Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

23. Chuyến hành hương của gia đình

27/11/201311:56(Xem: 22195)
23. Chuyến hành hương của gia đình


Tự truyện của mẫu thân Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14

Tác giả: Diki Tsering

Biên tập & giới thiệu:Khedroob Thondup

Nguyên tác: Cụ Bà Diki Tsering

Việt dịch: Thích Nguyên Tạng

Diễn đọc: Pt Quảng An


23. Chuyến hành hương

của gia đình






Sau khi chồng tôi qua đời, tôi đi hành hương ở Duntse Shikar và Tashilumpo cùng với con gái út Jetsun Pema, con đầu lòng Tsering Dolma, và hai đứa con của cô ta là Khando và Tenzing Ngawang. Chính phủ giúp đỡ chúng tôi bằng việc cử hai người đi với chúng tôi để trông coi về chỗ ở và những tiện nghi khác.

Duntse thuộc quyền sở hữu của chúng tôi. Ở vùng này chúng tôi có khoảng ba trăm gia đình nông dân. Trước kia đại sư Tống Khách Ba đã dùng tòa nhà, và nó đã trở thành một viện bảo tàng. Tôi sợ ở trong tòa nhà này. Nó rất xưa và hình như muốn sụp xuống. Tất cả những bức tường đều nghiêng. Tôi đi qua tòa nhà với cảm tưởng mình đi lùi lại ngày xưa. Đồ đạc trong nhà cũng đã có từ thời đại sư Tống Khách Ba, bốn trăm năm trước. Có bốn phòng tụng niệm lớn, mỗi phòng quay về một hướng, mỗi phòng tụng niệm có người quản lý riêng. Ở đây suốt đêm có tiếng trống nghi lễ.

Có một phòng tụng niệm làm cho tôi đặc biệt chú ý. Phòng này có một cái trống lớn, có âm thanh hay nhất mà tôi đã được nghe so với bất cứ nơi nào ở Tây Tạng. Người ta nói rằng nếu ở đây có người sắp chết, căn phòng này có đầy mùi máu. Tòa nhà này luôn luôn làm cho tôi cảm giác rờn rợn, và tôi sợ dù chỉ đi ngang đó.

Sau mười ngày ở đó, chúng tôi đến viếng tu viện Tashilunpo, trú xứ của Đức Ban Thiền Lạt Ma (Panchen Lama). Chúng tôi mất ba ngày để đi đến đó. Lúc chúng tôi đến thì Đức Ban Thiền Lạt Ma đang ở Tsongkha. Chúng tôi được đón tiếp nồng hậu và cho ở trong căn nhà gỗ trong một khu vườn rộng. Trong vườn có những cái chuồng lớn dành cho những con thú mà Đức Ban Thiền Lạt Ma nuôi, nhưng vì ngài vắng mặt nên những cái chuồng này trống không.

Đức Ban Thiền Lạt Ma thời đó thuộc một gia đình nông dân ở tỉnh Amdo, giống như gia đình chúng tôi. Chính phủ Tây Tạng đã chọn cậu bé ở tỉnh Kham được xem là hóa thân của Đức Ban Thiền Lạt Ma đời trước và đã sửa soạn tất cả cho lễ tấn phong. Nhưng người Trung Hoa đặt lên một ứng viên riêng của họ và cho cậu bé này tới tu viện Kumbum để tu học.

Ở Tashilunpo có một bộ trang phục của tổ sư Tống Khách Ba, được làm bằng da con dê con màu trắng sữa, mũ và vớ là da thuộc. Cái áo không còn nguyên vẹn, vì qua thời gian, những người chiêm bái đầy lòng tôn sùng đã xé những mảnh nhỏ cho riêng mình. Tashilunpo cũng có cái "hari" của bà mẹ của tổ sư Tống Khách Ba. Tôi thấy cái "hari" này trông rất lạ, rộng hơn nhiều, nặng hơn và lớn hơn những cái "hari" thời nay.

