Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Giáo Sư Berzin trả lời phỏng vấn

16/03/201407:40(Xem: 8004)
Giáo Sư Berzin trả lời phỏng vấn

Berzin
GIÁO SƯ ALEX BERZIN 


TRẢ LỜI NHỮNG CÂU HỎI CỦA TUỆ UYỂN

1.- HỎI: Thưa giáo sư, tại sao giáo Sư quyết định nghiên cứu Đạo Phật?

ĐÁP: Tôi luôn luôn thích thú với Đạo Phật từ lúc rất trẻ, đặc biệt đối với truyền thống Tây Tạng. Khi tôi học hỏi nhiều hơn về điều này, tôi thấy rằng Đạo Phật đã cho tôi những trả lời tuyệt vời nhất đến những vấn đề mà tôi có về việc những cảm xúc và tâm thức hoạt động như thế nào. Giáo huấn nhà Phật đã thể hiện trọn vẹn ý nghĩa đối với tôi.

2.- HỎI: Giáo Sư quyết định nghiên cứu Đạo Phật vào lúc nào?

ĐÁP: Mặc dù tôi đã đọc sách vở về Đạo Phật từ năm tôi vừa 14 tuổi, nhưng tôi đã quyết định học hỏi chính thức tại Đại Học vào năm 1962, khi tôi vừa 17 tuổi.

3-HỎI: Khi nào Giáo Sư quyết định trở thành một hành giả Phật Giáo?

ĐÁP: Vào năm 1969, khi tôi ở Ấn Độ nghiên cứu với cộng đồng Tây Tạng ở đấy.

4.-HỎI: Tại sao Giáo Sư quyết định trở thành một hành giả Phật Giáo?

ĐÁP: Trong khi học hỏi Đạo Phật và những ngôn ngữ Á châu (Phạn, Tạng, Hoa, và Nhật ngữ) tại Đại Học Harvard, tôi đã cố gắng hình dung sự thực hành của Đạo Phật giống như thế nào. Nhưng tôi không có lối vào của một truyền thống Phật Giáo sống động. Khi tôi gặp Đức Đạt Lai Lạt Ma lần đầu tiên vào năm 1969, tôi đã thấy rằng Đạo Phật là một truyền thống năng động và có thể nghiên cứu học hỏi để đưa vào thực hành từ những đạo sư Tây Tạng ở Ấn Độ.

5.- HỎI: Có những thay đổi nào trong tâm tư của Giáo Sư từ một năm đến năm năm, mười năm, hai mươi năm, và ba mươi năm trong khi Giáo Sư ở Ấn Độ nghiên cứu học hỏi và thực hành Phật Pháp?

ĐÁP: Trãi qua những năm tháng, tâm thức tôi dần dần ngày càng trở nên tĩnh lặng hơn và trong sáng hơn, và những cảm xúc phiền não giảm thiểu sức mạnh của chúng. Những phẩm chất tích cực của tôi đã phát triển hơn và tôi đã học hỏi làm thế nào để liên hệ với mọi người trong một cung cách lợi lạc nhiều hơn.

6.- HỎI: Điều gì ấn tượng nhất và thay đổi trong tâm thức của Giáo Sư trong khi thực hành Phật Pháp cũng như hiện nay?

ĐÁP: Tôi nghĩ tôi đã trở nên ít vị kỷ hơn, rộng lượng hơn và đã đạt được sự quân bình. Tôi khách quan hơn với những cư xử của tôi trong đời sống hằng ngày.

7.- HỎI: Giáo Sư nghĩ về cõi Cực Lạc của Đức Phật Di Đà?

ĐÁP: Trong truyền thống Tây Tạng, không có một tông phái Tịnh Độ riêng biệt, nhưng đúng hơn trong giáo lý cho việc di chuyển thần thức (powa) đến cõi Cực Lạc được thấy trong tất cả bốn truyền thống của Đạo Phật Tây Tạng. Tôi hết sức tôn trọng những giáo huấn này.

8.- HỎI: Giáo Sư có phát nguyện vãng sinh Cực Lạc không?

ĐÁP: Theo truyền thống Tây Tạng, có hai phong cách đối với việc hành hoạt của một vị Bồ Tát để đạt đến giác ngộ và hổ trợ tất cả những người khác. Một là tái sinh liên tục trong thế giới này và cố gắng để giúp người khác trong việc độ sinh một cách tối đa trong sự tiến triển dần dần trên con đường giác ngộ. Một phong cách khác là phát nguyện sinh về Cực Lạc nhằm để đạt đến giác ngộ một cách nhanh chóng hơn, vì vậy có thể có lợi thế để hổ trợ người khác tốt đẹp hơn. Cá nhân tôi liên hệ với phong cách thứ nhất. Mặc dù tôi không thể giúp đở người khác một cách hoàn toàn bây giờ, nhưng tôi nguyện không rời khỏi thế giới này để đến Cực Lạc ngay cả trong một thời gian ngắn, trong khi những chúng sinh khác đang đau khổ quá nhiều.

