Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

18. Một đời sống mới bắt đầu

27/11/201311:52(Xem: 18919)
18. Một đời sống mới bắt đầu

Tự truyện của mẫu thân Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14

Tác giả: Diki Tsering

Biên tập & giới thiệu:Khedroob Thondup

Nguyên tác: Cụ Bà Diki Tsering

Việt dịch: Thích Nguyên Tạng

Diễn đọc: Pt Quảng An



18. Một đời sống mới bắt đầu




Năm tháng sau khi chúng tôi đến Lhasa, Đức Đạt Lai Lạt Ma chuyển tới cung điện Potala. Đây là một kiến trúc trông thật to lớn, nhất là vì cung điện này được xây dựng trên một quả đồi. Lúc đầu tôi đã sững sờ khi nhìn thấy Potala. Tôi mất hai mươi phút để đi lên những bậc đá tới tầng trên cùng của mười ba tầng. Dường như có vô số những món trang trí bằng vàng, bạc và những bức tranh "thangka" treo đầy trên tường những căn phòng. Đây là một viện bảo tàng mà sự vĩ đại của nó tôi sẽ không bao giờ được nhìn thấy lại. Tôi đặc biệt bị thu hút bởi những bức chân dung bằng vàng khối của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười ba. Khi tôi mới tới Potala, tòa cung điện này đã có vẻ quen thuộc đối với tôi, cứ như là tôi đã ở đó trước kia. Khi còn ở Tsongkha, trước khi Đức Đạt Lai Lạt Ma ra đời, tôi đã nằm mộng thấy cung điện Potala rất nhiều lần, và tôi ngạc nhiên khi thấy những căn phòng giống hệt như những căn phòng mà tôi đã trông thấy trong các giấc mộng.

Ở mọi mặt của cung điện Potala là những cửa gỗ với những ổ khóa lớn bằng sắt. Có những điều lệ khi vào cung điện được ghi trên những tấm bảng lớn ở lối vào chính: không được đội nón, mũ hay mang giày ngoại quốc, không được mang dao, súng vào cung điện. Giày, nón, mũ của Tây Tạng thì được phép.

Chúng tôi thường đến cung điện Potala bằng ngựa trong tất cả những buổi lễ. Vào dịp vui tết Losar Tây Tạng, vì có quá nhiều sự kiện nên chính phủ dành cho chúng tôi một căn phòng ở tầng trên cùng của cung điện, với một nhà bếp và một phòng tiếp khách.

Lúc đầu tôi không quen nhiều tục lệ ở Lhasa, vốn rất khác tục lệ ở Tsongkha. Tôi cẩn thận quan sát những gì mà người khác làm, như vậy tôi sẽ không làm sai. Tôi có thể đi ra ngoài và đi bất cứ nơi nào tôi muốn, mang theo một người hầu gái. Đời sống của tôi chỉ bị giới hạn bởi những điều luật về xã hội. Tôi không bao giờ đến chợ hay những tiệm bán hàng nhỏ. Tôi chỉ đi ngựa qua những chỗ đó. Tôi đã tới tu viện Sera, Drepung, Ganden, tất cả đều là những tu viện nổi tiếng. Hai tu viện hạng nhất là Sera và Drepung.

Khi Đức Đạt Lai Lạt Ma được mười một hay mười hai tuổi, ngài dự những kỳ thi về giáo lý Phật học đầu tiên của mình ở Drepung. Tôi đã ở đó mười ngày với ngài. Vì phụ nữ không được ở trong những tòa nhà chính của tu viện, nên tôi ngụ ở một nhà khách trong khuôn viên gia đình tôi. Mấy ngàn người chứng kiến cuộc thi của ngài. Những kỳ thi tương tự cũng được các học giả của Sera và rồi Ganden tổ chức. Là một người mẹ, tôi chỉ lo Đức Đạt Lai Lạt Ma không làm tốt khi trả lời những câu hỏi của các vị học giả hàng đầu, nhưng nỗi lo của tôi dường như vô ích, vì ngài luôn luôn làm tốt như được mong đợi.

Tôi không biết nhiều về ngoại giao, và còn phải học nhiều về xã hội Lhasa. Là một nông dân, tôi đã được nuôi dưỡng trong bầu không khí yêu thương và thành thật, hai đức tính được coi trọng ở Tsongkha. Tôi không biết mưu mô là gì, và tôi đã chưa biết rằng thế giới có thể độc ác và khó khăn. Dần dần tôi biết được rằng xã hội Lhasa không phải là xã hội mà hạng người như tôi tin tưởng.

