Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

03. Tuổi thơ

27/11/201311:33(Xem: 19136)
03. Tuổi thơ

Tự truyện của mẫu thân Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14

Tác giả: Diki Tsering

Biên tập & giới thiệu:Khedroob Thondup

Nguyên tác: Cụ Bà Diki Tsering

Việt dịch: Thích Nguyên Tạng

Diễn đọc: Pt Quảng An


3. Tuổi thơ




Việc phải sống xa ông bà nội của tôi đã xảy ra một cách bất ngờ. Năm 1905, ông nội mua một nông trại ở Guyahu (cũng được gọi là Tanantwan), cách Tsongkha khoảng bảy mươi lăm cây số. Ở đây nguyên là một vùng Hồi Giáo, sau khi người Hồi Giáo gây chiến tranh với người Trung Hoa, họ đã bị đánh đuổi ra khỏi xứ này, và lúc đó ông nội tôi mua nông trại này. Khi trở về Tsongkha, ông nội cho các con biết về việc mua đất của mình và hỏi ai muốn tới sống ở đó. Hai người em của cha tôi không muốn đi tới đó vì họ không thích sống chung với người Hồi Giáo, vì vậy cha mẹ tôi tình nguyện tới sống ở Guyahu.

Tôi không nhớ gia đình tôi đã di chuyển như thế nào vì lúc đó tôi mới được năm tuổi. Tôi chỉ nhớ là tôi thích đi tới chỗ ở mới của mình, vì đó là một trải nghiệm mới mẻ và tôi thích được nhìn thấy những gì mới lạ. Tôi thích nơi mình đã ra đời nhưng tôi không cảm thấy có một chút nhớ tiếc nào cả. Đó là thời thơ ngây và vô tư lự của tôi.

Guyahu là xứ sở đẹp đẽ, không khác làng Churkha nhiều, khoảng cách giữa hai nơi này không xa lắm, chúng tôi có thể đi qua lại bằng ngựa trong khoảng từ ba đến năm tiếng đồng hồ. Phương tiện giao thông trong thời đó chỉ có ngựa, xe ngựa, hay xe bò. Chúng tôi đi tới Guyahu với tám hay chín người hầu, một đàn dê, mấy người chăn gia súc, y phục, lương thực và những vật dụng cần thiết nhất.

Tôi rất đau lòng khi phải xa ông bà nội, nhưng ông nội đã thường đến thăm chúng tôi. Ông thích ngựa, vì vậy ông nắm lấy mọi dịp để cưỡi ngựa đi thăm người thân và bạn bè. Khi ra về ông hay nhắc nhở căn dặn Mẹ tôi "Doma Yangzom à, đừng cho mấy đứa nhỏ đi ra ngoài, mà phải giữ chúng ở trong sân, trong vườn, kẻo chó sói bắt chúng ăn thịt". Người ta nói đã có những vụ chó sói bắt trẻ con mang đi. Dù sao chúng tôi cũng là con gái nên rất ít khi được đi chơi bên ngoài, ngoại trừ ở trong sân. Cha mẹ tôi rất nghiêm khắc với các con.

Liên hệ giữa anh chị em thân mật và nồng ấm, với các anh em trai thường giữ vai trò các "ông bố nhỏ". Liên hệ giữa anh em trai và chị em gái thì đặc biệt dịu dàng, với một chút cảm giác buồn vì chị và em gái sẽ đi lấy chồng. Anh em trai cũng có bổn phận giúp chị, em gái có tuổi thơ sinh động và phóng khoáng để người chị hay người em gái có thể mang theo những ước mộng của mình đi vào tuổi trưởng thành.

Tôi có ba anh em trai. Anh tôi và vợ con ở cùng với gia đình. Một em trai của tôi chết vào năm mười tuổi. Khi em trai thứ hai của tôi ra đời, cha mẹ tôi tới hỏi một vị lạt ma là cậu ta sau này sẽ là một tu sĩ hay người tại gia. Vị lạt ma khuyên cha mẹ tôi cho cậu ta sống ở một tu viện, vì nếu sống ở nhà, cậu ta sẽ chết yểu. Người ta rất tin tưởng vị lạt ma này, vì vậy cha mẹ tôi quyết định cho em trai tôi đi tu ở tu viện Kumbum.

Tôi rất thân với người em trai này, vì biết rằng cậu ta sắp rời nhà để đi tu nên tôi dành nhiều tình cảm cho cậu ta hơn là cho những người khác. Thật vậy, khi thấy một anh chị em nào khác cãi nhau với cậu ta, tôi tức khắc chạy đến bênh vực cậu ta. Khi cậu ta rời nhà, cha mẹ tôi thường tới tu viện để thăm viếng và cậu ta cũng thường về thăm gia đình.