9.- HỎI: Giáo Sư nghĩ gì về những người phát nguyện vãng sinh Cực Lạc?

ĐÁP: Nếu động cơ của họ là thuần khiết – nếu người ta nguyện sinh ở về Cực Lạc vì thế có thể đạt đến giác ngộ ở đấy một cách nhanh chóng và có thể trở lại ngay lập tức để giúp đở người khác – thế thì tôi ngưỡng mộ họ rất nhiều. Nếu người ta phát nguyện vãng sinh Cực Lạc với động cơ duy nhất là mong ước trốn thoát khỏi sự khổ đau của riêng họ và đi tới một cõi An Nhàn, và họ không có tư tưởng về việc giúp đở người khác, thế thì tôi nghĩ họ cần hành động nhiều hơn trong việc phát triển lòng từ bi. Từ bi là một phẩm chất quan trọng nhất để phát triển.

10.- HỎI: Tôi đã đọc và dịch BÀI PHÁT NGUYỆN VÃNG SINH CỰC LẠC[1] của Tổ sư Tông Khách Ba (từ quyển Cuộc đời và giáo huấn của Tông Khách Ba). Xin Giáo sư nói về duyên khởi của bài này và điều gì Giáo sư biết về Tông Khách Ba và Tịnh Độ.

ĐÁP: Giáo lý di chuyển thần thức (Powa[2]) có trong vài mật điển tantra, nhưng được đặt chính yếu trong Sáu Yoga của Naropa. Những bài viết chính của Tông Khách Ba về Tịnh Độ là trong phạm vi của những giáo lý di chuyển thần thức. Liên hệ đến điều này, ngài đã viết luận giải về Sáu Yoga của Naropa, cũng như một vài bài viết ngắn hơn về đề tài này.

Đức Văn Thù đã soạn thảo và hướng dẫn Tông Khách Ba "Phát Nguyện Vãng Sinh Cực Lạc" và "Ca Tụng Đức Di Lặc". Tông Khách Ba đã viết thành văn những bài này chẳng bao lâu khi ngài khôi phục đại tượng Văn Thù, là điều được xem như công việc to lớn đầu tiên của ngài. Việc thực hành đạo sư du già (guru-yoga) của Tông Khách Ba hoàn tất với việc trì tụng mật ngôn "Một trăm vị Bổn tôn của Đâu Suất" và quán tưởng Tông Khách Ba và hai đệ tử chính của ngài phát xuất từ trái tim của Di Lặc ở Tịnh Độ Đâu Suất. Điều này cho thấy rằng Tông Khách Ba bây giờ không tách rời với Đức Di Lặc ở Tịnh Độ Đâu Suất.

11.- HỎI: Đối với Phật Giáo Viễn Đông, cõi Tịnh Độ của Phật Di Đà được biết như ở ngoài vòng sinh tử luân hồi, trong khi Đâu Suất được xem như là một cõi trời trong tam giới, và người duy nhất mà tôi biết đã phát nguyện tái sinh về cõi Đâu Suất để học thêm Duy Thức với Bồ tát Di Lặc là Đại Pháp sư Huyền Trang của Trung Hoa (thế kỷ thứ 7 sau Công nguyên). Nếu một người nào đấy có thể đi đến Shambhala và lấy một loại hoa quả nào đấy[3] (trong Hành Trình về Phương Đông, có những người có thể làm cho hoa quả trái mùa xuất hiện ngay trên tay họ), thế thì cũng có những người có thể đến cõi Tịnh Độ của Phật Di Đà[4] và trở lại ngay, dĩ nhiên bằng năng lực thần thông siêu nhiên của những vị chứng đạo, và trong truyền thống của Tịnh Độ ở Trung Hoa, Nhật Bản, Việt Nam cũng có những câu chuyện như thế. Giáo sự tin tưởng như thế nào trong câu này: "BERZIN: Serkong Rinpoche đã nói với tôi rằng cha của ngài là Serkong Dorjechang đã từng đi đến Shambhala và đã đem về bông hoa và trái cây, mà họ đã để trong nhà của họ.[5]"

ĐÁP: Theo Phật Giáo Tây Tạng, Tịnh Độ không phải là một bộ phận của cõi luân hồi, mà ở ngoài nó. Vì thế cõi Tịnh Độ Đâu Suất nơi Bồ tát Di Lặc cư ngụ không phải là cõi trời Đâu Suất nơi chư thiên ở. Và vâng, tôi nghĩ có thể có những người có thể đến đấy và trở lại với những giáo huấn và hoa trái, v.v..., nhưng thật vô cùng hiếm hoi.