Bà Lalu thuộc một gia đình quan trọng ở Lhasa, trở thành một người bạn tốt của tôi. Bà là một trong những người ở Lhasa đã cho tôi những lời khuyên quý giá là phải thận trọng và dè dặt khi tiếp xúc với những người quý tộc. Lúc đó tôi không biết nói tiếng Lhasa và tôi không muốn lời nói của mình bị dịch sai nên tôi phải mất hai năm để học tiếng Lhasa. Bà mẹ của ông Tsaron là một người bạn tốt, cũng như bà Ragashar, cả hai thuộc giới quý tộc. Tất cả ba bà này đều khuyên tôi không nên quá thẳng thắn hay nói ra quá nhiều ý kiến với những người tới thăm tôi. Tôi rất biết ơn ba người bạn tuyệt vời này vì lời khuyên tử tế của họ, và cũng vì vậy mà tôi lo lắng, sợ hãi về tương lai.

Bà Ragashar thường đến thăm, hỏi tôi có bận việc gì hay không. Tôi sẽ nói là tôi không có nhiều việc để làm, và bà ta rủ tôi chơi cờ. Rồi bà ta kể chuyện cho tôi nghe và có thể nói chuyện vặt một chút, giống như tất cả những người đàn bà thường làm khi họ ngồi với nhau.

Sau khi chúng tôi đến Lhasa, người ta giao cho chúng tôi một thửa đất mà trước đây là của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười ba. Tòa Công Sứ Anh Quốc đã hỏi mua thửa đất này, nhưng ngài từ chối và nói rằng thửa đất sẽ rất có ích cho ngài về sau. Thửa đất này được gọi là Changseshar, có nghĩa là "Vườn Hướng Đông". Đây là một thửa đất lớn có nhiều cây cối. Vị tiên tri Nechung đã coi bói tìm những địa điểm thuận lợi nhất để xây nhà. Nhà của chúng tôi được xây bằng đá, có ba tầng và nhiều cột. Ngôi nhà này do chính phủ xây dựng. Ở bên ngoài sân của ngôi nhà này, một ngôi nhà hai tầng cũng được xây. Sau ba năm ở Norbulingka, chúng tôi đã chuyển tới ngôi nhà mới này, binh sĩ hộ tống trong một đoàn gồm hai trăm người cùng các nhạc công. Chúng tôi trú ngụ ở đây cho đến năm 1959.

Ở Lhasa chúng tôi có nhiều người phục vụ. Chúng tôi có một "chang-zo", tức là người nhận và trả lời thư từ, một người quản lý tài chánh, và một thư ký giúp việc cho viên quản lý đó. "Nyerpa", là người trông coi những vật dụng để trong nhà kho. Tôi có hai người hầu gái, con gái tôi có hai người hầu và một hầu gái trông coi bọn trẻ, chồng tôi có sáu người hầu, và con trai tôi, Gyalo Thondup, có bốn người hầu. Chúng tôi có hai nhà bếp, một cho người hầu và một cho những người trong gia đình. Trong mỗi nhà bếp có một đầu bếp, một người rửa chén, và một người rửa rau. Người quản lý chuồng ngựa với nhiều người giúp việc trông coi năm trăm con ngựa của chúng tôi.

Ở Tsongkha chúng tôi có ruộng đất riêng, và chúng tôi canh tác với sự giúp đỡ của các tá điền (nông dân làm ruộng thuê)Nhưng ở Lhasa, những "miser" (nông dân không có ruộng đất)làm tất cả công việc, trong khi các địa chủ sống bằng sức lao động của những người này. Tôi đã tức giận khi thấy một số gia đình đối xử tồi tệ với "miser" của họ. Có khi "miser" phải đi sáu hay bảy ngày đường để đưa nông sản về cho chúng tôi, mà viên "chang-zo" và viên "nyerpa" của tôi cũng không thèm nói chuyện với họ, hay không thèm biết sự có mặt của họ. Tôi bảo những người này phải gọi "miser" bằng tên của họ đàng hoàng, chứ không được gọi họ là "kei" và "mei" ("người nam" và "người nữ").

Gyalo Thondup


Gyalo Thondup (trái) & Đặng Tiểu Bình

Tôi thức dậy lúc sáu giờ, lễ Phật hai trăm lạy rồi tụng kinh. Dùng điểm tâm lúc tám giờ rưỡi. Gần như suốt ngày tôi ở trong vườn Changseshar, tôi chỉ đi ra ngoài khi cần thiết, như đi thăm Đức Đạt Lai Lạt Ma, đi lễ chùa hay đi đến cung điện Potala trong những dịp lễ quan trọng. Tôi đi ngủ lúc chín giờ tối.