Cũng như ở Tashilunpo, tại Duntse chúng tôi làm lễ cúng ở các tu viện mỗi ngày. Sau mười ngày ở đó, chúng tôi đi thăm những tu viện nhỏ ở dọc đường rồi trở về Duntse ở lại ba tuần lễ, đợi mẹ và con gái tôi lúc đó đang trở về từ miền Trung Tây Tạng sau khi từ Tsongkha đi qua Ấn Độ.

Trong những năm đầu ở Lhasa, tôi đã mong gặp lại mẹ tôi nhiều hơn là khi chúng tôi sống ở Tsongkha. Thỉnh thoảng tôi lại gởi cho bà những món quà tiêu biểu của Lhasa, và bà cũng gởi cho tôi những món ăn chơi của Tsongkha mà ở Lhasa không có. Chỉ có bà mới hiểu tôi cảm thấy cô đơn như thế nào trong một thành phố lạ.

Vì vậy khi con gái của tôi đi Tsongkha để đưa một người bạn thân của chúng tôi về gia đình của người đó, tôi bảo con tôi đưa mẹ tôi về với tôi. Lúc đó mẹ tôi đã bảy mươi ba tuổi. Sau khi con gái tôi về đến Tsongkha ít lâu thì chồng tôi qua đời. Tôi gởi cho con gái tôi một bức điện tín bảo trở về càng sớm càng tốt. Tức khắc con gái và mẹ tôi đi máy bay từ Tsongkha đến Trung Quốc, rồi tới Ấn Độ. Đó là hành trình dễ nhất. Tôi nghĩ rằng phu nhân của Thống Chế Tưởng Giới Thạch (Trung Hoa Dân Quốc) đã cho một chiếc máy bay tới đón mẹ và con gái tôi. Từ Ấn Độ hai người đi ngựa đến với chúng tôi ở Duntse. Mẹ tôi phải đi cáng vì bà ốm yếu và bị gãy tay. Tôi đã vui mừng tới phát khóc vì được gặp lại bà. Dì của tôi cũng tới, bà đã sáu mươi bốn tuổi. Con gái của tôi đã xa tôi hai năm.