12.- HỎI: Tôi đã tham dự lễ truyền pháp Di Đà của Đức Đạt Lai Lạt Ma ở San Jose năm ngoái. Vậy thì nếu bốn truyền thống Tây Tạng cũng có phương pháp di chuyển thần thức Powa các vị thầy thật sự nhắn nhủ về điều gì khi truyền dạy phương pháp này?

ĐÁP: Mỗi vị thầy giảng dạy một cách tự nhiên về phương pháp cá nhân của họ. Trong luận giải về sáu Yoga của Naropa, Tông Khách Ba nhấn mạnh rằng để phương pháp Powa được thành công , hành giả cần phải được thọ lĩnh một lễ quán đỉnh mật tông tantra thích đáng và tuân thủ tất cả các quy luật và thệ nguyện một cách trong sạch. Ngài trích dẫn trong Mật điển Kim Cương Thủy Bồ tát và luận giải Tri Thức trong sự thực hành Mật ngôn và Mật thừa trong Chaturipita Tantra rằng hành giả cũng cần phải rèn luyện hơi thở tịnh bình và nội hỏa tam muội. Họ cũng cần hoàn tất những sự thực hành tầng bậc phổ thông của Tantra Yoga Tối Thượng, chẳng hạn như quán tưởng chính họ trong hình sắc của bổn tôn, trấn bảy huyệt với quán tưởng tự mẫu, v.v... 
Những vị thầy của tôi khi dạy luận giải của Tông Khách Ba về Sáu Yoga Naropa, đã giải thích rằng di chuyển thần thức Powa đến Tịnh độ là một trợ pháp mà hành giả thực hiện chỉ trong trường hợp họ không có nhiều tiến triển với những sự thực hành mật tông tantra chính yếu trong một kiếp sống. Tôi không biết những vị thầy khác giải thích về những thực tập này.

Tôi chưa bao giờ tiếp nhận bất cứ sự giảng dạy nào về Tịnh Độ Tông Việt Nam. Nhưng sự hiểu biết của tôi là những truyền thống Tịnh Độ của Viễn Đông căn cứ trên kinh Trang Nghiêm Tịnh Độ và thuần là sự thực hành theo kinh thừa [Đại thừa hiển giáo]. Trong những truyền thống Tây Tạng, giáo huấn Tịnh Độ chỉ trong phạm vi của sự thực hành Tantra yoga Tối thượng[6].

13.- HỎI: Giáo sư nói trong "Nghiệp Báo và thảm họa thiên nhiên[7]" rằng: "Chỉ nếu những người này biết Đức Phật Di Đà khi Ngài là một vị Bồ tát và nguyện được sinh một cách đặc biệt trong cõi Tịnh Độ của Ngài sau khi Ngài trở thành Phật thì lời cẩu nguyện của họ mới có thể đơm hoa kết quả chín muồi trong cõi Tịnh Độ Di Đà như kết quả bao hàm toàn diện của họ." Vậy thì, giáo sư có nghĩ rằng những vị thầy truyền dạy phương pháp di chuyển thần thức Powa và những hành giả của phương pháp này có biết Đức Phật Di Đà "khi Ngài là một vị Bồ tát" không?

ĐÁP: Câu này chỉ ra loại cầu nguyện của hành giả hoạt động như một nguyên nhân cho sự hiện hữu của cõi Tịnh Độ Di Đà. Họ phải thực hiện trước khi Đức Phật Di Đà đạt đến giác ngộ và trước khi Ngài hóa hiện cõi Tịnh Độ của Ngài. Câu này không phải nói về loại cầu nguyện hoạt động như một nguyên nhân để được sinh ra trong cõi Tịnh Độ Di Đà. Những cầu nguyện như vậy có thể được thực hiện trước hay sau khi Đức Phật Di Đà đạt đến giác ngộ. Do thế, không phải là trường hợp mà tất cả các vị thầy và hành giả thực tập Powa đã có bất cứ sự nối kết nào với Đức Phật Di Đà khi Ngài còn là một vị Bồ tát. Một số có và một số thì không.