Sau khi sống ở Lhasa được khoảng một năm, tôi cho con trai Gyalo Thondup đi học ở trường Seshing. Cậu ta học ở đó hai năm rồi đi du học ở Trung Quốc. Ở trường cậu rất nghịch ngợm, hay trốn học đi thả diều với bạn bè. Một hôm thầy giáo bắt gặp cậu ta đang trốn học và đánh cậu ta bằng roi. Tôi đã nổi giận vì tôi nghĩ rằng người ta không được đánh trẻ con mạnh tay, nhưng rồi tôi thấy rằng đó là lỗi của con tôi. Sau đó cậu ta không trốn học nữa.

Một năm sau khi chúng tôi đến Lhasa, chồng tôi bảo con gái và con rể của chúng tôi tới ở với chúng tôi. Khi có mấy thương gia trở về Tsongkha, chồng tôi nhờ họ đưa hai đứa con này đi Lhasa cùng với họ. Tsering Dolma là con gái độc nhất của chúng tôi lúc đó, và chúng tôi muốn cô ta ở cùng với chúng tôi. Một năm sau khi cô ta đến Lhasa, con trai tôi, Thubten Jigme Norbu cũng đến ở với chúng tôi, và như vậy mọi người trong gia đình đã đoàn tụ. Norbu ở với chúng tôi một năm rồi đi tu ở Tu viện Drepung. Sáu năm sau cậu ta trở về Kumbum và trụ trì ở đó ba năm. Con trai tôi, Lobsang Samten ở cùng với Đức Đạt Lai Lạt Ma hơn hai năm rồi được cho đi học ở Seshing một năm và sau đó cũng đi tu ở Drepung.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/01/2021(Xem: 6389)
Chúng ta đã quen với thể loại thơ Thiền sáng tác nhiều thế kỷ trước từ các ngài Trần Nhân Tông, Tuệ Trung Thượng Sỹ, Hương Hải… Hay gần đây như với thơ của các ngài Nhất Hạnh, Mãn Giác, Tuệ Sỹ, Minh Đức Triều Tâm Ảnh, Ni Trưởng Trí Hải… Đó là nói cho chặt chẽ. Nếu nói cho nới rộng hơn, thơ Thiền cũng là Bùi Giáng, Phạm Công Thiện, Trịnh Công Sơn… Mỗi thời đại đều có những nét riêng, mỗi tác giả cũng là một thế giới độc đáo. Mặt khác, thơ Thiền mỗi quốc độ cũng khác. Trong khi phần lớn thơ Thiền Nhật Bản cô đọng với thể haiku, thơ Thiền Trung Hoa có nhiều bài hùng mạnh như tiếng sư tử hống, như với Chứng Đạo Ca của ngài Huyền Giác, hay Tín Tâm Minh của ngài Tăng Xán. Không ngộ được tự tâm, sẽ không có văn phong đầy sức mạnh như thế. Nơi đây, chúng ta nêu câu hỏi: Làn gió Thiền Tông đã ảnh hưởng vào thơ Hoa Kỳ ra sao? Và sẽ giới thiệu về bốn nhà thơ.
28/01/2021(Xem: 6413)
Mọi người đều biết câu chuyện Xá Lợi Phất thăm Cấp Cô Độc khi bị bịnh nặng và giảng cho Cấp Cô Độc bài pháp về quán chiếu, khi thiền trong Tứ Niệm Xứ mà chữa bịnh cho Cấp Cô Độc. Quán về Phật pháp tăng, 18 giới gồm 6 căn 6 trần 6 thức, rồi quán về 7 đại: đất nước gió lửa không kiến thức, quán về thời gian không gian và cuối cùng là quán về 5 uẩn. Cấp Cô Độc nghe xong hết bịnh. Cũng câu chuyện như vậy, nhưng nó khác đi chi tiết là lúc về già sắp mất: Xá Lợi Phất khai thị Cấp Cô Độc chú trọng về 5 uẩn, hãy trả 5 uẩn về lại cho 5 uẩn khi duyên hội tụ đã hết. Hãy trả Pháp về lại cho Pháp. Và Cấp Cô Độc chết thành A la hán vì đã ngộ được đạo về cõi trời.
28/01/2021(Xem: 5567)
Chùa Thiếu Lâm Tự mở ra khóa ngồi thiền cho 18 vị tu thành A la Hán. Khoá tu này trong 30 ngày ngồi trong tịnh thất suốt ngày đêm. Vị chủ trì là Hòa thượng trụ trì của Thiếu Lâm Tự. Thời bấy giờ là mùa xuân, cảnh đẹp hoa nở và thời tiết ấm áp. Mọi thiền sinh miệt mài tập trung thiền định đạt được 30 ngày miên mật thì bỗng xảy ra tiếng nói vọng vào từ ngoài cửa. Giọng nói đầy êm dịu thanh thoát và trong trẻo của một cô gái. Mỗi tiếng phát âm đi sâu vào tim người nghe một cảm giác êm dịu nhẹ nhàng như vuốt ve trái tim của con người.
27/01/2021(Xem: 3896)