Đa số các gia đình Tây Tạng cho một con trai đi tu, trừ những gia đình có ít con trai, phải ở nhà để làm công việc đồng áng. Những gia đình nghèo thường cho con trai nhỏ tới sống ở chùa vì nuôi con trai ở nhà cho đến khi trưởng thành rất tốn kém. Ở Tsongkha người ta không nghe nói có ai cho con gái đi tu, mà cũng không có chùa nào trong vùng dành cho người nữ. Ở Lhasa, nhiều nhà cho con gái đi tu, một số vì lý do kinh tế, khi cha mẹ thấy việc nuôi con gái rồi gả chồng là nặng nhọc.


Một góc của làng Amdo, nơi sinh của Bà Diki Tsering

Sau khi gia đình dọn tới Guyahu, tuổi thơ của tôi đã chấm dứt, cuộc đời của tôi đi vào một giai đoạn mới. Không có thời gian để chơi đùa, tôi được cha mẹ tôi dạy về thế giới phụ nữ và về gia chánh để sửa soạn lấy chồng. Trong thời đó ở tỉnh Amdo, con gái phải làm nhiều việc trong nhà, dù còn khá nhỏ tuổi theo tiêu chuẩn Tây Phương, mới sáu hay bảy tuổi. Tôi phải học làm mì sợi, pha trà, và nướng bánh mì cho cả nhà. Năm bảy tuổi tôi phải đứng trên một cái ghế để có thể trộn bột bánh mì trên cái bàn cao ở trong bếp.

Ở phía sau nhà chúng tôi là sân và vườn có tường dầy và cao bao quanh. Khi cha mẹ tôi đi làm ở ngoài đồng, tôi phải ở nhà để sửa soạn bữa ăn trưa. Khi ra khỏi nhà, cha mẹ tôi gài chốt cửa ở bên ngoài. Lúc còn nhỏ chúng tôi đã được dạy phải quét dọn nhà cửa. Nếu chúng tôi không tắm rửa sạch sẽ thì cha mẹ tôi sẽ bảo "Tại sao con lại rửa mặt cứ như là con mèo lấy chân rửa mặt vậy?".

Ngoài nấu ăn và quét dọn, mẹ tôi còn dạy tôi may vá, thêu thùa. Ở Amdo, đàn bà con gái mà không biết thêu quần áo và giày vải thì thật là nhục nhã. Năm mười hai tuổi tôi đã biết may quần áo cho mình và cho các anh em.

Mẹ tôi rất giỏi việc kim chỉ. Khi tám đứa con gái đi lấy chồng, mẹ tôi tự tay may quần áo cho tất cả, không cần ai giúp đỡ. Không ai nhờ thợ may quần áo cho mình. Dù gia đình có bao nhiêu người và bao nhiều quần áo, giày và nón phải may, tất cả đều được người trong nhà tự may lấy.

Vào năm 1907 con gái chỉ được giáo dục như vậy. Thời đó không ai nghe nói con gái đi tới trường để học đọc, học viết. Con trai phải làm việc ở ngoài đồng ruộng. Nếu gia đình khá giả và có nhiều con trai thì họ sẽ được đi học. Trường học ở khá xa nhà của chúng tôi, ở quận Tsongkha, vì vậy anh và các em trai của tôi không đi học. Các trường học ở đây dạy tiếng Tây Tạng, tiếng Amdo, tiếng Trung Hoa và thổ ngữ Tsongkha. Cha tôi đã được học căn bản trong bốn năm nên biết đọc, biết viết.

Chúng tôi cũng được dạy tụng kinh cầu nguyện. Khi chúng tôi ở cùng với ông bà nội, vào mỗi buổi tối, ông nội tập hợp chúng tôi lại để tụng kinh. Sau khi dọn đến Guyahu, gia đình tôi vẫn tiếp tục duy trì việc này. Chúng tôi cùng nhau tụng kinh và lần chuỗi hạt trong một giờ hay hai giờ đồng hồ. Bà nội tụng kinh mỗi buổi sáng ở bàn thờ gia tiên, sau khi thắp đèn bơ và cúng các vị thần, sau đó Bà đi kinh hành ở ngoài sân, vừa đi vừa niệm chú và lần chuỗi. Nếu đang làm việc ở ngoài đồng mà trông thấy các vị Lạt Ma, chúng tôi tức khắc sụp lạy dưới đất ba lần. Là nông dân, chúng tôi không thông hiểu nhiều về giáo lý, nhưng chúng tôi có tín tâm lớn.