14.- HỎI: Trong "Bạn có tin tưởng tái sinh không?[8]" giáo sư nói rằng: "Quý vị cũng cần thăng tiến đến một tầng bậc nào đấy trong con đường mật thừa tantra và có một quyết tâm thật mạnh mẽ để tái sinh trong một hình thể vì thế quý vị có thể hổ trợ mọi người." Từ kinh nghiệm của giáo sư gần ba mươi năm nghiên cứu và thực hành tantra ở Dharamsala [từ năm 1969] cho đến bây giờ thì việc đạt đến tầng bậc ấy khó dễ như thế nào? Giáo sư đã đạt đến tầng bậc ấy hay chưa?

ĐÁP: Như những gì tôi biết, có khoảng một nghìn dòng lạt ma hóa thân đã được xác định. Dĩ nhiên, những sự xác chứng này có thể không đúng hẳn, và có thể có một số lạt ma hóa thân chưa được tìm thấy và xác định. Tôi nghĩ thật là khó khăn để đạt đến tầng bậc ấy là điều có thể bắt đầu một dòng lạt ma hóa thân. Tôi không có ý kiến gì về việc tôi đã đạt được trình độ ấy hay chưa trong sự thực hành của chính tôi, mặc dù tôi dâng hiến những lời nguyện cầu và thực tập cần mẫn để đạt được trình độ ấy.

15.- HỎI: Trong trường hợp của những vị lạt ma cao cấp (các vị đã được xác chứng hóa thân), khi các ngài viên tịch và tái sinh, rồi thì có những người sẽ đi tìm họ, chăm sóc cho họ, và dạy dỗ cho họ cho đến khi họ trở thành những vị thầy thật sự. Giáo sư nghĩ gì về trường hợp riêng của giáo sư, và những hành giả thông thường khác?

ĐÁP: Tôi không có ý kiến về việc có ai đấy sẽ đi tìm tôi hay không. Nhưng tôi đã nói với vị thầy tái sinh của tôi hiện nay 27 tuổi, Serkong Rinpoche [9], rằng nếu có một thiếu niên nam hay nữ đi đến trước cửa của ngài với một sự thích thú vô cùng trong trang website của tôi và học hỏi với ngài, thì ngài hãy vui lòng chú ý đến thiếu niên ấy. Ngài đã đồng ý.

16.- HỎI: Tôi sẽ chuyển ngữ bài "Tránh Tộn Lẫn Tự Ngã (ego) với Sự Thực Hành Phật Pháp". Xin Giáo Sư hãy thích rõ hơn ý nghĩa của 'ego' trong bài này. Nó liên hệ đến vị kỷ hay cá tính, hay gì khác?

ĐÁP: Ego liên hệ đến một ý nghĩa của một 'cái tôi' thổi phồng, với nó chúng ta nghĩ về chính chúng ta như một biểu hiện cụ thể, có thể tìm thấy và cứng nhắc, mà nó quan trọng hơn những người khác và phải luôn luôn có cung cách riêng của nó. Suy nghĩ và tin tưởng trong cách này làm nên tự ngã và vị kỷ.

17.- HỎI: Trong "Tránh trộn lẫn tự ngã với sự thực hành Phật Pháp" giáo sư nói rằng: "Tuy nhiên, cho đến khi chúng ta giải thoát như những vị a la hán, chúng ta vẫn chấp trước vào sự hiện hữu thật sự có thể tìm thấy của một "cái tôi"." Vậy thì a la hán là sự giải thoát toàn hảo của một "cái tôi". Một số người chọn lựa trình độ này cho mục tiêu của họ, họ không cần biết đến tầng bậc giác ngộ, vì họ nghĩ rằng như thế đã đầy đủ cho chính họ. Tuy nhiên tôi thấy rằng một số người mà mục tiêu của họ là đạt đến giác ngộ của Phật Quả, nhưng lại chống đối [kịch liệt] tầng bậc giải thoát dường như rằng trình độ giải thoát là điều gì đấy hoàn toàn tách biệt với Phật Quả. Tôi biết rằng trong con đường tiệm tiến Lamrim[10], giải thoát là bước nền tảng trước khi đi đến tầng bậc giác ngộ. Giáo sư có ý kiến gì về điều này?

ĐÁP: Giải thoát là một tầng bậc trên con đường giác ngộ. Với giải thoát chúng ta tự tại với nghiệp báo, vô minh (bất giác về thực tại) và những cảm xúc phiền não cùng những xu hướng của chúng, nhưng chúng ta vẫn còn có thói quen quán tính của chấp trước vào sự hiện hữu thiết lập chân thật (pháp chấp). Đây là những chướng ngại ngăn trở toàn tri toàn giác. Như một vị Phật giác ngộ chúng ta tự tại với những thứ này. Một vị Bồ tát đạt được giải thoát như một vị a la hán bồ tát trên con đường trở thành một vị Phật. Nhưng ngài không dừng ở đấy; ngài sẽ hoạt động xa hơn để đạt đến giác ngộ. Một vị Thinh Văn La Hán hay một vị Độc Giác Phật không mong ước để tiến xa hơn. Tuy thế, họ có thể phát bồ đề tâm như một vị a la hán và họ sẽ hành động hơn nữa để tiến tới giác ngộ.