Khi chúng tôi trở về Lhasa, con út của tôi là Tendzin Choegyal đã làm lễ thọ giới và từ đây trở thành Ngari Rinpoche. Tu viện lấy một người của chúng tôi để người đó trông coi việc ăn mặc và những nhu cầu cần thiết của con trai tôi. Anh chồng tôi là Ngawang Changchub từ Tsongkha đi qua Ấn Độ tới thăm chúng tôi lúc này. Ông cho biết là ông đã gặp con trai tôi Gyalo Thondup, và cậu ta có hai đứa con đẹp đẽ. Ông ở lại với chúng tôi hai tháng rồi trở về Tsongkha, tiếp tục công việc ở tu viện Kumbum.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/05/2011(Xem: 12856)
Nhận lời mời của quý vị, hôm nay có duyên cùng quý vị bàn về tam quy y trong Phật pháp tại Bờ biển Vàng (Golden coast) Queensland- Australia. Ðối với Phật pháp đây là đề tài rất quan trọng, là chỗ nhập môn tu học của chúng ta. Trước khi nói đến tam quy, đầu tiên phải có nhận thức chính xác về Phật pháp.
21/05/2011(Xem: 7748)
Ý tưởng về bồ đề tâm thật không thể nghĩ bàn! Nó khiến cho tất cả những công việc nào không liên quan đến việc làm lợi lạc cho chúng sanh trở nên buồn chán và bất toại nguyện. Ta thật sự sẽ không còn hứng thú hay thưởng thức được đời sống của mình, ngoại trừ công việc đầy ý nghĩa này. Tất cả mọi thứ khác sẽ trở nên vô nghĩa, trống rỗng và không có thực chất.
20/05/2011(Xem: 7327)
Ta cần có những thiện hạnh để chấm dứt những dục vọng vô độ và việc coi mình là quan trọng; cách hành xử tránh điều độc hại như thuốc độc...
19/05/2011(Xem: 16817)
Hầu như ai đến phố Bolsa cũng từng thấy một khất sĩ mà nhiều người gọi là “ông sư ở Phước Lộc Thọ.” Ông mặc bộ áo cà sa vàng, khoảng 40 tuổi, tay ôm bình bát, mắt nhắm nghiền như đang thiền định. Ông đứng từ sáng đến chiều, ngày này qua ngày nọ bất kể thời tiết nóng hay lạnh. Phố Bolsa sáng sáng thường có các nhà sư đi khất thực bên ngoài những cửa tiệm, đặc biệt trong khu chợ ABC ở góc Bolsa và Magnolia. Họ xuất hiện trong vài ngày hoặc vài tuần, xong biến mất như đã hoàn tất một giai đoạn trên con đường tu tập.
18/05/2011(Xem: 21582)
Con được biết - không chắc đúng không - hôm nay 28-4, là ngày Sinh Nhật Sư Phụ tròn 88 tuổi nên con viết vội đôi dòng kính chúc Sư Phụ luôn Phước Thọ tăng long, bách niên thọ thế để hàng đại chúng Bảo Vương của chúng con nói riêng và Giáo hội nói chung luôn có được bóng mát chỡ che tinh thần và trí tuệ của một trong số rất ít còn lại hàng đại lão hòa thượng của PGVN. Riêng con vẫn còn đó một đại tự điển sống về Phật học tinh hoa cũng như về lịch sữ Việt Nam thời cận đại.
15/05/2011(Xem: 7490)
Nhân quả đồng thời được nói một cách cô đọng trong kinh Pháp Hoa, kinh Hoa Nghiêm… và rải rác trong các kinh điển Đại thừa. Có lẽ người đầu tiên dùng thành ngữ “nhân quả đồng thời” là Đại sư Trí Khải (thế kỷ thứ 6) trong Pháp Hoa Huyền Nghĩavà trong các tác phẩm Thiên Thai tông của ngài, y cứ trên kinh Pháp Hoa. Thành ngữ này cũng là một giáo lý chính yếu của Hoa Nghiêm tông vào thế kỷ thứ 7. Nói một cách vắn tắt và đơn giản, nhân quả đồng thời là quả giác ngộ, quả Phật vốn đã nằm nơi nhân tu hành để đạt đến giác ngộ, để thành Phật. Nhân của thành Phật là “nhân địa pháp hạnh của Như Lai” được nói trong kinhViên Giác:
14/05/2011(Xem: 14450)
Xuất phát từ một nhận thức có tính thuyết phục về đạo Phật, quyển "Thuần Hóa Tâm Hồn" được viết với một văn phong hiện đại, trong sáng và tinh tế; nghiêm trang nhưng vẫn đan xen đôi nét hóm hỉnh.
14/05/2011(Xem: 7157)
Phật Đản lại về, cuối xuân đầu hạ, cây đủ lá xanh tràn trề sức sống, hoa sen rộ nở đóa đóa diệu hồng, trắng mát, tỏa hương khoe sắc, như đón bậc vĩ nhân...
12/05/2011(Xem: 6417)
Hầu hết mọi người Phật tử Việt Nam đều không những có nghe biết mà còn thường xuyên sử dụng từ ngữ “Phật sự” Nhưng chính vì được nghe biết và sử dụng quá thông thường, cho nên, đôi khi chúng ta lại không có cơ hội để suy nghiệm về ý nghĩa thâm diệu của nó để ứng xử một cách kiến hiệu trong đời sống thường nhật. Cũng vì lý do này đã dẫn đến việc đánh mất tinh thần cốt tủy trong các Phật sự mà chúng ta đã, đang và sẽ thực hiện.
11/05/2011(Xem: 5509)
Sống ở đời, chúng ta ai cũng có những nỗi khổ niềm đau, dù ít hay nhiều. Bởi thân thể ta đau nhức là khổ, giận hờn là khổ, tiếc thương cũng khổ… Có rất nhiều yếu tố làm cho ta khổ, nhưng chung quy mọi khổ đau đều xuất phát từ chính mình.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]