn ai; không kỳ thị trí thức hay bình dân, giàu hay nghèo, già hay trẻ, nam hay nữ, khỏe mạnh hay yếu đuối. Nó ly cách từng cá nhân, chia lìa những gia đình, khoanh vùng từng xã hội; và như lưỡi hái khổng lồ của tử thần, nó phạt ngang, san bằng tất cả những gì nằm trên lối đi thần tốc của nó.
24/05/2021(Xem: 7568)
Ca khúc phổ nhạc “Đóa Hoa Dâng Đời... Của Ns Phật Giáo Hằng Vang từ bài thơ có tựa là “ Đóa Hoa Ngàn Đời... Của Huyền Lan đăng tuần báo Giác Ngộ đặc biệt Phật Đản số 110 ra ngày 09/05/1998. Sau đó vào năm 2003. Cư Sỹ Tống Hồ Cầm – Phó Tổng Biên Tập Báo Giác Ngộ - tức nhà thơ Tống Anh Nghị - Chủ Nhiệm CLB thơ ca Báo Giác Ngộ, hợp tuyển thơ báo Giác Ngộ nhiều tác giả có tên gọi “Sắc Hương Hoa Bút... Được tuyển chọn vào tập thơ nhiều tác giả nầy...
24/05/2021(Xem: 4749)
Ni sư Thích Nữ Giới Hương có lẽ là vị trụ trì viết nhiều nhất ở hải ngoại. Đó là theo chỗ tôi biết, trong cương vị một nhà báo nhiều thập niên có liên hệ tới nhà chùa và công việc xuất bản. Viết là một nỗ lực gian nan, vì phải đọc nhiều, suy nghĩ nhiều, phân tích nhiều, cân nhắc kỹ rồi mới đưa chữ lên mặt giấy được. Đặc biệt, Ni sư Giới Hương cũng là vị trụ trì viết bằng tiếng Anh nhiều nhất. Tôi vẫn thường thắc mắc, làm thế nào Ni sư có đủ thời giờ để gánh vác Phật sự được đa dạng như thế. Nghĩ như thế, vì tự thấy bản thân mình, nghiệm ra, không có đủ sức đọc và viết nhiều như Ni sư.
18/05/2021(Xem: 6190)
Phật sử ghi lại rằng, vào canh Ba đêm thành đạo, đức Phật đã tìm ra câu giải đáp làm sao thoát khỏi cảnh “Sinh, Già, Bệnh, Chết”, tức thoát khỏi vòng “luân hồi sinh tử”. Câu trả lời là phải đoạn diệt tất cả “lậu hoặc”. Lậu hoặc chính là những dính mắc phiền não, xấu xa, ác độc, tham, sân, si… khiến tâm con người bị ô nhiễm từ đời này sang đời khác, và đời này con người ta vẫn tiếp tục huân tập lậu hoặc, tạo thành nghiệp. “Lậu hoặc” hay “nghiệp” là nguyên tố nhận chìm con người trong luân hồi sanh tử, là nguyên nhân của khổ đau. Muốn chấm dứt khổ đau, chấm dứt luân hồi sanh tử thì phải đoạn diệt tất cả các lậu hoặc, không có con đường nào khác!
18/05/2021(Xem: 5334)
Năm 1959 một sự đe dọa của Tàu Cộng chống lại Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa đến sự phản kháng ở Lhasa. Hy vọng tránh được một cuộc tắm máu, ngài đã đi lưu vong và hơn 150,000 Tây Tạng đã đi theo ngài. Bất hạnh thay, hành động này đã không ngăn được sự tắm máu. Một số báo cáo nói rằng khoảng một triệu người Tây Tạng đã chết trong năm đó như một kết quả trực tiếp của việc Tàu Cộng xâm chiếm Tây Tạng.
16/05/2021(Xem: 12176)
Nhận xét rằng, Chúng ta đang đứng trước một khúc quanh gấp của lịch sử nhân loại. Đại dịch Covid-19 đã khép kín mỗi cá nhân trong một không gian chật hẹp, cách ly xã hội, cô lập cá nhân, cách ly cả những người thân yêu. Nó đã tạo ra những khủng hoảng tâm lý trầm trọng trong nhiều thành phần xã hội. Một số đông bị quẫn bức, không thể tự kềm chế, bỗng chốc trở thành con người bạo lực, gieo kinh hoàng cho xã hội. Một số khác, có lẽ là số ít, mà phần lớn trong đó là thanh thiếu niên, khởi đầu cũng chất đầy oán hận trong lòng, nhưng rồi trước ngưỡng sinh tử sự đại, tự mình phấn đấu tự kềm chế, cuối cùng đã khám phá chính mình, trong trình độ nào đó, với những giá trị nhân sinh chỉ có thể tìm thấy trong những cơn tư duy thầm lặng. Giá trị nhân sinh không thể tìm thấy bằng những cao trào kích động của tuổi trẻ. Thế hệ ấy sẽ làm thay đổi hướng đi của lịch sử Đông Tây qua hai nghìn năm kỷ nguyên văn minh Cơ-đốc, khi mà tín đồ có thể liên hệ trực tiếp với đấng Chí Tôn của mình qua mạng truyền
15/05/2021(Xem: 5368)
Phần này bàn về niên hiệu Long Thái và chúa Khánh ở Cao Bằng vào thời LM de Rhodes đến truyền đạo. Đây là lần đầu tiên các danh từ như vậy được dùng trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh (chữ quốc ngữ). Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là cuốn "Chúa Thao cổ truyện" và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]