18.- HỎI: Tôi đã chuyển ngữ "Đạo đức tình dục Phật Giáo[11]," "Đạo đức tình dục Phật Giáo: Chuyện ấy ngoài hôn nhân[12]" , và phân nửa bài "Đạo đức tình dục Phật Giáo: Tiến độ lịch sử," và tôi nghĩ những ý tưởng này không khác biệt nhiều với đạo đức tình dục truyền thống ở Viễn Đông, và đây là nền tảng cho đạo đức tình dục của Tây Tạng là kết quả của "So sánh với nhiều nơi ở Ấn Độ, Dharamsala khá sạch sẽ. Cũng một cách đáng chú ý, không có dấu hiệu của mãi dâm, cho dù che dấu thế nào đi nữa"[13]. Giáo sư nghĩ gì về điều này? Có phải đây là điều tuyệt nhất của một xã hội không? Có bất cứ một quốc gia phát triển hay đang phát triển cần phải như thế, hay muốn như thế không? Giáo sư so sánh thế nào giữa đạo đức tình dục Phật Giáo (trong phạm vi những bài viết này) và đạo đức tình dục phổ thông ở phương Tây ra sao?
Như giáo sư nói, và tôi cũng nghĩ, những gì các bậc thầy lớn đã nói về đúng hay sai không phải về tội lỗi mà về nghiệp báo, nghiệp thiện hay nghiệp ác, giải thoát hay vướng mắc. Tuy thế, ngày nay, giáo sư có thể nói rằng những người đồng tính luyến ái không thể thực hành mật tông tantra hay ngay cả không thể là Phật tử hay không? Hay phải lãng tránh họ? Hay phải có một hoạt động Phật Pháp đặc biệt cho họ?

ĐÁP: Dharamsala không phải là một vườn địa đàng. Có nhiều loại người khác nhau sống ở đấy - Tây Tạng, Ấn Độ, Nepal và nhiều người ngoại quốc du lịch. Một cách tổng quát, hầu hết mọi người ở đây giữ gìn đạo đức khá tốt, nhưng dĩ nhiên không phải mọi người đều toàn hảo. Tôi nghĩ sự kiện là Đức Đạt Lai Lạt Ma và nhiều vị đại lạt ma sống ở đấy có một ảnh hưởng trong không khí chung của khu vực. Đối với những người đồng tính luyến ái không có trở ngại cho việc trở thành một Phật tử hay trong việc thực hành mật tông tantra. Hiếm có ai mà đạo đức hoàn toàn thanh tịnh 100%, và hầu hết mọi người đều phạm phải một vài loại thái độ tiêu cực nào đấy làm nguyên nhân cho khổ đau. Những người đồng tính luyến ái có thể có khó khăn trong việc thực hành những tầng bậc phát triển nhất của tantra, nhưng điều đó không có nghĩa họ không thể thực hành. Tuy nhiên, hầu như không có ai đạt đến tầng bậc ấy, nên không có rắc rối gì.

19.- HỎI: Có gì khác biệt giữa "tâm - mind" và "tim - heart" như trong "Đánh thức tâm, Thắp sáng tim."[14]?

ĐÁP: Trong Anh ngữ và nhiều ngôn ngữ khác, chúng ta phân biệt tâm như phần suy nghĩ có lý trí và tim như phần xúc động của tình cảm. Trong Phạn ngữ citta bao gồm cả tâm và tim.

20.- HỎI: Tôi đã chuyển ngữ phân nửa bài "Khái niệm của Đạo Phật về Phước đức: có phải hạnh phúc cần phải kiếm được?" Tôi không chắc là tôi hiểu trọn ý kiến của giáo sư không vì giáo sư nói "merit" là một chữ hoàn toàn sai nhưng giáo sư không cho một từ ngữ mới thay vì thế là một chữ Đức ngữ "verdienst". Nên tôi muốn kể câu chuyện của Bồ Đề Đạt Ma và Lương Võ Đế để xem nó có liên hệ hay không đến đề tài này:

Bồ Đề Đạt Ma gặp Lương Võ Đế lần đầu tiên khi ngài đến Trung Hoa từ Ấn Độ. Khi ngài ở trước mặt Lương Võ Đế, nhà vua hỏi ngài:

- Từ ngày lên ngôi tôi đã cất chùa, độ tăng thọ giới không biết bao nhiêu mà kể. Như vậy công đức có nhiều chăng?

