Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tình người giác ngộ

16/12/201311:21(Xem: 6855)
Tình người giác ngộ

ducphatthichca


TÌNH NGƯỜI GIÁC NGỘ

(Câu Chuyện Nhà Vua Bhatrihari, Vị Đạo Sư Đệ Nhứt

Giải Thoát Về Tình Yêu Tục Lụy)



“Người thanh tịnh như vầng trăng êm ả

Không bao giờ buồn cũng chẳng hề vui

Không thương riêng ai chưa từng hờn dỗi

Tình thiêng liêng bao phủ khắp muôn loài”

Diệu Tịnh

Lần hành hương chùa Phổ Hiền tại Kansas City, Missouri tôi được cơ may gặp đạo hữu Diệu Tịnh một nhà giáo và là một nhà thơ đã đọc cho tôi nghe những vầng thơ trên đây. Tôi thành kính hoan hỷ và tri ân một tâm hồn hướng về chân-thiện-mỹ, Phật, Pháp, Tăng mà lời nói và đời sống thật nhẹ nhàng, sáng suốt.

Lời Phật dạy:

Buồn một chút là dạo chơi địa ngục;

Vui một chút là dạo chơi thiên đàng;

Tịnh một chút là thân, tâm an lạc.

Nhân được đọc tập tuyển thơ tình cổ kim do đại học Oxford University xuất bản dưới tựa đề “Book of Love Poetry” tôi đặc biệt chú ý đến hai bài thơ của nhà vua Bhatrihari sáng tác cuối thế kỷ thứ VII và tôi đã phát tâm chuyển dịch ra thơ Việt như sau:

Bài thứ 1:

Nữ hoàng ấy trong tim ta ngự trị

Lại đem lòng yêu mến kẻ thất phu.

Chàng tứ chiến không yêu nàng đâu nhé!

Lại chung đôi với một ả giang hồ.

Mở lòng ra cô gái xót thương thân phận

Bẽ bàng oan trái của đời ta

Vậy sao quỷ thần không giải thoát oan gia

Của ả ấy, chàng kia, của tình yêu tục lụy

Của nữ hoàng và kể cả của ta.

Bài thứ 2:

Những ngày xưa chung đôi, ta đồng ý

Rằng em là tôi và tôi cũng là em.

Tình đời ngang trái khiến lìa đôi

Nên bây giờ em là em hờ hững

Và tôi cũng là tôi lạnh lùng.

Nếu muốn hiểu hai bài thơ trên đây đầy đủ hơn chúng ta nên tìm hiểu câu chuyện đời của nhà vua Bhatrihari mà sau này xuất gia được đạo Sử Ấn Độ công nhận là vị đạo sư đệ nhất giải thoát về tình yêu.

Nhà vua Bhatrihari rất thương yêu bà hoàng hậu Pingala. Nhưng hoàng hậu Pingala lại đem lòng thương yêu một chàng trai tứ chiến. Chàng trai tứ chiến có mối tình riêng đậm đà nồng nàn với một cô gái giang hồ. Thật là éo le ngang trái.

Một nhà ẩn sĩ trong rừng sâu thường ngày ăn rau rừng và uống nước suối, sống giản dị và dễ dàng để tập trung thân, tâm, trí, tánh vào việc tu học nguyện cầu tịnh Phật quốc độ và thành tựu chúng sanh theo hạnh nguyện Bồ Tát. Một ngày nọ nhà ẩn sĩ hái được trái trường sinh bất tử, một loại trái hiếm và quý. Với tâm nguyện từ bi, hỷ xả và vô ngã vị tha, ẩn sĩ không muốn ăn trái trường sanh bất tử lại muốn đem “cúng dường” nhà vua Bhatrihari. Từ rừng sâu nhà ẩn sĩ đã đi về cung điện:

“Ngữ ngôn bất khả tư nghì

Chân dung hạnh phúc, bước đi thanh nhàn”

Thanh Trí Cao



thich tam ngoanTác giả Thích Tâm Ngoạn

Và đích thân dâng lên nhà vua trái trường sinh bất tử. Nhà vua không ăn riêng trái quý mà lại để dành tặng cho hoàng hậu Pingala để chứng tỏ tình yêu thương của mình. Hoàng hậu Pingala cũng không ăn riêng trái quý mà để dành tặng cho chàng trai tứ chiến trong một lần hẹn hò lén lút cùng chàng. Chàng trai tứ chiến cũng không ăn riêng trái quý mà lại để dành tặng cho cô gái giang hồ để chứng tỏ tấc lòng:

Sông về gặp bến đồng tâm

Mây đoàn viên, gió tri âm đợi chờ.