Kính thưa quý đọc giả, tôi đột nhiên thấy được quyển sách với nhan đề “Khéo Dùng Cái Tâm” do Hội Phật Học Bát Nhã biên soạn, liền mượn về ngay để nghiên cứu. Tôi sở dĩ nghiên cứu tác phẩm này là do chủ đề “Khéo Dùng Cái Tâm” lôi cuốn tư tưởng của tôi. Chủ đề rất hấp dẫn khiến tôi tò mò không biết nội dung trong đó nói gì đành phải bỏ hết thời gian để đọc cho xong. Toàn bộ quyển sách chỉ nói về Ma Nhập, nhưng quý đọc giả cần phải đọc qua để biết Ma Nhập quan hệ như thế nào đối với con người chúng ta, đồng thời cần phải tỏ tường để tránh né và đối trị.
27/01/2021(Xem: 3988)
Đức Phật ngồi thiền 49 ngày dưới cội Bồ Đề mới ngộ được đạo tìm được đường giải thoát cho chúng sinh khỏi sinh tử luân hồi. Từ đó đến nay trên 2000 năm biết bao nhiêu cách tọa thiền, đi thiền, nằm thiền, trà thiền, tất cả quá nhiều phương pháp đường lối. Từ Nguyên thủy đến Đại thừa, có rất nhiều đường lối thiền.
27/01/2021(Xem: 4756)
Khi Đức Phật cố gắng ra được bìa rừng với thân đói rét gầy xương do tu khổ hạnh lâu ngày. Ngài kiệt sức và được cô bé chăn bò Cát Tường cho uống bát sữa, Người mới bảo cùng 5 anh em Kiều Trần Như rằng tu khổ hạnh diệt thân này là sai lầm không thể đạt được giác ngộ. 5 anh em Kiều Trần Như có người chế nhạo Đức Phật là con vua hoàng tử sống sung sướng nên không chịu nổi tu khổ hạnh. Riêng người anh cả bảo không phải vậy. Đức Phật chia tay với 5 anh em Kiều Trần Như và hẹn khi nào đạt được giác ngộ sẽ giảng ưu tiên cho 5 anh em.
25/01/2021(Xem: 4768)
Phật Giáo có mặt ở Mỹ vào giữa thế kỷ thứ 19, qua giới trí thức văn nghệ sĩ và các di dân từ Trung Hoa và Nhật Bản. Nhưng phải đợi đến đầu thế kỷ 20, khi học giả và thiền sư người Nhật Daisetsu Teitaro Suzuki viết sách bằng tiếng Anh truyền bá Thiền Tông tại Mỹ thì mới làm cho Thiền Phật Giáo thành món ăn tinh thần đặc biệt và hấp dẫn không những với người Mỹ mà còn với cả thế giới Tây Phương.
25/01/2021(Xem: 5135)
Ngày nay, vấn đề kỳ thị chủng tộc, giai cấp, giới tính được con người quan tâm và tranh đấu quyết liệt hơn bao giờ hết. Có lẽ một phần là do sự văn minh tiến bộ của xã hội đã giúp mở rộng nhận thức và tâm thức con người đối với những vấn đề xã hội như thế. Trong đó không thể không nói đến nhiều đóng góp của các phong trào dân quyền, nhân quyền, bình quyền, nữ quyền, v.v… trên thế giới từ vài thế kỷ qua đã xây dựng những nền tảng về lý thuyết và thực hành cho công cuộc đấu tranh đòi quyền sống và bình đẳng cho từng cá nhân trong cộng đồng xã hội.
22/01/2021(Xem: 5282)
Ngày 11 tháng 11 năm 2020 là sinh nhật thứ 199 năm của nhà văn và triết gia người Nga Fyodor Dostoevsky [sinh ngày 11 tháng 11 năm 1821]. Các tác phẩm văn học của ông đã khám phá tâm lý con người trong bầu không khí chính trị, xã hội và tâm linh bất an của xã hội Nga vào thế kỷ thứ 19, và liên hệ tới nhiều chủ đề triết học và tôn giáo, theo www.en.wikipedia.org
22/01/2021(Xem: 6564)
Emily Elizabeth Dickison là nhà thơ lớn của Mỹ trong thế kỷ thứ 19. Bà sống phần lớn cuộc đời trong cô độc. Bà chưa bao giờ lập gia đình. Bà có sở thích mặc đồ trắng và rất hiếm khi tiếp khách, thậm chí bà còn không muốn ra khỏi giường ngủ. Bà đã để lại một di sản văn học đồ sộ với khoảng 1,800 bài thơ. Bà có ảnh hưởng rất lớn đối với nền văn học Mỹ và được xem là nhà thơ tiền hiện đại tiên phong, theo www.en.wikipedia.org.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]