- Tổ đáp: Không có công đức gì cả! Công đức là từ nơi pháp thân, không phải từ nơi việc làm. Từ nơi việc làm là phước đức chứ không phải công đức.

Phước đức là để hưởng quả báu tốt đẹp nhưng giới hạn ở cõi nhân thiên. Công đức là cho việc giải thoát giác ngộ và vô giới hạn.

ĐÁP: Trong đoạn thứ tư của bài, câu đầu tiên: "Tôi đưa ra để chuyển dịch khái niệm từ Phạn ngữ hay Tạng ngữ như "những khả năng tích cực" hay "năng lực tích cực," bởi vì đây là điều gì đấy sinh khởi như một kết quả của hành động xây dựng và nó rồi thì sẽ chín muồi thành hạnh phúc. Tôi đưa sự chuyển dịch của tôi cho Phạn ngữ "punya" hay "phước đức" là "những khả năng tích cực" hay "năng lực tích cực," hay “positive potentials” or “positive force,” thay cho "merit".

21.- HỎI: Giáo sư nghĩ gì về phước đức (conventional merit) và công đức (essential merit) nó có liên hệ gì đến bài trên của giáo sư: Khái niệm của Phật Giáo về Phước đức?

ĐÁP: Tôi chưa xem qua những thuật ngữ này trong Tạng ngữ, nhưng những gì ông gọi là công đức (essential merit) nghe như hệ thống của năng lực tích cực (the network of positive force - Punyasmbhara) đấy là một khía cạnh của Phật tính. Tôi có liên hệ một cách tóm tắt ở phía dưới của bài:

Từ quan điểm của Đạo Phật, hạnh phúc kết quả từ những 'năng lực tích cực' [phước đức] của chúng ta. Những gì Đạo Phật nói là, như một bộ phận của Phật tính, chúng ta có một năng lực tích cực nào đấy. Biểu hiện kinh điển cho điều này là như một bộ phận của Phật tính của chúng ta, chúng ta có một "tích tập của phước đức".

Tôi đã thảo luận điều này khá trọn vẹn trong một khóa tu cuối tuần mà tôi đã thuyết giảng ở Mạc Tư Khoa vào tháng Tư năm 2011, mà tôi đang hiệu đính và đưa lên mạng trong dạng ghi âm gần đây. Rồi thì tôi sẽ ghi lại trên văn tự. Cũng có sự khác biệt giữa năng lực tích cực xây dựng trong cõi luân hồi và năng lực tích cực thiết lập cho giác ngộ. Tôi đã thảo luận trong Hai hệ thống thiết lập giác ngộ (The Two Enlightenment-Building Networks), nhưng tôi thảo luận một cách trọn vẹn hơn trong khóa tu học ở Mạc Tư Khoa vào tháng Tư năm 2011.

Tuệ Uyển: Xin chân thành cảm ơn giáo sư.

TÓM TẮT TIỂU SỬ CỦA GIÁO SƯ ALEXANDER BERZIN

blankBerzin sinh tại Paterson, New Jersey, Hoa Kỳ. Ông nhận bằng cử nhân năm 1965 tại Khoa Nghiên cứu Đông phương học, Đại học Rutgers liên kết với Đại học Princeton], nhận bằng Thạc sĩ năm 1967, bằng Tiến sĩ năm 1972 của Khoa Ngôn ngữ học Viễn đông (Hoa ngữ) và Khoa Nghiên cứu Ấn Độ và Phạn ngữ, Đại học Harvard.

Từ năm 1969 đến 1998, ông cư trú chính yếu ở Dharamsala, Ấn Độ ban đầu như một học giả của chương trình Fulbright, nghiên cứu và thực hành với những đạo sư từ tất cả bốn truyền thống Phật Giáo Tây Tạng. Vị thầy chính của ông là Tsenzhab Serkong Rinpoche, vị Thầy Tranh Luận và Giáo Thọ phụ trợ của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Ông phục vụ như một thông dịch viên và thư ký trong chín năm, và tháp tùng với ngài trong vài chuyến du hành khắp thế giới. Ông cũng phục vụ như một thông dịch viên trong vài trường hợp cho Đức Đạt Lai Lạt Ma.

Như một thành viên sáng lập của Văn phòng Phiên dịch của Thư viện Hoạt động và Lưu trử của Tây Tạng, Berzin đã triển khai một thuật ngữ học mới cho phiên dịch, vào Anh ngữ,và thuật ngữ kỷ thuật mới trong Tạng ngữ thường bị hiểu sai lạc. Hoạt động với những thông dịch viên trong nhiều ngôn ngữ khác nhau, ông đã giúp họ duyệt xét lại và phát triển thuật ngữ học của họ phù hợp với cùng những nguyên tắc.