Ý kiến bạn đọc
18/12/201505:59
Khách
Tôi là Đức Lạt Ma 15, hiện đang sống tại Úc, năm nay 22 tuổi. Tôi sẽ chính thức làm việc khi đức Lạt Ma 14 qua đời.
Tên tôi là Bồ Tát Hạnh Nhơn.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/02/2013(Xem: 7448)
Trên thực tế, tất cả giáo huấn của Đức Phật đều nhằm giúp chúng ta vượt qua những khó khăn trong cuộc sống. Phương pháp tiếp cận thật sự rất hợp lý và thực tiễn.
17/02/2013(Xem: 12368)
AYYA KHEMA sinh năm 1923 trong một gia đình người Do Thái tại Bá Linh. Bà trốn khỏi Đức sang Tô Cách Lan (Scotland) năm 1938, cùng với 200 trẻ em khác. Sau đó được đoàn tụ với cha mẹ bà tại Trung Hoa. Khi chiến tranh thứ hai bùng nổ, bà và gia đình bị đưa vào các trại giam tù binh của Nhật. Sau chiến tranh, bà di cư sang Mỹ và lập gia đình tại đó. Vào khoảng đầu những năm 1960, bà chu du nhiều nơi khắp châu Á, và sau 10 năm hành thiền, bà bắt đầu dạy thiền và thuyết giảng về Phật giáo ở châu Âu, Bắc Mỹ và Úc.
14/02/2013(Xem: 6804)
Như thông lệ hằngnăm, ngày 4 tháng 2, 2013 vừa qua, Tổng Hội Phật Giáo Pháp đã gửi đến cho cácthành viên lá thư đầu năm số 13 nhằm tường trình các hoạt động của Tổng Hộitrong năm vừa qua. Nhìn vào sinh hoạt của một tổng hội Phật Giáo « nontrẻ » của một quốc gia Âu Châu, nơi mà Phật Giáo chỉ mới đặt chân vào chưađầy một thế kỷ quả là ta cũng có thể thấy được những điểm thật « mớimẻ » so với sinh hoạt của Phật Giáo tại các quốc gia Á Châu nơi mà PhậtGiáo đã bắt rễ từ lâu đời.
14/02/2013(Xem: 8634)
Khi tiếp cận với Kim Cang, tôi bỡ ngỡ và chưng hửng không ít. Lâu nay cứ nghe người ta đọc câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” như một câu thần chú để quên đi bao nội muộn phiền, rồi đọc Lục tổ Huệ Năng cũng thấy ngài kể chuyện một hôm đi bán củi, chỉ nghe lóm người ta đọc có câu kinh đó thôi mà đại ngộ, thế mà mình càng nghe càng mơ hồ, mù tịt.
13/02/2013(Xem: 7464)
Theo những nghiên cứu lâu dài và cẩn trọng, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã mạnh mẽ can ngăn các Phật tử Tây Tạng trong việc xoa dịu tinh linh hung tợn được gọi là Shugden (Dolgyal).
12/02/2013(Xem: 6572)
Lìa bỏ ngai vàng quyền uy, xem nhẹ công danh chức tước, thoát khỏi cảnh trần nhung hoa gấm lụa, vợ đẹp con ngoan, Thái tử Tất Đạt Đa vượt thành xuất gia học đạo, khai sáng chân lý tối thượng thừa, thành đạo Bồ đề, tựgiải thoát mình, đại từ phát nguyện cứu độ giải thoát hết thảy chúng sanh, xa lìa cảnh đời ô trọc phiền não, đạt đáo cứu cánh Niết Bàn tịch tịnh.
10/02/2013(Xem: 6643)
Những lời thuyết giảng của vị sư già đã mang lại cho chị một tâm hồn phong phú, bén nhạy và nhiều yêu thương hơn.
09/02/2013(Xem: 7340)
Là người Phật tử chân chính, chúng ta biết buông xả những thói quen có hại cho người, vật nhưng phải luôn có trách nhiệm đối với gia đình và xã hội. Nhằm phát huy Bồ đề tâm chúng ta ngày càng thêm vững chắc, để ta có cơ hội trả ơn công lao sinh thành của cha mẹ, mà vẫn chu toàn mọi việc.
09/02/2013(Xem: 7540)
Cách đây gần 30 năm, ông Huang Funeng bị mù sau khi mắc căn bệnh thoái hóa mắt. Kể từ đó, vợ ông, bà Wei Guiyi, trở thành đôi mắt của chồng. Hình ảnh người vợ còng dùng gậy tre dắt chồng mù không còn xa lạ với người dân ở tỉnh Quảng Tây.
07/02/2013(Xem: 15616)
Lịch Trình Hướng Dẫn Tu Học của Phái Đoàn Hoằng Pháp HT Thích Như Ðiển tại Âu Châu từ ngày 27-3-2013 đến 21-05-2013
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]