Ca dao

Cô nhận được trái quý, rất ngạc nhiên và lo lắng hậu quả rủi may ai ngờ, bèn hỏi chàng trai trái quý từ đâu đem lại. Chàng thành thật khai báo chính hoàng hậu đích thân tặng cho chàng và cũng chính hoàng hậu được nhà vua đích thân tặng cho bà và nhà vua đã được vị ẩn sĩ ở rừng sâu đích thân dâng tặng cho nhà vua. Được biết rõ sự tình, cô gái mở lòng:

Lắng lòng lại cho thời gian ngừng đọng,

Mở lòng ra để trải rộng không gian

Khuyết Danh

Với tất cả tấm lòng thương kính nhà vua, cô gái không ăn riêng trái quý trường sinh bất tử lại đích thân dâng lên nhà vua Bhatrihari. Với phước trí vẹn toàn trong tay nhận được hai lần tái quý trường sinh bất tử, nhà vua đã có kinh nghiệm khổ đế:

Con người là kẻ học nghề

Mà thầy là kẻ ê chề đớn đau.

Chẳng ai tự biết mình đâu

Nếu chưa từng trải đớn đau ê chề.

Trước khi từ giã ngai vàng điện ngọc nhà vua đã làm hai bài thơ để khẳng định hệ lụy tình cảm cần được chuyển hóa và thăng hoa. Sau đó nhà vua đã xuất gia hành đạo và đạo Sử Ấn Độ công nhận vua Bratrihari là vị đạo sư đệ nhất giải thoát về tình yêu.

Nhân mùa Vua Lan xá tội vong nhân, tự tứ Tăng, Phật hoan hỷ, xin được kính ghi chép bài “ Thành Đạo” thơ dịch của Trúc Thiên từ nguyên tác Anh ngữ của Wiresekere, người Tích Lan

“Tôi chứng được chăng quả phước tròn đầy

Như đức Phật đêm trăng trònVesakh ?

-Được, nếu vọng động chẳng che mờ đôi mắt,

Người đừng buông nẻo đạo đức từ tôn.

Phải chăng Ngài thành đạo buổi trăng tròn

Đêm Vesakh nhờ chư thiên hướng dẫn?

-Không, chính họ vẫn cúi đầu chiêm ngưỡng

Trước ánh từ vô ngại trải vô biên.

Giúp được tôi thành đạo chứ, chư thiên?

-Không ai cả, ngoài ngôi cao Tam Bảo

Vào cõi tịnh soi đường người chứng đạo.

Sanh tử, không; phiền não cũng là không.

Chư Pháp không thường- Ngài vốn tỏ thong

Và nhân thế như cành sen sương điểm

Thoáng đẹp phù du, sắc màu hư huyễn

Tan tác rơi, còn lại chút bùn vương

Nên giã từ ngôi báu, đắp tình thương

Và phấn đấu lên đường tìm chân lý

Nên rời bỏ vợ con, Ngài quyết chí

Và viên thành đêm Vesakh trăng thanh

Rồi uy nghi ngôi chánh giác trọn lành

Dưới gốc Bồ Đề trang nghiêm dịu mát

Ngài chỉ con đường, con đường giải thoát,

Con đường vào thanh, Niết Bàn tâm.

Khi ngọn lửa tham hết ngún âm thầm,

Khi chiếc áo Từ Bi ngời ánh sáng

Khi hết oán thù, khi vơi ngả mạn

Là con đường giải thoát, đạo kề bên

Phật-Pháp –Tăng đạo Bát Chánh tỏ bày

Phạm hạnh giả ai người không nắm giữ.

Trời nào giúp ư, thần nào cản chứ

Người tiến vào Diệu Đế, chứng đường tu

Rồi đến khi siêu thoát khỏi luân hồi

Người tự tại đứng lên mà tỏ ngộ

Một phiến hư tâm cạn nguồn đau khổ

Phước huệ đầy chứng nhập cõi Thường Vui

______________

Cước chú.-Trong Kim Cang chư gia có bài kệ:

Người đời quý của báu,

Ta trọng sát na tịnh

Của báu thường hư hoại

Tịnh rồi hằng thấy tánh

Thích Tâm Ngoạn

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/02/2013(Xem: 10306)
Trước khi nhập điệt, 2500 năm trước, Đức Phật đã giảng pháp lần cuối. Bài pháp thoại này đã đưọc ghi lại trong Kinh Đại Bát Niết Bàn (Trường Bộ Kinh -Maha Parinibbana Sutta -Great Passing Discourse) và đã được lưu giữ trong Tam Tạng Kinh điển Pali, những thánh điển của Phật giáo. Trong suốt 45 năm hoằng pháp, Đức Phật đã chỉ dẫn cho chúng sanh bao giáo lý để đến được con đường giải thoát. Ở giai đoạn cuối đời, Đức Phật muốn nhấn mạnh với các đệ tử của Ngài là cần đem những lời giáo huấn đó áp dụng vào cuộc sống.
02/02/2013(Xem: 7692)
You may be surprised to hear that Most Venerable Thich Quang Do has made it known to President Obama and his Administration that Vietnam needs more than ever the service of VOA/ Vietnamese service. He is the supreme Buddhist Leader in Vietnam under House Arrest.
01/02/2013(Xem: 8383)
Đức Phật không cô lập, xa lánh vua A Xà Thế, mà là mở cơ hội cho vua đến với Đức Phật. Phật giáo cố sự đại toàn chép lời Đức Phật đón vua A Xà Thế: “Đại vương! Ông tới đúng lúc. Ta đợi ông đã lâu”. Đốivới trường hợp vương triều A Xà Thế, với một vị vua tàn nhẫn, độc đoán,hiếu chiến, Đức Phật đã tạo môi trường hóa độ như thế. Trường hợp vua AXà Thế là câu trả lời chung cho câu hỏi về mối quan hệ giữa chính quyềnvới Phật giáo trong mọi thời đại. Dù là chính quyền như thế nào, đối với Phật giáo, đó vẫn là mối quan hệ mởcửa, hóa độ, mối quan hệ cho những gì tốt đẹp nhất nẩy mầm, sinh sôi. Bài viết về trường hợp vua A Xà Thế trong quan hệ với Đức Phật và tăng đoànchắc rằng sẽ định hình những nét chính trong bức tranh quan hệ Phật giáo và chính quyền mà chúng ta đang thảo luận.
27/01/2013(Xem: 12330)
Theo truyền thống tín ngưỡng của dân gian, có lẽ hình tượng 2 vị Thần Tài – Thổ Địa không xa lạ gì với người dân Việt Nam.
21/01/2013(Xem: 8459)
Theo nguyên tắc chung, tôi nghĩ rằng tôn giáo của cha mẹ mình là tôn giáo thích nghi nhất cho mỗi người. Vả lại thật cũng không tốt nếu chạy theo một tín ngưỡng nào đó rồi sau này lại từ bỏ. Ngày nay, nhiều người rất quan tâm đến đời sống tinh thần mà đặc biệt nhất là Phật giáo, nhưng thường thì họ không suy xét cẩn thận để ý thức mình đang dấn thân vào một lãnh vực tinh thần có những đặc tính như thế nào.
18/01/2013(Xem: 8476)
Người ta vẫn thường hay nói nghèo là khổ, nghèo khổ, chứ ít ai nói giàu khổ cả. Thực ra người nghèo có nỗi khổ của người nghèo, mà người giàu cũng có nỗi khổ của người giàu. Người nghèo vì không chấp nhận cái nghèo, oán ghét cái nghèo, muốn được giàu nên họ khổ. Người giàu sợ bấy nhiêu tài sản chưa đủ làm người khác nể phục, sợ bị phá sản, sợ người khác lợi dụng hay hãm hại mình nên khổ. So ra, cái khổ của người giàu còn
18/01/2013(Xem: 8698)
Trong bài viết này, tác giả đã phân tích quan niệm về tính Không – một nội dung quan trọng của kinh Kim Cương. Tính Không (Sùnyatà) là một khái niệm khá trừu tượng: vừa thừa nhận có sự hiện hữu, sự “phồng lên” (ở hình thức bên ngoài) của một thực thể, vừa chỉ ra tính trống rỗng (ở bên trong) của thực thể. Vì vậy, tính Không không phải là khái niệm chỉ tình trạng rỗng, không có gì, mà có nghĩa mọi hiện hữu đều không có “tự ngã”, không có một thực thể cố định.
13/01/2013(Xem: 12445)
Sáu mươi và vẫn còn khỏe mạnh, tôi chỉ mới chập chững bước vào tuổi già. Nên giờ đúng là thời điểm tôi cần tham khảo về vấn đề này để phát triển sự can đảm, vì tuổi già là điều khó chấp nhận. Tuổi già thật đáng sợ. Tôi chưa bao giờ chuẩn bị cho tuổi già. Tôi vẫn hy vọng mình còn có thể sống qua nhiều lần sinh nhật nữa, nhưng lại không chuẩn bị cho sự hao mòn trong quá trình đó. Vừa qua tuổi sáu mươi không lâu, các khớp xương của tôi đã cứng, tóc tai biến mất ở chỗ này lại mọc ra chỗ khác, tên tuổi của người khác tôi không còn nhớ rõ, thì tôi phải chấp nhận những gì đang xảy ra cho tôi.
11/01/2013(Xem: 8615)
BA VÒNG QUAY CỦA BÁNH XE ĐẠO PHÁP cùng sự hình thành của kinh điển và các học phái Phật Giáo
09/01/2013(Xem: 7676)
Một hệ thống Giáo dục mới và toàn diện chỉ duy trì những truyền thống tốt đẹp, những gì văn hóa cũ thích hợp với đường hướng giáo dục này. Chính vai trò của nền giáo dục toàn diện là xây dựng một nền văn hoa mới toàn diện.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]