Từ năm 1983, Berzin đã du hành vòng quanh thế giới, giảng dạy nhiều khía cạnh đa dạng về thực hành và triết lý của Đạo Phật, cũng như lịch sử Tây Tạng - Mông Cổ và lý thuyết chiêm tinh - y học, tại những trung tâm Phật Pháp và những trường đại học trong hơn bảy mươi quốc gia. Những cuộc du hành của ông tập trung một cách chính yếu trên những thế giới cộng sản cũ và hiện tại, Mỹ châu La tinh, Phi châu, Trung Á, và Trung Đông. Thêm nữa, nhiều tác phẩm và dịch phẩm của ông, nhiều bải giảng của ông đã được xuất bản trong ngôn ngữ địa phương ở những nơi này.

Berzin đã phục vụ như mối liên hệ không chính thức của một vài dự án quốc tế về văn hóa Tây Tạng - Mông Cổ, như chương trình cứu hộ y học Tây Tạng cho những nạn nhân của nhà máy điện hạt nhân Chernobyl với Bộ Y tế Nga và chương trình ở Mông Cổ cho Tổ chức Gere[15] sản xuất sách vở về Đạo Phật trong những ngôn ngữ bình dân để giúp tái lập văn hóa truyền thống. Ông cũng làm công cụ cho việc thiết lập và xúc tiến một sự đối thoại Phật Giáo - Hổi Giáo.

Năm 1998, ông trở lại phương Tây và viết sách nhiều hơn cùng giảng dạy Giáo Pháp tại một số trung tâm, nhưng ông cống hiến nhiều thời gian hơn để chuẩn bị những tư liệu chưa xuất bản từ trang web Berzin Archives. Trang web chứa đựng nhiều tài liệu Phật Giáo chưa phổ thông trong ngôn ngữ Tây phương. Ông hiện đang sống ở thủ đô Bá Linh, Cộng Hòa Liên Bang Đức.

Tuệ Uyển chuyển ngữ
Ẩn Tâm Lộ ngày 26/06/2011

http://www.berzinarchives.com/web/en/about/author/short_biography_alex_berzin.html

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/04/2015(Xem: 8745)
Nghi thức trợ niệm lúc lâm chung trong Phật Giáo được các bậc cao tăng Đại Đức hoằng dương ở Đài Loan đã gần 20 năm nay, dần dần được đón nhận tích cực và phụng trì của quảng đại quần chúng trong xã hội và trong giới Phật Giáo tại Đài Loan. Nghi thức trợ niệm vốn là một phương pháp trợ duyên vãng sinh Tây Phương Cực Lạc trong Tịnh Độ tông, do các vị đại sư Ấn Quang, đại sư Hoằng Nhất cùng các vị cư sĩ đề xướng vào đầu thế kỷ 20. Năm 1951 tại Đài Loan có cư sĩ Lý Bỉnh Nam thành lập “Đài Trung Liên xã”, năm 1986 có hai vị cư sĩ Trí Mẫn và Huệ Hoa tông Viên Giác (được các Phật tử tôn kính xưng là hai vị thượng sư) thành lập Tịnh xá Nặc Na Hoa Tạng, đem toàn lực hộ trì và phát dương nghi thức trợ niệm lúc lâm chung. Nghi thức trợ niệm dần dần trở thành pháp môn tu tập phổ biến được quảng đại dân chúng trong xã hội Đài Loan tiếp nhận và hành trì.
06/04/2015(Xem: 17974)
Trong mọi khóa lễ, Chư tăng ni, Phật tử đều cầu xin: “Trú dạ lục thời an lành”. Tức ngày đêm hai mươi bốn tiếng an lành. Nhưng an lành là gì? Chiến tranh không phải an lành.
05/04/2015(Xem: 387910)
Vào ngày 15 tháng 02 năm 2015 tại Như Lai thiền tự, thành phố San Diego, miền Nam tiểu bang California, Hoa Kỳ; được sự chứng minh của Đại lão Hòa thượng Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Tăng già Khất sĩ Thế giới Thích Giác Nhiên cùng chư Tôn đức chứng minh, Hòa thượng Bổn sư Thích Minh Hồi đã cắt tóc cầu nguyện và chứng minh cho Phật tử Tâm Hoa, thế danh Võ Elizabeth Bích Liên xin xuất gia, ban pháp hiệu là Liên Ngọc và chỉ dạy cô về tịnh xá Ngọc Vân ở Việt Nam làm lễ thế phát xuất gia.
03/04/2015(Xem: 22210)
Ngọc xá lợi là phần di thể của các vị cao tăng Phật giáo sau hỏa táng. Đó là những hạt kích thước nhỏ, có dạng tròn hoặc các dạng khác. Một số hạt nhỏ có thể trông giống ngọc trai hoặc pha lê, với màu sắc khác nhau. Đó là bảo vật của Phật giáo toàn thế giới, cần lưu ý rằng, tất cả những gì thuộc về Phật tổ và các vị Thánh tăng như y bát, tóc, móng tay... cũng được xem là xá lợi. Dân gian vẫn thường đồn thổi về ngọc xá lợi với thực hư lẫn lộn. Chẳng hạn một vị chân tu 64 tuổi đã ngồi thiền 49 ngày rồi viên tịch tại chùa Vĩnh Bình thuộc huyện Kim Sơn, Ninh Bình nên có nhiều xá lợi. Còn ngọc xá lợi của Phật tổ thì có công năng kỳ diệu như phát quang, tự di chuyển hoặc có thể phân ra thành các viên ngọc khác.
02/04/2015(Xem: 11934)
Vào những ngày nghỉ cuối tuần, tôi thường ra một quán cà phê hay tiệm sách gần nhà để ngồi đọc sách. Ở bên này có những tiệm sách lớn, bên trong có hàng bán cà phê với những chiếc bàn nhỏ, chúng ta có thể ngồi uống nước, đọc sách hay viết lách gì cũng được, rất thích và tiện lợi.
01/04/2015(Xem: 8754)
Tôi năm nay 24 tuổi, công việc ổn định và yêu một anh bạn đồng nghiệp, hai chúng tôi dự định ba tháng nữa sẽ làm lễ cưới (lễ hằng thuận) ở chùa. Vừa rồi, tôi đưa anh ấy ra Bắc, nơi chùa chị tôi xuất gia tu học để làm lễ quy y cho anh. Quy y xong, anh được nhà chùa cho tụng kinh, khi tụng xong thì chuyện bất ngờ xảy ra, chồng sắp cưới của tôi xin phép thầy xuất gia. Sự việc xảy ra quá nhanh khiến tôi hết sức bất ngờ, buồn vui lẫn lộn. Nếu anh ấy xuất gia được thì hủy lễ cưới luôn. Thầy bảo sẽ trợ duyên cho anh ấy ở chùa tập sự một năm mới được xuống tóc và gửi đi học. Bây giờ, ngoài việc niệm Bồ-tát Quan Thế Âm ra, tôi chẳng biết làm gì nữa.
31/03/2015(Xem: 8893)
Giới luật và Phẩm Hạnh Huynh Trưởng
31/03/2015(Xem: 18480)
Dianne Perry, (sau này được biết đến qua pháp danh Tây Tạng của cô là Tenzin Palmo) là một vị ni cô người Anh đầu tiên, đã ẩn cư thiền định suốt 12 năm trong một hang động cao 12.300 bộ trên dãy Hy Mã Lạp Sơn, cách ngăn khỏi thế giới trần tục bởi những rặng núi phủ đầy tuyết trắng quanh năm. Tenzin Palmo đã sống một mình và tu tập trong động tuyết này. Cô đã chạm trán với những thú rừng hoang dã, đã vượt qua những cơn lạnh khủng khiếp, những cái đói giết người, và những trận bão tuyết kinh hồn; cô tự trồng lấy thực phẩm và ngủ ngồi trong cái hộp gỗ rộng cỡ 3 bộ vuông (theo truyền thống Tây Tạng, các vị tu sĩ đều tọa thiền trong một cái hộp gỗ như vậy). Cô không bao giò ngủ nằm. Mục đích của Tenzin Palmo là chứng đạo trong hình tướng một người nữ.
29/03/2015(Xem: 18826)
Giảng về diệu lý Bát Nhã của Bộ Kinh Kim Cang là pháp môn bình đẳng. Chúng ta phần đông đều không hiểu cho nên đầu lại thêm đầu, tướng lại thủ tướng đem cái pháp bình đẳng biến thành không bình đẳng.
28/03/2015(Xem: 8746)
Thuyết pháp là hạnh cao quý của người hoằng pháp vì họ là sứ giả của Như Lai, mang ánh sáng của chánh pháp rải đều khắp nhân gian khiến cho muôn người được hưởng cam lồ vị - sống hạnh phúc, chết bình an, hưởng an lạc ở nhàn cảnh, hay giải thoát, niết bàn. Hiện nay, sinh hoạt thuyết pháp phát triển sôi nổi ở nhiều nơi trong nước và hải ngoại.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]